Vài lời từ người dịch:
Trong giai đoạn từ năm 1930 đến đầu Thế chiến II, bất chấp Hiệp ước hải quân Washington đã hạn chế trọng tải các tàu chiến của các cường quốc, đặc biệt là thiết giáp hạm. Nhưng với tình hình thế giới đang có những bất ổn toàn cầu đã buộc các cường quốc hải quân hàng đầu thế giới đồng loạt khởi động lại những chương trình đóng tàu quy mô lớn nhằm phát triển một loại tàu chiến mới: siêu thiết giáp hạm – những con tàu khổng lồ với hỏa lực, vỏ giáp và tầm hoạt động vượt trội mọi lớp thiết giáp hạm trước đó. Dù cuối cùng không có lớp tàu nào trong số này được hoàn thiện đầy đủ và đưa vào hoạt động thực chiến, chúng vẫn phản ánh sâu sắc tham vọng quân sự, tư duy chiến lược và khả năng công nghiệp của từng quốc gia.
Bài viết sẽ mô tả ngắn gọn về quá trình thiết kế, đặc tính kỹ thuật, bối cảnh lịch sử và số phận cuối cùng của năm lớp siêu thiết giáp hạm Montana, Lion, H, A-150 và Sovetsky Soyuz để thấy được những tàu chiến này không chỉ xem như là những công trình quân sự vĩ đại, mà còn như minh chứng cho một thời đại trong lịch sử hải quân thế giới, khi các cường quốc vẫn còn đặt niềm tin tối thượng vào sức mạnh của nòng pháo và thép bọc giáp.
Tất cả hình vẽ minh hoạ màu đều thuộc tác giả Paul Wright (trừ hình ảnh về H-42 trong bài viết này được người dịch thay ảnh gốc vì hình vẽ minh hoạ bị sai khi so sánh với thông tin của con tàu).
Đơn vị đo lường: 1 hải lý = 1.85km; 1yard = 0.9m; 1 feet = 0.3m; 1inch = 2.54cm/25.4mm; 1 hải lý/giờ= 1.85km/h; 1lb = 0.45kg.

GIỚI THIỆU

Bức tranh minh hoạ này về một siêu thiết giáp hạm lớp Montana đang di chuyển đã truyền tải được sức mạnh thô ráp của những con tàu này. Bức vẽ cho thấy mũi tàu kiểu clipper thanh thoát và dáng vẻ cân đối tổng thể, với hai tháp pháo chính ở mũi và đuôi tàu. Nếu những con tàu này được đóng, chúng sẽ được trang bị đầy đủ hệ thống điện tử và một số lượng khổng lồ pháo phòng không, như được thể hiện ở đây. Radar ưu việt và khả năng phòng không vượt trội là hai trong số những lợi thế chính mà các thiết giáp hạm của Hải quân Hoa Kỳ có được so với các thiết kế nước ngoài. (Naval History and Heritage Command)
Bức tranh minh hoạ này về một siêu thiết giáp hạm lớp Montana đang di chuyển đã truyền tải được sức mạnh thô ráp của những con tàu này. Bức vẽ cho thấy mũi tàu kiểu clipper thanh thoát và dáng vẻ cân đối tổng thể, với hai tháp pháo chính ở mũi và đuôi tàu. Nếu những con tàu này được đóng, chúng sẽ được trang bị đầy đủ hệ thống điện tử và một số lượng khổng lồ pháo phòng không, như được thể hiện ở đây. Radar ưu việt và khả năng phòng không vượt trội là hai trong số những lợi thế chính mà các thiết giáp hạm của Hải quân Hoa Kỳ có được so với các thiết kế nước ngoài. (Naval History and Heritage Command)
Cuốn sách này sẽ lần theo quá trình thiết kế, phát triển và số phận cuối cùng của các siêu thiết giáp hạm chưa hoàn thành mà các cường quốc hải quân hàng đầu dự định chế tạo trong giai đoạn ngay trước và trong Thế chiến thứ hai. Không một con tàu nào trong số này được hoàn thiện và thiết kế của chúng ở các mức độ hoàn chỉnh khác nhau, nhưng câu chuyện về những con quái vật biển này vẫn rất hấp dẫn.
Hải quân Hoa Kỳ (USN) đã đóng mười thiết giáp hạm trong thời kỳ Thế chiến thứ hai nhưng vẫn lo ngại về mối đe dọa tiềm tàng từ thế hệ siêu thiết giáp hạm tiếp theo của phe Trục. Để đối phó với sự phát triển đó, người Mỹ đã lên kế hoạch đóng năm siêu thiết giáp hạm lớp Montana. So với lớp Iowa trước đó, Montana sẽ được bảo vệ tốt hơn, hỏa lực mạnh hơn, nhưng tốc độ chậm hơn. Đây là loại thiết giáp hạm mà Hải quân Hoa Kỳ muốn chế tạo nếu không bị ràng buộc bởi các hiệp ước hải quân.
Các kỹ sư thiết kế của Anh đã phát triển kế hoạch cho một phiên bản cải tiến của lớp King George V, được gọi là lớp Lion. Đây sẽ là phản ứng của Hải quân Hoàng gia Anh (RN) trước chương trình siêu thiết giáp hạm của Đức. Bốn con tàu đã được lên kế hoạch; hai chiếc được đặt lườn trước chiến tranh, nhưng tất cả cuối cùng đều bị hủy bỏ và tháo dỡ.
Lớn hơn nhiều so với lớp Lion là lớp H của Hải quân Đức. Là một phần trong chương trình mở rộng hải quân trước chiến tranh của Đức theo Kế hoạch “Z”, lớp H thực chất là một chuỗi các thiết kế thiết giáp hạm. Đầu tiên là lớp H-39, một thiết kế cải tiến của lớp Bismarck. Sáu con tàu được lên kế hoạch; hai chiếc được đặt lườn nhưng bị tháo dỡ vào cuối năm 1941. Các thiết kế còn lại của lớp H chỉ tồn tại trên giấy. Thiết kế H-41 là phiên bản H-39 với pháo lớn hơn. Các thiết giáp hạm H-42, H-43 và H-44 là những ảo tưởng không có khả năng được hiện thực hóa. Thiết kế H-44 có trọng lượng choán nước lên tới 141.500 tấn khi đầy tải và được trang bị pháo 20 inch.
Không chịu thua kém, Hải quân Liên Xô cũng lên kế hoạch cho một chương trình mở rộng hải quân lớn trước chiến tranh, xoay quanh lớp Sovetsky Soyuz. Họ đã từng có kế hoạch chế tạo tới 15 con tàu thuộc lớp này. Nếu được hoàn thành, chúng sẽ sánh ngang về kích thước với lớp Montana. Tuy nhiên, một chương trình đầy tham vọng như vậy đã vượt quá khả năng công nghiệp của Liên Xô thời đó, nhưng bốn chiếc đã được đặt lườn và ba chiếc được tiến hành thi công. Việc xây dựng bị đình chỉ sau cuộc xâm lược của Đức và cả ba cuối cùng đều bị hủy bỏ.
Lớp cuối cùng được đề cập là đóng góp của Hải quân Đế quốc Nhật Bản (IJN) vào cuộc chạy đua siêu thiết giáp hạm. Chúng được thiết kế để mạnh hơn bất kỳ thiết kế nước ngoài đương thời nào nhằm duy trì ưu thế vượt trội so với các thiết giáp hạm Mỹ mà lớp Yamato đã tạo ra. Hai con tàu thuộc lớp này, được biết đến với tên gọi là Thiết kế A-150, đã được lên kế hoạch. Nếu được hoàn thiện, chúng sẽ được trang bị pháo 20,1 inch – loại pháo lớn nhất từng được lắp trên một thiết giáp hạm. Không con tàu nào trong số này từng được đặt lườn.

QUÁ TRÌNH THIẾT KẾ THIẾT GIÁP HẠM

Bismarck được chụp ảnh khi đang trên đường đến Na Uy trước khi thực hiện cuộc đột kích ra Đại Tây Dương. Trong chiến dịch tác chiến duy nhất của mình, Bismarck bị hư hại bởi đạn pháo từ Prince of Wales, sau đó bị vô hiệu hóa bởi một quả ngư lôi đánh trúng bánh lái, và cuối cùng bị đánh chìm bởi một trận mưa đạn pháo từ 8 đến 16 inch. Các phiên bản sau của lớp H đã cố gắng rút kinh nghiệm từ thảm họa thời chiến này, đặc biệt là trong việc ngăn chặn một sự cố bánh lái tương tự xảy ra. (Naval History and Heritage Command)
Bismarck được chụp ảnh khi đang trên đường đến Na Uy trước khi thực hiện cuộc đột kích ra Đại Tây Dương. Trong chiến dịch tác chiến duy nhất của mình, Bismarck bị hư hại bởi đạn pháo từ Prince of Wales, sau đó bị vô hiệu hóa bởi một quả ngư lôi đánh trúng bánh lái, và cuối cùng bị đánh chìm bởi một trận mưa đạn pháo từ 8 đến 16 inch. Các phiên bản sau của lớp H đã cố gắng rút kinh nghiệm từ thảm họa thời chiến này, đặc biệt là trong việc ngăn chặn một sự cố bánh lái tương tự xảy ra. (Naval History and Heritage Command)
Thiết kế thiết giáp hạm là nghệ thuật tìm kiếm sự cân bằng giữa khả năng bảo vệ, hỏa lựctốc độ. Bất kỳ sự nhấn mạnh quá mức nào vào một trong ba yếu tố này đều sẽ làm suy giảm hai yếu tố còn lại. Bảo vệ là một đặc tính then chốt, nhưng không một con tàu nào có thể mang đủ giáp để được bảo vệ trước mọi mối đe dọa tiềm tàng. Thông thường, thiết giáp hạm được thiết kế để chống lại loại pháo có cùng cỡ nòng với vũ khí chính của chính nó. Ngoài việc mang đủ giáp để chống lại pháo kích, thiết giáp hạm còn cần có hệ thống phòng thủ dưới nước toàn diện để vô hiệu hóa ngư lôi và thủy lôi. Tốc độ cao là điều luôn được mong muốn, nhưng tốc độ càng cao thì càng cần nhiều động cơ, và điều đó lại kéo theo chi phí về khối lượng. Thiết giáp hạm nổi tiếng nhất với dàn pháo chính hạng nặng, nhưng cỡ pháo càng lớn thì trọng lượng dành cho chính khẩu pháo và hệ thống bảo vệ đi kèm càng tăng.

Bảo vệ

Iowa, được thể hiện trong bức ảnh chụp tháng 12 năm 1944, được thiết kế để đạt tốc độ cao, với thân tàu tương đối mỏng và hệ thống động lực mạnh mẽ. Tuy nhiên, con tàu vẫn được bảo vệ chắc chắn và mang một dàn pháo chính mạnh mẽ gồm ba tháp pháo ba nòng 16 inch/50 như trong hình. Tuy vậy, Hải quân Hoa Kỳ vẫn ưu tiên một thiết giáp hạm được trang bị và bảo vệ mạnh mẽ hơn – đây chính là cơ sở cho lớp Montana. (Naval History and Heritage Command)
Iowa, được thể hiện trong bức ảnh chụp tháng 12 năm 1944, được thiết kế để đạt tốc độ cao, với thân tàu tương đối mỏng và hệ thống động lực mạnh mẽ. Tuy nhiên, con tàu vẫn được bảo vệ chắc chắn và mang một dàn pháo chính mạnh mẽ gồm ba tháp pháo ba nòng 16 inch/50 như trong hình. Tuy vậy, Hải quân Hoa Kỳ vẫn ưu tiên một thiết giáp hạm được trang bị và bảo vệ mạnh mẽ hơn – đây chính là cơ sở cho lớp Montana. (Naval History and Heritage Command)
Hệ thống phòng vệ tập trung quanh thành trì bọc giáp bao bọc toàn bộ các khu vực thiết yếu của thiết giáp hạm. Khu vực này thường kéo dài từ tháp pháo chính phía trước đến tháp pháo chính phía sau cùng. Trong khu vực này bao gồm các hầm đạn và buồng máy của con tàu. Phía bên ngoài thành trì bọc giáp, phần lớn hải quân chọn cách để phần vỏ tàu không được bọc giáp (khái niệm gọi là "tất cả hoặc không có gì"- all or nothing); tuy nhiên, người Đức và người Nga lại không theo đuổi cách tiếp cận này. Thành trì bọc giáp được bảo vệ bởi một vành đai giáp chính để chống lại pháo kích từ bên mạn và giáp nằm ngang để bảo vệ trước hỏa lực bắn cầu vồng từ tầm xa. Giáp vành đai bao gồm một lớp giáp chính thường được đặt tại hoặc trên mực nước. Một số thiết kế đặt giáp vành đai vào bên trong thân tàu và làm nghiêng nó, nhằm gia tăng độ dày hiệu dụng. Dưới vành đai chính là một giáp dưới được thiết kế để chống lại những viên đạn rơi cách tàu một đoạn nhưng vẫn còn đủ tốc độ xuyên qua nước để đâm thủng thân tàu. Phần giáp này có hình thon ở phía dưới để tận dụng việc nước làm chậm đạn pháo. Bổ sung cho giáp bên là vách ngăn ngư lôi, thường được đặt sau bầu bảo vệ ngư lôi hoặc hệ thống bảo vệ bên mạn. Hai đầu của thành lũy được gia cố bằng các vách ngăn bọc giáp.
Việc bảo vệ theo chiều ngang nhằm chống lại pháo bắn cầu vồng từ tầm xa ngày càng trở nên quan trọng do sức công phá của các loại bom thả từ máy bay ngày càng lớn. Giáp ngang (hoặc giáp boong) thường kéo dài cùng độ dài với thành trì bọc giáp. Thiết bị lái tàu đặt bên ngoài thành trì và được bảo vệ đặc biệt. Giáp ngang thường được bố trí thành nhiều tầng sàn. Tầng cao nhất, gọi là sàn bom, có độ dày đủ để kích hoạt ngòi nổ của đạn pháo hoặc bom. Sàn giáp chính là lớp dày nhất, được thiết kế để chống lại hiệu ứng nổ của bom trên sàn bom hoặc chịu được va chạm trực tiếp của đạn pháo hay bom. Tầng dưới cùng là sàn chống mảnh, có độ dày vừa đủ để ngăn mảnh văng xuyên qua sàn giáp chính lọt vào khu vực trọng yếu.
Có hai loại giáp được sử dụng trên thiết giáp hạm. Giáp tôi mặt (còn gọi là giáp xi măng) được xử lý đặc biệt để tạo ra bề mặt cứng và mặt sau dẻo dai. Loại giáp này nhằm làm vỡ viên đạn khi va chạm, trong khi phần mặt sau dẻo giúp ngăn tấm giáp vỡ vụn. Các khu vực quan trọng như vành đai chính, mặt trước tháp pháo, tháp chỉ huy và ống đạn thường được lắp giáp tôi mặt. Giáp đồng nhất thì có cấu trúc đồng đều, và do đó dựa vào tính dẻo và khả năng phân tán năng lượng va chạm của đạn pháo trên diện tích rộng hơn. Loại giáp này được sử dụng cho các lớp giáp ngang và hệ thống bảo vệ bên hông, nơi tính đàn hồi đóng vai trò then chốt.
Tấm giáp dày 25 inch này, hiện đang được trưng bày tại Xưởng hải quân Washington, vốn được chế tạo cho thiết giáp hạm lớp Yamato chưa hoàn thiện Shinano. Sau chiến tranh, tấm giáp này được đưa vào thử nghiệm với các đầu đạn bắn từ pháo 16 inch/50 của Hải quân Hoa Kỳ. Khi được bắn ở cự ly gần, tấm giáp bị xuyên thủng dễ dàng, như thể hiện trong hình. Có rất nhiều yếu tố ảnh hưởng đến khả năng xuyên phá của một loại đạn nhất định, nhưng từ hình ảnh này có thể thấy rõ sự khó khăn trong việc bảo vệ một tàu chiến trước những quả đạn pháo hạm cỡ lớn. (Naval History and Heritage Command)
Tấm giáp dày 25 inch này, hiện đang được trưng bày tại Xưởng hải quân Washington, vốn được chế tạo cho thiết giáp hạm lớp Yamato chưa hoàn thiện Shinano. Sau chiến tranh, tấm giáp này được đưa vào thử nghiệm với các đầu đạn bắn từ pháo 16 inch/50 của Hải quân Hoa Kỳ. Khi được bắn ở cự ly gần, tấm giáp bị xuyên thủng dễ dàng, như thể hiện trong hình. Có rất nhiều yếu tố ảnh hưởng đến khả năng xuyên phá của một loại đạn nhất định, nhưng từ hình ảnh này có thể thấy rõ sự khó khăn trong việc bảo vệ một tàu chiến trước những quả đạn pháo hạm cỡ lớn. (Naval History and Heritage Command)
Phần lớn thân tàu phía trên vành đai chính không được bọc giáp. Ngoại trừ những khu vực liên quan đến vũ khí và chỉ huy điều khiển thì vẫn bọc giáp. Các tháp pháo chính được bảo vệ đặc biệt kỹ lưỡng với mặt trước cực dày, cùng giáp dày ở nóc, hai bên và phía sau. Khu vực từ hầm đạn dẫn vào tháp pháo, gọi là ống đạn, cũng được bảo vệ rất cẩn mật. Mọi khu vực có chứa thuốc súng và đạn pháo đều được ưu tiên bảo vệ cao nhất, vì nếu trúng đạn ở đây có thể gây ra vụ nổ thảm khốc. Pháo hạng hai (pháo phụ) chỉ được bảo vệ ở mức thấp hơn nhiều, thường chỉ đủ để chống lại mảnh đạn từ pháo chính phát nổ hoặc trúng đạn từ pháo hạng hai của đối phương. Khu vực được bảo vệ chuyên dụng cuối cùng phía trên vành đai chính là tháp chỉ huy. Đây là khu vực trọng yếu vì bộ chỉ huy tàu và các sĩ quan tham mưu điều hành tàu trong trận đánh mặt nước từ nơi được bảo vệ này.
Thiệt hại dưới nước rất có khả năng gây tổn thất nghiêm trọng cho một thiết giáp hạm. Toàn bộ mạn tàu quá lớn để có thể phủ giáp cho toàn bộ, do đó phần đáy thân tàu (bên trong thành lũy bọc giáp) được trang bị một hệ thống bảo vệ bên mạn để chống lại sát thương từ ngư lôi (và ở mức độ thấp hơn là thủy lôi). Hệ thống này thường gồm hai phần. Một bầu bảo vệ ngư lôi (torpedo blister) được gắn bên ngoài thân tàu để kích nổ ngư lôi càng xa thân tàu càng tốt. Nhược điểm của bầu ngư lôi là làm tăng chiều ngang thân tàu (có thể gây khó khăn khi vào xưởng sửa chữa) và ảnh hưởng xấu đến tốc độ. Phần thứ hai của hệ thống là một loạt khoang trong thân tàu, được đổ đầy chất lỏng hoặc để rỗng nhằm hấp thu năng lượng nổ của ngư lôi. Một vách ngăn ngư lôi thường được đặt sau các khoang này. Một số thiết giáp hạm được trang bị hệ thống bảo vệ đáy tàu chuyên biệt. Hệ thống này tương tự như hệ thống bảo vệ bên mạn với tối đa ba lớp, một số được đổ đầy chất lỏng và một số để rỗng. Cấu trúc chia khoang phức tạp cũng được áp dụng để giảm thiểu thiệt hại và ngập nước nếu trúng đòn ở khu vực này. Bảo vệ đáy tàu là điểm yếu của phần lớn thiết giáp hạm, tuy nhiên khả năng bị trúng vào khu vực này được xem là thấp.

Hệ thống động lực

Hệ thống động lực là một thành phần thiết kế then chốt, bởi vì một phần rất lớn không gian bên trong của thiết giáp hạm được dành riêng cho nó. Thông thường, hệ thống này có thể chiếm tới khoảng một phần ba thể tích bên trong tàu, sau khi lắp đặt nồi hơi, máy chính và toàn bộ thiết bị liên quan. Thể tích dành cho máy móc càng lớn, diện tích thân tàu cần được bảo vệ càng tăng. Trọng lượng của hệ thống máy móc cùng với lớp giáp được thiết kế để bảo vệ nó có ảnh hưởng rất lớn đến lượng choán nước tổng thể của con tàu. Việc dành quá nhiều thể tích và trọng lượng cho hệ thống động lực đồng nghĩa với việc ít trọng lượng hơn có thể được phân bổ cho giáp bảo vệ hoặc hỏa lực. Do đó, hiệu suất của hệ thống máy là một yếu tố thiết kế cực kỳ quan trọng, vì hệ thống hiệu quả thường nhỏ gọn hơn và nhẹ hơn.
Hải quân Hoa Kỳ (USN) dẫn đầu trong việc phát triển hệ thống máy móc có hiệu suất cao nhờ áp dụng nồi hơi áp suất cao vận hành ở nhiệt độ cao. Điều này cho phép tạo ra công suất lớn với hệ thống máy nhẹ hơn, từ đó giúp tiết kiệm trọng lượng và tăng tầm hoạt động. Tất cả các hải quân đều sử dụng một dạng turbine hơi nào đó, biến hơi nước do nồi hơi sinh ra thành năng lượng quay để truyền tới các trục chân vịt. Người Đức đi đầu trong công nghệ động cơ diesel và từng đề xuất sử dụng chúng cho lớp thiết giáp hạm lớp H, nhưng kế hoạch này chưa bao giờ trở thành hiện thực. Lợi thế chính của động cơ diesel là tăng phạm vi hoạt động của con tàu.

Vũ khí

Các khẩu pháo 18,1 inch được trang bị trên lớp Yamato là loại pháo lớn nhất từng được lắp đặt trên một tàu chiến. Trong ảnh, Yamato đang trong giai đoạn hoàn thiện cuối cùng tại Căn cứ Hải quân Kure, ngày 20 tháng 9 năm 1941. Tàu sân bay bên phải là Hosho, và tàu tiếp tế Mamiya xuất hiện ở hậu cảnh. Lưu ý tháp pháo số 3 cỡ 18,1 inch của Yamato, với khối lượng lên tới 2.560 tấn. Tháp pháo 20,1 inch theo thiết kế A-150 được tính toán sẽ còn nặng hơn nữa – lên đến con số đáng kinh ngạc 2.780 tấn. Phần lớn trọng lượng này đến từ giáp trước dày 31,5 inch và giáp nóc dày 11,6 inch. (Naval History and Heritage Command)
Các khẩu pháo 18,1 inch được trang bị trên lớp Yamato là loại pháo lớn nhất từng được lắp đặt trên một tàu chiến. Trong ảnh, Yamato đang trong giai đoạn hoàn thiện cuối cùng tại Căn cứ Hải quân Kure, ngày 20 tháng 9 năm 1941. Tàu sân bay bên phải là Hosho, và tàu tiếp tế Mamiya xuất hiện ở hậu cảnh. Lưu ý tháp pháo số 3 cỡ 18,1 inch của Yamato, với khối lượng lên tới 2.560 tấn. Tháp pháo 20,1 inch theo thiết kế A-150 được tính toán sẽ còn nặng hơn nữa – lên đến con số đáng kinh ngạc 2.780 tấn. Phần lớn trọng lượng này đến từ giáp trước dày 31,5 inch và giáp nóc dày 11,6 inch. (Naval History and Heritage Command)
Mục đích chính của các thiết giáp hạm là mang theo dàn pháo chính gồm các khẩu đại pháo hải quân cỡ lớn. Tất cả các siêu thiết giáp hạm được đề cập trong cuốn sách này đều được thiết kế để trang bị pháo cỡ ít nhất 16 inch, và Hải quân Đế quốc Nhật Bản (IJN) thậm chí còn vượt xa con số này nhằm duy trì khả năng bắn xa hơn các đối thủ tiềm tàng. Pháo được đo theo đường kính nòng (ví dụ: 16 inch) và theo chiều dài nòng (một khẩu pháo 16in/50 có chiều dài bằng 50 lần đường kính nòng). Pháo càng lớn thì đạn bắn ra càng lớn. Đạn càng nặng thì càng ổn định khi bay, điều này giúp duy trì tốc độ và cuối cùng là nâng cao độ chính xác. Đạn nặng cũng có thể mang lượng thuốc nổ lớn hơn. Chiều dài nòng pháo cũng rất quan trọng, vì nòng càng dài thì vận tốc đầu nòng càng cao. Khả năng xuyên giáp phụ thuộc vào nhiều yếu tố, nhưng các yếu tố chính là cỡ nòng, trọng lượng đạn và vận tốc đầu nòng.
Các loại pháo được lên kế hoạch trang bị cho các siêu thiết giáp hạm trong cuốn sách này được trình bày trong bảng dưới. Tất cả đều là vũ khí mạnh với tốc độ bắn từ một đến hai phát mỗi phút. Loại đạn xuyên giáp có chụp đầu Mark 8 của Hải quân Hoa Kỳ nặng 2.700 lb, với vận tốc đầu nòng đạt 2.500 feet mỗi giây, có sức xuyên phá đáng nể. Ở cự ly 20.000 yard, đạn này có thể xuyên được 20 inch giáp thép thẳng đứng. Loại đạn này được trang bị cho lớp Iowa và cũng sẽ được trang bị cho lớp Montana nếu các tàu này hoàn tất. Để minh họa tầm quan trọng của trọng lượng đạn, có thể so sánh với khẩu pháo 16in/45 Mark II của Hải quân Hoàng gia Anh (RN), bắn loại đạn nặng 2.375 lb, chỉ có thể xuyên được 15,3 inch giáp thẳng đứng ở khoảng cách 20.000 yard và 3,2 inch giáp nằm ngang ở cùng cự ly.
Bức ảnh chụp Iowa năm 1945 cho thấy tháp pháo số 3 cỡ 16 inch/50 của con tàu. Iowa đang thực hiện tiếp nhiên liệu từ một tàu dầu, với ống khói của tàu này xuất hiện ở góc phải phía trước ảnh. Iowa được trang bị ba tháp pháo loại này. Lớp Montana được thiết kế bổ sung thêm một tháp pháo thứ tư cỡ 16 inch/50, khiến chúng trở thành những siêu thiết giáp hạm được trang bị hỏa lực mạnh nhất từng được Hải quân Mỹ lên kế hoạch chế tạo. Một loạt bắn toàn bộ từ 12 khẩu pháo 16 inch sẽ có trọng lượng lên đến 32.400 pound. Không có thiết giáp hạm nào khác có thể sánh được với  dàn hỏa lực này. (Naval History and Heritage Command)
Bức ảnh chụp Iowa năm 1945 cho thấy tháp pháo số 3 cỡ 16 inch/50 của con tàu. Iowa đang thực hiện tiếp nhiên liệu từ một tàu dầu, với ống khói của tàu này xuất hiện ở góc phải phía trước ảnh. Iowa được trang bị ba tháp pháo loại này. Lớp Montana được thiết kế bổ sung thêm một tháp pháo thứ tư cỡ 16 inch/50, khiến chúng trở thành những siêu thiết giáp hạm được trang bị hỏa lực mạnh nhất từng được Hải quân Mỹ lên kế hoạch chế tạo. Một loạt bắn toàn bộ từ 12 khẩu pháo 16 inch sẽ có trọng lượng lên đến 32.400 pound. Không có thiết giáp hạm nào khác có thể sánh được với dàn hỏa lực này. (Naval History and Heritage Command)
Một thứ cũng quan trọng không kém hiệu suất pháo là khả năng của hệ thống điều khiển hỏa lực hỗ trợ để thực sự bắn trúng mục tiêu. Việc tạo ra các giải pháp điều khiển hỏa lực chính xác một cách ổn định là điều rất khó, ngay cả với các hệ thống phức tạp được lắp đặt trên thiết giáp hạm. Bởi vì thiết giáp hạm thường khai hỏa từ tầm xa để giảm nguy cơ bị đối phương phản pháo, nên số lần bắn trúng là rất hiếm. Nền tảng cho việc bắn tầm xa là kính đo xa, dùng để xác định cự ly tới mục tiêu. Để bắn chính xác, cự ly này phải liên tục được cập nhật và dự đoán dựa trên vị trí của tàu đang khai hỏa. Việc theo dõi điểm rơi của loạt đạn của chính mình và điều chỉnh giải pháp bắn là điều rất quan trọng. Tính toán phức tạp này được thực hiện bởi một máy tính analog, nhận dữ liệu từ mọi thành phần trong hệ thống điều khiển hỏa lực để tính ra giải pháp bắn chính xác. Vào giai đoạn cuối chiến tranh, khi các siêu thiết giáp hạm trong cuốn sách này dự kiến được đưa vào hoạt động, kính đo xa ở một số hải quân đã được thay thế bằng radar. Radar về cơ bản hoạt động như một thiết bị đo xa chính xác hơn rất nhiều. Hải quân Hoa Kỳ là lực lượng sử dụng radar rộng rãi nhất và sở hữu thiết bị tốt nhất. Radar Mark 8 tần số S có thể theo dõi mục tiêu và các điểm rơi của đạn đồng đội, đồng thời có thể bắt được mục tiêu cỡ thiết giáp hạm ở cự ly 40.000 yard. Radar mang lại cho thiết giáp hạm khả năng bắn không cần nhìn thấy mục tiêu, cho phép chúng tấn công chính xác vào ban đêm hoặc trong điều kiện tầm nhìn kém. Hải quân Hoàng gia Anh (RN) cũng sử dụng pháo binh dẫn đường bằng radar, trong khi các hải quân Nhật, Đức và Liên Xô tụt hậu đáng kể trong lĩnh vực này.
Bismarck và Tirpitz được trang bị dàn pháo chính gồm tám khẩu pháo 15 inch. Bức ảnh này cho thấy Tirpitz đang dẫn đầu một đội hình chiến hạm rời khỏi một vịnh hẹp Na Uy, với hai tháp pháo 15 inch phía sau hiện rõ trong ảnh. Khi chuyển sang pháo 16 inch trên lớp H-39, người Đức đã nâng cấp từ loại pháo 15 inch bắn đạn nặng 1.764 pound lên loại pháo có đạn nặng 2.271 pound, mang lại khả năng xuyên phá lớn hơn tương ứng. Nếu họ áp dụng thiết kế tháp pháo ba nòng cho dàn pháo chính của thiết giáp hạm, trọng lượng hệ thống pháo sẽ được tiết kiệm, nhưng họ vẫn lựa chọn duy trì cấu hình tháp pháo đôi. (Naval History and Heritage Command)
Bismarck và Tirpitz được trang bị dàn pháo chính gồm tám khẩu pháo 15 inch. Bức ảnh này cho thấy Tirpitz đang dẫn đầu một đội hình chiến hạm rời khỏi một vịnh hẹp Na Uy, với hai tháp pháo 15 inch phía sau hiện rõ trong ảnh. Khi chuyển sang pháo 16 inch trên lớp H-39, người Đức đã nâng cấp từ loại pháo 15 inch bắn đạn nặng 1.764 pound lên loại pháo có đạn nặng 2.271 pound, mang lại khả năng xuyên phá lớn hơn tương ứng. Nếu họ áp dụng thiết kế tháp pháo ba nòng cho dàn pháo chính của thiết giáp hạm, trọng lượng hệ thống pháo sẽ được tiết kiệm, nhưng họ vẫn lựa chọn duy trì cấu hình tháp pháo đôi. (Naval History and Heritage Command)

Vùng miễn nhiễm

Vùng miễn nhiễm của một thiết giáp hạm là khoảng cách mà tại đó hỏa lực bắn cầu vồng và hỏa lực trực tiếp của đối phương kém hiệu quả nhất. Các nhà thiết kế thiết giáp hạm luôn tìm cách tạo ra vùng miễn nhiễm càng rộng càng tốt cho tàu của mình. Đây cũng là một yếu tố chiến thuật quan trọng trong các trận chiến giữa thiết giáp hạm. Đạn pháo được bắn từ thiết giáp hạm đối phương ở cự ly gần sẽ bay đến mục tiêu với vận tốc cao theo quỹ đạo gần như ngang. Nếu đạn trúng mục tiêu, nó sẽ va vào giáp bên (giáp vành đai) với góc xiên nhỏ hoặc giáp ngang với góc xiên lớn. Mặc dù ở cự ly ngắn, đạn pháo có thể xuyên được cả những lớp giáp dày nhất, nhưng đến một khoảng cách nào đó, nó sẽ không còn đủ động năng để xuyên thủng lớp giáp có độ dày nhất định. Giáp vành đai càng dày thì giới hạn trong của vùng miễn nhiễm càng gần (nghĩa là kẻ địch phải tiến rất sát mới xuyên được). Giới hạn ngoài của vùng miễn nhiễm là cự ly xa nhất mà hỏa lực bắn cầu vồng không thể xuyên qua giáp ngang của thiết giáp hạm. Đạn bắn từ cự ly xa sẽ di chuyển theo quỹ đạo đạn đạo và rơi xuống mục tiêu với góc rơi dốc. Góc rơi càng vuông góc với lớp giáp ngang thì khả năng xuyên giáp càng cao. Một thiết giáp hạm có lớp giáp ngang dày hơn sẽ có vùng miễn nhiễm dài hơn. Khoảng cách giữa hai giới hạn này, được đo bằng yard, chính là vùng miễn nhiễm của thiết giáp hạm. Ví dụ, lớp Montana của Hải quân Hoa Kỳ có vùng miễn nhiễm từ 18.000 đến 32.000 yard khi đối đầu với loại đạn bắn ra từ pháo 16in/50.
Vùng miễn nhiễm của một thiết giáp hạm.
Vùng miễn nhiễm của một thiết giáp hạm.

CÁC LỚP SIÊU THIẾT GIÁP HẠM

Hải quân Mỹ– Lớp Montana

Nguồn gốc
Mô hình này, có niên đại từ năm 1940–41, cho thấy thiết kế sơ bộ của một thiết giáp hạm lớp Montana. Cấu hình cơ bản trông khá giống với thiết giáp hạm lớp Iowa, với mũi tàu dài, cấu trúc thượng tầng phía trước gọn gàng, và hai ống khói. Mô hình cho thấy rõ rằng radar đã được tích hợp vào thiết kế ngay từ những giai đoạn đầu. Dàn pháo hạng hai được thể hiện rõ, nhưng không có khẩu pháo phòng không nào được mô phỏng. (Naval History and Heritage Command)
Mô hình này, có niên đại từ năm 1940–41, cho thấy thiết kế sơ bộ của một thiết giáp hạm lớp Montana. Cấu hình cơ bản trông khá giống với thiết giáp hạm lớp Iowa, với mũi tàu dài, cấu trúc thượng tầng phía trước gọn gàng, và hai ống khói. Mô hình cho thấy rõ rằng radar đã được tích hợp vào thiết kế ngay từ những giai đoạn đầu. Dàn pháo hạng hai được thể hiện rõ, nhưng không có khẩu pháo phòng không nào được mô phỏng. (Naval History and Heritage Command)
Mười lăm thiết giáp hạm cũ của Hải quân Hoa Kỳ (USN) còn phục vụ vào thời điểm bắt đầu chiến tranh đều có điểm chung là tập trung vào hỏa lực và phòng vệ hơn là tốc độ. Những tàu mới nhất trong số này trang bị 12 khẩu pháo 14 inch hoặc tám khẩu 16 inch, và được bảo vệ tốt ngang bằng với bất kỳ đối thủ nước ngoài nào cùng thời kỳ. Tuy nhiên, điều này phải trả giá bằng tốc độ thấp (chỉ đạt 20–21 hải lý/giờ), chậm hơn so với các thiết giáp hạm nước ngoài đương thời. Sau 14 năm gián đoạn, USN bắt đầu đóng một thiết giáp hạm mới vào năm 1937. Làm việc trong khuôn khổ hạn chế của Hiệp ước Hải quân London lần thứ hai, tàu có lượng giãn nước tiêu chuẩn 35.000 tấn và được trang bị dàn pháo chính gồm chín khẩu 16 inch. Sự tiến bộ trong hệ thống động lực cho phép đạt tốc độ tối đa 28 hải lý/giờ. Tuy nhiên, giới hạn về tải trọng buộc phải có sự thỏa hiệp ở khía cạnh phòng vệ. Lớp tiếp theo, đặt theo tên con tàu dẫn đầu South Dakota, được khởi đóng năm 1939. Bốn tàu được đóng theo thiết kế này. Đây là sự trở lại với truyền thống của USN – nhấn mạnh yếu tố phòng vệ – trong trường hợp này là khả năng chống lại hỏa lực pháo 16 inch. Ngay cả trong giới hạn 35.000 tấn, các nhà thiết kế Mỹ vẫn trang bị được chín khẩu 16in/45 và hệ thống động lực đủ khả năng đẩy con tàu đạt 27,5 hải lý/giờ. South Dakota có lẽ là thiết giáp hạm theo hiệp ước tốt nhất mà bất kỳ hải quân nào từng sản xuất.
Chỉ có một lớp thiết giáp hạm của USN được đóng gần như hoàn toàn không bị giới hạn bởi các hiệp ước, đó là lớp Iowa, lớp thiết giáp hạm lớn nhất và mạnh nhất từng được USN chế tạo. Bốn tàu thuộc lớp này đại diện cho một cách tiếp cận mới của các nhà thiết kế Mỹ: nhấn mạnh vào tốc độ. Với lượng giãn nước vượt 48.000 tấn, lớp Iowa vẫn duy trì được hỏa lực và phòng vệ ở mức cao.
Bản thiết kế USS Montana (BB-67) ( A.L.Raven)
Bản thiết kế USS Montana (BB-67) ( A.L.Raven)
Lớp Montana đánh dấu sự trở lại với cách tiếp cận truyền thống của USN – đặt ưu tiên vào hỏa lực và phòng vệ hơn là tốc độ. Từ góc độ này, có thể thấy lớp Iowa với trọng tâm là tốc độ là một trường hợp đặc biệt, không phải xu hướng mà USN muốn tiếp tục. Hai tàu đầu tiên thuộc lớp Iowa (mang số hiệu BB 61 và BB 62) thuộc chương trình ngân sách năm tài khóa 1940 (FY 40). Vào giữa năm 1939, người ta giả định rằng chương trình FY 41 sẽ bao gồm hai tàu Iowa nữa (BB 63 và BB 64). Sang FY 42, dường như USN sẽ quay lại thiết kế thiết giáp hạm truyền thống với tốc độ thấp hơn. Nếu điều này xảy ra, tàu mới sẽ mang số hiệu BB 65 – công tác thiết kế lớp Montana được thực hiện dưới dạng các biến thể của BB 65. (Trên thực tế, hai tàu Iowa nữa – Illinois (BB 65) và Kentucky (BB 66) – được đặt lườn nhưng không bao giờ hoàn tất. Lớp Montana sau đó được gán các số hiệu bắt đầu từ BB 67.)
Các nhà thiết kế của lớp Montana gần như không còn bị hạn chế về tải trọng. Ngay cả với điều kiện thuận lợi này, họ vẫn gặp khó khăn trong việc tích hợp mọi thứ mong muốn vào một thân tàu có lượng giãn nước hợp lý. Yếu tố quan trọng nhất là yêu cầu trang bị dàn pháo chính gồm mười hai khẩu 16in/50 có khả năng bắn loại đạn nặng mới nặng 2.700 lb. Theo thông lệ tiêu chuẩn của USN, thiết giáp hạm phải được bảo vệ đủ để chống lại đạn pháo cùng cỡ mà chính nó mang theo, vì vậy các nhà thiết kế phải tìm cách bảo vệ tàu trước chính loại đạn 2.700 lb đó. Đây là yếu tố chính khiến lớp Montana có kích thước và lượng giãn nước lớn đến vậy.
Dựa trên giả định rằng BB 65 sẽ không phải là bản lặp lại của lớp Iowa, Ban Tổng hợp (General Board – cơ quan chịu trách nhiệm đưa ra yêu cầu và phê duyệt thiết kế tàu) đã chỉ đạo Cục Thiết kế và Sửa chữa (C&R – sau sáp nhập với Cục Kỹ thuật vào năm 1940 thành Cục Tàu chiến) vào giữa năm 1939 bắt đầu thiết kế một thiết giáp hạm 45.000 tấn, tốc độ 27 hải lý/giờ, mang 12 pháo 16 inch và có khả năng chống đạn pháo nặng 2.700 lb. Các nhà thiết kế tại C&R đã từng thực hiện bài toán này vào năm 1938: với lượng giãn nước cho phép, chỉ có thể bảo vệ tàu khỏi đạn pháo nặng 2.250 lb. Để đạt được vùng miễn nhiễm tương đương lớp Iowa (18.000–30.000 yard), người ta ước tính lượng giãn nước phải tăng lên từ 50.000 đến 55.000 tấn.
Mô hình chi tiết hơn này của một thiết giáp hạm lớp Montana được chụp tại Xưởng Hải quân New York vào ngày 26 tháng 11 năm 1941. Một số điểm khác biệt so với thiết giáp hạm lớp Iowa có thể thấy rõ: bổ sung một tháp pháo 406mm thứ tư ở phía sau, hạ thấp một boong vị trí của dàn pháo hạng hai để tăng độ ổn định, và khu vực chứa xuồng cứu sinh ở giữa tàu. Nếu các tàu này được đóng, nhiều khả năng khu vực dành cho xuồng cứu sinh sẽ được thay thế bằng thêm nhiều pháo phòng không. (Naval History and Heritage Command)
Mô hình chi tiết hơn này của một thiết giáp hạm lớp Montana được chụp tại Xưởng Hải quân New York vào ngày 26 tháng 11 năm 1941. Một số điểm khác biệt so với thiết giáp hạm lớp Iowa có thể thấy rõ: bổ sung một tháp pháo 406mm thứ tư ở phía sau, hạ thấp một boong vị trí của dàn pháo hạng hai để tăng độ ổn định, và khu vực chứa xuồng cứu sinh ở giữa tàu. Nếu các tàu này được đóng, nhiều khả năng khu vực dành cho xuồng cứu sinh sẽ được thay thế bằng thêm nhiều pháo phòng không. (Naval History and Heritage Command)
Hạn chế về thân tàu 45.000 tấn (do điều khoản leo thang trong Hiệp ước London cho phép nâng giới hạn từ 35.000 lên 45.000 tấn nếu có nước khác vi phạm giới hạn thấp hơn) được gỡ bỏ trong vòng thiết kế tiếp theo vào tháng 10 năm 1939. Ban Tổng hợp yêu cầu hai phương án: một tàu mang 12 pháo 16 inch, khoảng 20 pháo 5in/38 phụ trợ, được bảo vệ trước đạn pháo 16 inch nặng và có vùng miễn nhiễm từ 18.000 đến 30.000 yard. Một phương án có tốc độ tối đa 27,5 hải lý/giờ, phương án còn lại có tốc độ rất cao – 32,5 hải lý/giờ. Kết quả thiết kế cho thấy tàu chậm hơn có thể đóng trên thân tàu giãn nước 51.400 tấn; nếu sử dụng pháo phụ 5in/54 mới thay vì 5in/38 thì tăng lên 53.400 tấn. Phiên bản nhanh hơn sẽ có kích thước khổng lồ – dài 1.000 feet và lượng giãn nước tiêu chuẩn 63.500 tấn.
Vòng thiết kế tiếp theo vào tháng 2 yêu cầu năm phương án nữa, tất cả đều giới hạn mớn nước ở mức 36 feet. Nhiều phần trong thiết kế dựa vào cấu trúc sẵn có, như hệ thống động lực từ lớp South Dakota và Iowa. Chiều dài tàu dao động từ 840 đến 1.000 feet, với phương án được bảo vệ tốt nhất có vùng miễn nhiễm từ 18.000 đến 32.000 yard. Các nghiên cứu tiếp tục được tiến hành cho đến tháng 6 năm 1940, khi mọi biến thể có thể – từ thiết giáp hạm tốc độ 27,5 hải lý được bọc giáp nặng, đến tàu tốc độ 33 hải lý có mức bảo vệ thấp hơn – đều đã được phát triển.
Bức ảnh này cho thấy góc nhìn từ đuôi tàu của mô hình một siêu thiết giáp hạm lớp Montana. Các cơ sở dành cho máy bay được thể hiện rõ ràng, bao gồm một cần cẩu máy bay lớn, hai máy phóng quay và chỗ chứa cho ba hoặc bốn thủy phi cơ. Mô hình không thể hiện bất kỳ vị trí nào có thể dành cho pháo phòng không. Vào thời điểm đó, mức độ bảo vệ phòng không của tất cả các tàu thuộc Hải quân Hoa Kỳ đều còn thiếu sót; sau khi Mỹ tham chiến, các tàu được trang bị nhiều pháo phòng không nhất có thể. Đối với lớp Montana, điều này gần như chắc chắn bao gồm hai bệ pháo phòng không 40mm bốn nòng ở đuôi tàu, hai bệ nữa ở boong sau, và một bệ trên đỉnh tháp pháo 406mm số 3. Ngoài ra, một số lượng lớn các khẩu pháo 20mm nòng đơn sẽ được bố trí trên khu vực boong phía sau. (Naval History and Heritage Command)
Bức ảnh này cho thấy góc nhìn từ đuôi tàu của mô hình một siêu thiết giáp hạm lớp Montana. Các cơ sở dành cho máy bay được thể hiện rõ ràng, bao gồm một cần cẩu máy bay lớn, hai máy phóng quay và chỗ chứa cho ba hoặc bốn thủy phi cơ. Mô hình không thể hiện bất kỳ vị trí nào có thể dành cho pháo phòng không. Vào thời điểm đó, mức độ bảo vệ phòng không của tất cả các tàu thuộc Hải quân Hoa Kỳ đều còn thiếu sót; sau khi Mỹ tham chiến, các tàu được trang bị nhiều pháo phòng không nhất có thể. Đối với lớp Montana, điều này gần như chắc chắn bao gồm hai bệ pháo phòng không 40mm bốn nòng ở đuôi tàu, hai bệ nữa ở boong sau, và một bệ trên đỉnh tháp pháo 406mm số 3. Ngoài ra, một số lượng lớn các khẩu pháo 20mm nòng đơn sẽ được bố trí trên khu vực boong phía sau. (Naval History and Heritage Command)
Công tác thiết kế đã bị ảnh hưởng bởi các sự kiện thực tế. Sự thất thủ của nước Pháp vào tháng 6 năm 1940 khiến Quốc hội Mỹ thông qua đạo luật mở rộng hải quân quy mô lớn – Đạo luật Hải quân Hai Đại Dương (Two-Ocean Navy Act). Để kịp phê duyệt đóng tàu mới, thiết kế phải được đóng băng. Ban Tổng hợp đã chọn phương án thiết kế mang mã số BB 65-5A, là một trong những phương án giáp nặng nhưng tốc độ thấp hơn, với lượng giãn nước 57.500 tấn, mang 12 pháo 16 inch, vùng miễn nhiễm từ 18.000 đến 32.000 yard và tốc độ tối đa 28 hải lý/giờ. Bộ trưởng Hải quân đã phê chuẩn thiết kế này vào ngày 19 tháng 8 năm 1940. Đây chưa phải là bước cuối cùng trong quy trình – phê chuẩn này không đồng nghĩa với việc cho phép khởi công. Tuy nhiên, điều đó cho phép tiếp tục hoàn thiện thiết kế cho đến khi khởi đóng. Các điều chỉnh sau đó bao gồm rút ngắn chiều dài xuống còn 890 feet và cải tiến khả năng phòng vệ. Phải đến tháng 6 năm 1941 thì thiết kế cuối cùng mới được chốt lại.
Bảo vệ
Sơ đồ giáp của Montana.
Sơ đồ giáp của Montana.
Cục Quân giới (Bureau of Ordnance) coi pháo 16in/50 của Hải quân Hoa Kỳ là loại pháo tốt nhất trong phân loại của nó, do đó nó trở thành cơ sở để thiết kế hệ thống bảo vệ cho lớp Montana. USN không hề biết rằng lớp Yamato của Hải quân Đế quốc Nhật Bản được trang bị pháo 18,1 inch và rằng người Nhật dự tính sẽ trang bị pháo còn lớn hơn cho lớp thiết giáp hạm tiếp theo của họ. Pháo 16in/50 bắn loại đạn nặng 2.700 lb với vận tốc đầu nòng đạt 2.500 feet mỗi giây. Để duy trì vùng miễn nhiễm từ 18.000 đến 32.000 yard, các tính toán cho thấy giáp vành đai chính cần dày 16,1 inch và giáp sàn tàu cần dày 5,8 inch.
Theo đó, lớp Montana được trang bị giáp vành đai giáp chính dày 16,1 inch, đặt nghiêng 19 độ bên trong, tương đương với 21 inch giáp thẳng đứng. Bảo vệ theo phương ngang bao gồm ba lớp: boong chống bom (bomb deck), boong giáp chính (main armor deck), và boong chống mảnh (splinter deck). Tại các khu vực trọng yếu nhất (trên hầm đạn), tổng độ dày giáp có thể lên tới gần 10 inch.
Bảo vệ chống ngư lôi và mìn dưới nước được đặc biệt chú trọng vì sức mạnh của ngư lôi do máy bay phóng đã được chứng minh trong chiến tranh. Hệ thống bảo vệ mạn tàu gồm bốn khoang được thiết kế để hấp thu năng lượng từ vụ nổ ngư lôi hoặc mìn: hai khoang ngoài cùng được đổ đầy chất lỏng, còn hai khoang trong để rỗng. Bảo vệ đáy tàu gồm ba lớp đáy kéo dài toàn bộ chiều dài khu vực thành trì bọc giáp. Hệ thống bảo vệ mạn tàu và sự chia khoang cực kỳ kỹ lưỡng được thiết kế để mang lại mức bảo vệ chống tổn thất dưới nước cao nhất từng được trang bị cho một thiết giáp hạm của USN. Thông tin chi tiết về bảo vệ của lớp Montana được trình bày bên dưới.
Hệ thống động lực
Hệ thống động lực dự kiến dành cho lớp Montana được thiết kế để tạo ra công suất trục 172.000 mã lực. Con số này thấp hơn mức 212.000 mã lực của lớp Iowa, nhưng vẫn đủ để đẩy con tàu đạt tốc độ tối đa 28 hải lý/giờ. Cách bố trí bên trong đặt các nồi hơi ở phía ngoài các tuabin nhằm tiết kiệm không gian và trọng lượng, đồng thời tăng mức độ chia khoang. Cách bố trí này nhấn mạnh việc phân khu và cách ly các thành phần khác nhau của hệ thống, tuy nhiên nó lại dẫn đến việc hệ thống động lực được chia thành hai nhóm riêng biệt. Đây là cách tiếp cận hợp lý vì nó làm tăng độ linh hoạt và khả năng chống chịu thiệt hại chiến đấu, nhưng trong trường hợp này lại có điểm yếu: nồi hơi ở một nhóm không thể cấp hơi cho tuabin ở nhóm còn lại. Tốc độ tối đa 28 hải lý/giờ là đủ cho một trận hải chiến giữa các hạm đội, nhưng lại là mức giới hạn đối với hoạt động cùng đội hình tác chiến tàu sân bay – nhiệm vụ mà lớp Montana sẽ đảm nhận nếu được hoàn thành.
Cùng một mô hình được chụp từ mũi tàu. Góc nhìn này cho thấy chiều ngang lớn của các tàu này – chúng là những thiết giáp hạm đầu tiên của Hải quân Hoa Kỳ được thiết kế ngay từ đầu mà không tính đến khả năng đi qua Kênh đào Panama. Lưu ý các thiết bị phá thủy lôi (mine paravanes) đặt trên boong phía trước các tháp pháo 406mm. Phía sau các tháp pháo là tháp chỉ huy bọc giáp nặng. Khu vực phía trước của tàu có không gian boong mở với các góc bắn rõ ràng, và sẽ được trang bị các bệ pháo 40mm và 20mm nếu các tàu này được đóng. (Naval History and Heritage Command)
Cùng một mô hình được chụp từ mũi tàu. Góc nhìn này cho thấy chiều ngang lớn của các tàu này – chúng là những thiết giáp hạm đầu tiên của Hải quân Hoa Kỳ được thiết kế ngay từ đầu mà không tính đến khả năng đi qua Kênh đào Panama. Lưu ý các thiết bị phá thủy lôi (mine paravanes) đặt trên boong phía trước các tháp pháo 406mm. Phía sau các tháp pháo là tháp chỉ huy bọc giáp nặng. Khu vực phía trước của tàu có không gian boong mở với các góc bắn rõ ràng, và sẽ được trang bị các bệ pháo 40mm và 20mm nếu các tàu này được đóng. (Naval History and Heritage Command)
Vũ khí
Một trong những yếu tố then chốt dẫn dắt thiết kế lớp Montana là yêu cầu phải trang bị pháo 16in/50. Trong các phương án thiết kế ban đầu, nhiều tổ hợp tháp pháo đôi, ba và bốn nòng được cân nhắc, tạo ra dàn pháo chính từ chín đến mười hai khẩu. Thiết kế cuối cùng chọn cấu hình bốn tháp pháo ba nòng – hai ở phía trước và hai ở phía sau. Loạt bắn toàn mạn (broadside) từ 12 khẩu pháo này có tổng khối lượng lên tới 32.400 lb – lớn nhất từng được dự kiến trang bị cho một thiết giáp hạm của Hải quân Hoa Kỳ, và còn lớn hơn cả lớp Yamato của Nhật.
Ban Tổng hợp từng cân nhắc ngắn gọn việc sử dụng pháo 18 inch cho lớp thiết giáp hạm mới, nhưng sau cùng quyết định giữ nguyên pháo 16 inch. Lý do chính có vẻ là vì nếu sử dụng pháo 18 inch trong giới hạn lượng giãn nước khoảng 45.000 tấn thì dàn pháo chính sẽ chỉ còn sáu khẩu.
Một dàn pháo phụ mạnh mẽ cũng là yếu tố quan trọng, vì nó cần tầm bắn và sức công phá đủ để đối phó với các tàu khu trục lớn hơn của Hải quân Nhật Bản. Hải quân Hoa Kỳ từng hy vọng trang bị pháo hai nhiệm 6in/47, nhưng loại pháo này gặp trễ trong quá trình phát triển và không sẵn sàng cho đến sau chiến tranh. Do đó, USN buộc phải quay trở lại sử dụng pháo hai nhiệm 5 inch, tuy nhiên lớp Montana được dự kiến trang bị pháo cải tiến 5in/54 lắp trong 10 tháp nóng đôi – thay thế cho pháo 5in/38 tầm bắn hạn chế nhưng đáng tin cậy của lớp Iowa. Loại 5in/54 mới bắn ra quả đạn nặng 70 lb, có tầm bắn tối đa 25.900 yard.
Thiết giáp hạm lớp Montana có hình dáng giống với lớp Iowa, cũng như được trang bị cùng pháo chính cỡ 16 inch nhưng con tàu lại được trang bị 4 tháp pháo cùng chiều rộng thân tàu lớn hơn. Montana là thiết giáp hạm đầu tiên của Mỹ được thiết kế rộng hơn so với tiêu chuẩn của kênh đào Panama. (Richard Allison)
Thiết giáp hạm lớp Montana có hình dáng giống với lớp Iowa, cũng như được trang bị cùng pháo chính cỡ 16 inch nhưng con tàu lại được trang bị 4 tháp pháo cùng chiều rộng thân tàu lớn hơn. Montana là thiết giáp hạm đầu tiên của Mỹ được thiết kế rộng hơn so với tiêu chuẩn của kênh đào Panama. (Richard Allison)
Vì lớp Montana được thiết kế trước khi Hoa Kỳ tham chiến, khả năng phòng không ban đầu là không đầy đủ. Đây cũng là tình trạng phổ biến ở các tàu USN cùng thời, tuy nhiên điểm yếu này dần được khắc phục khi thiết kế được điều chỉnh sau chiến tranh bùng nổ. Trong trường hợp của Montana, không rõ cấu hình phòng không cuối cùng sẽ như thế nào. Như thường lệ với tàu USN thời kỳ này, việc bổ sung thêm vũ khí phòng không gặp khó khăn vì trọng lượng phần trên gia tăng sẽ ảnh hưởng tới độ ổn định. Thiết kế ban đầu của Montana chỉ có sáu khẩu pháo máy 1.1in bốn nòng. Những khẩu này được thay bằng pháo 40mm bốn nòng vào tháng 1 năm 1941. Phiên bản thiết kế cuối cùng vào tháng 6 năm 1942 nâng số lượng pháo 40mm lên mười khẩu. Nếu các tàu được đóng, gần như chắc chắn số pháo 40mm sẽ tăng mạnh, có thể lên tới 24 khẩu. Hiệu quả của pháo 40mm trong việc chống máy bay buộc các nhà thiết kế phải tìm cách bù đắp trọng lượng tăng thêm này bằng các biện pháp giảm trọng lượng khác – chẳng hạn như giảm độ dày giáp trên nóc tháp pháo 16 inch.
Số lượng pháo 20mm lắp đơn là rất lớn, vì loại này không cần nguồn điện ngoài và có thể lắp ở bất kỳ đâu có trường bắn thoáng. Thiết kế ban đầu dự kiến 20 khẩu. Nếu tàu được đóng, con số này dự kiến sẽ tăng đáng kể – có thể lên tới 54 khẩu.
Như các thiết giáp hạm khác của USN, không gian được dành riêng cho các phương tiện hàng không phục vụ mục đích hiệu chỉnh pháo. Hai máy phóng thủy phi cơ đặt ở đuôi tàu để phóng máy bay, và một cần cẩu duy nhất để kéo chúng trở lại. Không gian lưu trữ đủ cho ba đến bốn chiếc. Đến thời điểm các tàu này được biên chế, loại thủy phi cơ mang theo sẽ là Curtiss SC Seahawk. Tuy nhiên trong chiến tranh, thủy phi cơ hiếm khi được sử dụng đúng chức năng hiệu chỉnh pháo ban đầu, vì nhiệm vụ này được radar thực hiện tốt hơn – trừ khi tàu đang bắn yểm trợ hỏa lực lên bờ.
Số phận
Những gì sẽ trở thành lớp thiết giáp hạm lớn nhất và mạnh nhất của Hải quân Hoa Kỳ được phê chuẩn như một phần của Đạo luật Hải quân Hai Đại Dương (Two-Ocean Navy Act) ngày 19 tháng 7 năm 1940. Dự kiến các tàu sẽ hoàn thành trong giai đoạn từ tháng 7 đến tháng 11 năm 1945. Chúng được đặt tên và gán số hiệu như sau:
Tuy nhiên, không con tàu nào trong số này được đặt lườn. Có 2 lý do: sự thiếu hụt về công nghiệp (chủ yếu là thiếu thép), và sự ưu tiên cao hơn – được Tổng thống Roosevelt ủng hộ – dành cho các tàu sân bay. Dù Ban Tổng hợp đã cố gắng cứu vãn chương trình lớp Montana, tất cả các tàu đã bị hủy bỏ vào ngày 21 tháng 7 năm 1943.
USS MONTANA (BB 67)
Montana sẽ là chiếc dẫn đầu trong tổng số năm tàu nếu việc đóng lớp này được hoàn tất. Với sự kết hợp giữa hỏa lực và tốc độ, Montana sẽ trở thành thiết giáp hạm mạnh nhất từng được Hải quân Hoa Kỳ đưa vào biên chế. Trong hình, con tàu được mô tả theo sơ đồ ngụy trang Measure 21 trong phiên bản sửa đổi năm 1945.

Hải quân Hoàng gia Anh – lớp Lion

Nguồn gốc
Lớp King George V là cơ sở thiết kế cho lớp Lion. Do đó, hai lớp tàu này sẽ trông rất giống nhau nếu lớp Lion từng được đóng. Trong ảnh là tàu Prince of Wales năm 1941. Khác biệt chính giữa hai lớp là dàn pháo chính của Lion gồm các khẩu pháo 406mm trong các tháp pháo ba nòng, trong khi Prince of Wales trang bị pháo chính cỡ 356mm trong các tháp pháo bốn nòng và hai nòng. (Naval History and Heritage Command)
Lớp King George V là cơ sở thiết kế cho lớp Lion. Do đó, hai lớp tàu này sẽ trông rất giống nhau nếu lớp Lion từng được đóng. Trong ảnh là tàu Prince of Wales năm 1941. Khác biệt chính giữa hai lớp là dàn pháo chính của Lion gồm các khẩu pháo 406mm trong các tháp pháo ba nòng, trong khi Prince of Wales trang bị pháo chính cỡ 356mm trong các tháp pháo bốn nòng và hai nòng. (Naval History and Heritage Command)
Các nhà thiết kế hải quân Anh đã buộc phải đưa ra nhiều sự thỏa hiệp trong thiết kế lớp King George V, vì vậy Hải quân Hoàng gia (RN) quyết tâm hoàn thành một lớp thiết giáp hạm mới nhằm khắc phục những điểm yếu được xác định ở lớp trước đó. Có nhiều yếu tố khiến lớp King George V trở nên kém thỏa đáng – trong đó có sự thiếu hụt nhân lực thiết kế có kinh nghiệm và tình trạng thiếu thốn về giáp và pháo. Tuy nhiên, nguyên nhân lớn nhất dẫn đến các hạn chế của lớp tàu này là do yêu cầu tiết kiệm và việc tuân thủ nghiêm ngặt giới hạn 35.000 tấn cho thiết kế thiết giáp hạm khi đó. Mọi sự thỏa hiệp đều là cần thiết để có thể khởi công tàu vào năm 1937 và hạ thủy những chiếc đầu tiên trước năm 1939. Dù đã phục vụ hiệu quả trong thời chiến, các thiết giáp hạm lớp King George V vẫn bị đánh giá là thiết kế kém nhất trong số các thiết giáp hạm tuân theo giới hạn 35.000 tấn theo hiệp ước.
Việc chiếc Prince of Wales bị đánh chìm vào ngày 10 tháng 12 năm 1941 bởi máy bay phóng ngư lôi của Nhật Bản là một cú sốc đối với Hải quân Hoàng gia, và cho thấy rõ hệ thống phòng ngư lôi dưới nước của lớp King George V là không đủ. Dù hệ thống phòng vệ chống ngư lôi được thiết kế để chịu được vụ nổ tương đương 1.000 pound TNT, nó vẫn bị xuyên phá bởi các ngư lôi phóng từ máy bay Nhật với đầu nổ có khối lượng chưa bằng một nửa mức đó. Dù hệ thống phòng ngư lôi tỏ ra kém hiệu quả, phần còn lại của gói bảo vệ vẫn hoạt động tốt. Cũng cần lưu ý rằng giáp của Anh rất xuất sắc, có khả năng chống đạn cao hơn khoảng 25% so với giáp tương đương của Mỹ.
Các tàu lớp King George V cũng bị đánh giá là trang bị hỏa lực yếu hơn đáng kể so với các thiết giáp hạm cùng thời của nước ngoài. Sau một loạt quyết định sai lầm, dàn pháo chính được ấn định là mười khẩu 14 inch, bố trí trong ba tháp pháo – hai tháp bốn nòng và một tháp hai nòng. Ngoài ra, tháp pháo 14 inch bốn nòng kiểu mới gặp nhiều vấn đề kỹ thuật trong quá trình thử nghiệm. Việc chấp nhận trang bị pháo 14 inch thay vì 16 inch là sự thỏa hiệp bắt buộc để có thể hoàn thành tàu sớm hơn – điều rất cần thiết vào thời điểm mà Hải quân Anh đang thiếu thiết giáp hạm nghiêm trọng.
Một vấn đề khác là tầm hoạt động kém. Nguyên nhân chính nằm ở sự thiếu hiệu quả của hệ thống turbine Parsons. Vào năm 1944, tầm hoạt động của chiếc Duke of York chỉ được tính toán ở mức 5.600 hải lý ở tốc độ 10 hải lý/giờ – điều này gây nhiều khó khăn tại Đại Tây Dương và càng trở nên nghiêm trọng hơn khi RN bắt đầu các chiến dịch quy mô lớn tại Thái Bình Dương.
Tàu Howe, một trong các thiết giáp hạm lớp King George V của Hải quân Hoàng gia Anh, đang đi qua kênh đào Suez vào năm 1944 trên đường gia nhập Hạm đội Viễn Đông Anh. Với lớp ngụy trang thời chiến, hệ thống điện tử đầy đủ và các tổ hợp pháo phòng không, đây là hình ảnh gần như tương đồng với hình dáng mà một tàu lớp Lion sẽ có vào giai đoạn cuối chiến tranh, ngoại trừ việc các tháp pháo ba nòng 406mm sẽ thay thế dàn pháo chính 356mm của Howe. (Naval History and Heritage Command)
Tàu Howe, một trong các thiết giáp hạm lớp King George V của Hải quân Hoàng gia Anh, đang đi qua kênh đào Suez vào năm 1944 trên đường gia nhập Hạm đội Viễn Đông Anh. Với lớp ngụy trang thời chiến, hệ thống điện tử đầy đủ và các tổ hợp pháo phòng không, đây là hình ảnh gần như tương đồng với hình dáng mà một tàu lớp Lion sẽ có vào giai đoạn cuối chiến tranh, ngoại trừ việc các tháp pháo ba nòng 406mm sẽ thay thế dàn pháo chính 356mm của Howe. (Naval History and Heritage Command)
Ngay khi bắt đầu đóng hai chiếc đầu tiên của lớp King George V vào năm 1937, công việc thiết kế một lớp thiết giáp hạm mới đã được khởi động giữa năm đó. Lúc này, việc Nhật Bản từ chối ký Hiệp ước Hải quân London đã cho phép nâng giới hạn cỡ pháo chính từ 14 inch lên 16 inch. Tuy nhiên, giới hạn 35.000 tấn vẫn còn hiệu lực, và các nhà thiết kế Anh gặp nhiều khó khăn để đạt được một thiết kế cân bằng trong giới hạn đó. Sự nới lỏng đến từ quyết định của Bộ Hải quân Anh viện dẫn điều khoản leo thang (escalator clause) trong Hiệp ước London năm 1936, qua đó nâng giới hạn lượng giãn nước tiêu chuẩn lên 45.000 tấn. Dù vậy, RN vẫn quyết định giới hạn lớp tàu mới ở mức 40.000 tấn. Hành động kiềm chế này không được các cường quốc hải quân khác lúc đó – vốn đang thiết kế các siêu thiết giáp hạm mới – đáp lại. Vào tháng 2 năm 1938, Bộ Hải quân Anh ban hành yêu cầu thiết kế cho lớp tàu mới. Các yêu cầu này bao gồm: dàn pháo chính gồm 9 khẩu 16 inch, dàn pháo phụ gồm 16 khẩu 5.25 inch hai nhiệm vụ, giáp mạn đủ sức chống được đạn pháo 16 inch bắn từ cự ly 14.000 yard, giáp ngang đủ sức chịu bom 1.000 lb thả từ độ cao 15.000 feet hoặc đạn pháo 16 inch bắn từ 30.000 yard, và hệ thống chống ngư lôi chịu được đầu đạn 1.000 lb. Tốc độ tối đa của các tàu – dù có hỏa lực và giáp rất mạnh – được đặt ở mức 30 hải lý/giờ. Thiết kế sơ bộ bắt đầu từ đầu năm 1938. Rất nhanh chóng, người ta nhận thấy rằng để đáp ứng yêu cầu này, lượng giãn nước tiêu chuẩn tối thiểu phải đạt 39.500 tấn.
Tiến độ được đẩy nhanh, và Bộ Hải quân phê chuẩn một bản thiết kế vào tháng 5 năm 1938. Khi tăng lượng giãn nước tiêu chuẩn từ 39.500 lên 40.750 tấn, dàn pháo phụ được nâng lên 16 khẩu 5.25 inch, động cơ được tăng sức mạnh nhẹ và vành đai giáp chính được thiết kế đồng đều hơn. Phiên bản thiết kế chỉnh sửa này được hoàn tất vào tháng 6 năm 1938. Đến tháng 12 cùng năm, thiết kế hợp đồng chính thức được hoàn thành.
Tàu Vanguard, được chụp từ góc nhìn trực diện phía trên, dài hơn lớp Lion khoảng 30 feet và có mạn tàu rộng hơn đôi chút. Còn tàu là phiên bản cải tiến từ lớp King George V, nhưng sẽ thua kém lớp Lion nếu các tàu thuộc lớp này được đóng. Bức ảnh cho thấy cấu hình dàn pháo hạng hai 133mm và kiểu đuôi bằng (transom stern) của Vanguard — cả hai đặc điểm này đều được chia sẻ với lớp Lion. (Naval History and Heritage Command)
Tàu Vanguard, được chụp từ góc nhìn trực diện phía trên, dài hơn lớp Lion khoảng 30 feet và có mạn tàu rộng hơn đôi chút. Còn tàu là phiên bản cải tiến từ lớp King George V, nhưng sẽ thua kém lớp Lion nếu các tàu thuộc lớp này được đóng. Bức ảnh cho thấy cấu hình dàn pháo hạng hai 133mm và kiểu đuôi bằng (transom stern) của Vanguard — cả hai đặc điểm này đều được chia sẻ với lớp Lion. (Naval History and Heritage Command)
Bảo vệ
Sơ đồ giáp của Lion.
Sơ đồ giáp của Lion.
Lớp Lion được thiết kế với mức độ bảo vệ nặng nề nhất từng được lên kế hoạch cho một thiết giáp hạm của Hải quân Hoàng gia. Dải đai giáp chính (main belt) được thiết kế để chống lại hỏa lực pháo 16 inch, với vùng miễn nhiễm (immunity zone) đạt từ 19.000–30.625 yard tại khu vực hầm đạn (magazine) và 22.000–27.250 yard tại khu vực động cơ. Bề dày tối đa của dải giáp là 14,71 inch và cao 15 feet. Dải giáp chính bắt đầu thu hẹp 6 inch bên dưới mực nước. Phần giáp dưới (lower belt) kéo dài 8,25 feet bên dưới giáp chính và thu hẹp còn 5,2 inch. Hệ thống giáp kéo dài thêm 40 feet về phía trước và sau các vách ngăn bọc giáp, với tổng chiều dài là 510 feet.
Giáp ngang (horizontal protection) được thiết kế để chống lại bom xuyên giáp 1.000 lb thả từ độ cao 15.000 feet. Điều này được thực hiện thông qua sàn giáp chính dày 5,9 inch trên khu vực hầm đạn và 4,9 inch trên khu vực máy móc. Hầm đạn còn có thêm một lớp giáp phụ dày từ 1,5–2 inch. Giáp ngang còn mở rộng về phía mũi và đuôi tàu ngoài các vách ngăn bọc giáp; riêng phòng điều khiển lái và trục chân vịt phía đuôi được bảo vệ bởi lớp giáp dày 4,4 inch. Ý tưởng của thiết kế này là khiến bom nổ ở tầng giáp phía trên thay vì xuyên sâu gây hư hại nghiêm trọng đến khoang bên dưới.
Giáp bên (side protection) được thiết kế để chịu được vụ nổ tương đương 1.000 lb TNT. Hệ thống này tương tự lớp King George V nhưng được tăng chiều sâu. Tại vị trí tháp pháo B, độ sâu tối đa đạt 14,3 feet; ở phía trước chỉ 11 feet và phía sau là 13 feet. Giữa vỏ tàu ngoài và vách ngăn chống ngư lôi dày 2,5 inch có hai khoang rỗng. Mặc dù muốn tăng độ sâu hơn nữa, nhưng điều này là bất khả thi vì giới hạn của các ụ tàu hiện có. Bảo vệ đáy tàu là một điểm yếu vì chỉ bao gồm lớp đáy kép (double bottom) dày 4 feet. Người Anh tính toán rằng không có hệ thống bảo vệ đáy nào có thể ngăn được thiệt hại nội bộ nghiêm trọng nếu trúng phải vụ nổ mạnh ở vị trí hiểm yếu.
Động lực
Tám nồi hơi loại nhỏ, ba trống của Admiralty cung cấp hơi nước cho bốn turbine kiểu Parsons, dẫn động bốn trục chân vịt. Hệ thống động lực bình thường tạo ra công suất 120.000 mã lực, đủ để đẩy tàu đạt tốc độ 28,25 hải lý/giờ khi ở lượng giãn nước đầy tải. Tuy nhiên, hệ thống có thể vận hành ở chế độ quá tải, nâng công suất lên 130.000 mã lực và cho tốc độ tối đa 28,75 hải lý/giờ. Các phòng nồi hơi và máy được bố trí tách biệt, đảm bảo rằng một cú đánh trúng sẽ không làm tê liệt hoàn toàn hệ thống động lực của tàu.
Vũ khí
Bản thiết kế lớp Lion năm 1938.
Bản thiết kế lớp Lion năm 1938.
Dàn pháo chính của lớp Lion gồm 9 khẩu pháo 16 inch/45 được bố trí trong ba tháp pháo ba nòng, với hai tháp phía mũi và một phía đuôi. Các khẩu Mark II được thiết kế mới cho lớp Lion đã cải tiến vượt bậc so với loại Mark I từng trang bị trên lớp Nelson của thập niên 1920.
Sau lần thiết kế lại năm 1942, dàn pháo phụ được xác định là 16 khẩu pháo 5.25 inch/50 trong tám tháp pháo nòng đôi, bố trí giống như trên lớp King George V. Loại pháo hai chức năng 5.25 inch này là vũ khí đã được chứng minh hiệu quả, có khả năng bắn đạn nặng 80 lb tới tầm bắn tối đa 23.400 yard.
Kinh nghiệm chiến tranh cho thấy sự cần thiết phải tăng cường hệ thống phòng không cho tàu chiến Anh. Thiết kế ban đầu của lớp Lion chỉ có sáu bệ pháo phòng không Mark VI bắn nhanh (pom-pom) tám nòng. Bộ Tham mưu Hải quân muốn có tám bệ như vậy, nhưng không thể tìm đủ vị trí không bị ảnh hưởng bởi luồng bắn của pháo chính và phụ. Thiết kế lại năm 1942 đã loại bỏ hệ thống máy bay đặt giữa tàu, nhờ đó bổ sung thêm ba bệ Mark VI và một bệ Mark VII bốn nòng. Có khả năng cao là các bệ pom-pom này sẽ được thay bằng bệ pháo 40mm bốn nòng hiện đại hơn nếu tàu được hoàn thành. Ngoài ra, cũng sẽ có nhiều pháo phòng không 20mm nòng đơn được bố trí.
Số phận
Hải quân Hoàng gia Anh (RN) đã hoàn tất một thiết giáp hạm sau lớp King George V, nhưng đó không phải là tàu thuộc lớp Lion. Vanguard được hoàn thành sau chiến tranh và cung cấp thêm một gợi ý về diện mạo của lớp Lion nếu chúng được đóng. Góc nhìn từ mạn trái mũi tàu Vanguard này được chụp vào năm 1946. Đặc biệt, hãy lưu ý phần mũi tàu được nâng cao trên Vanguard — chi tiết này đã được bổ sung vào thiết kế lớp Lion sau đợt tái thiết kế năm 1942. Khác biệt chính giữa Vanguard và các tàu lớp Lion chưa hoàn tất là cấu hình pháo chính: Vanguard được trang bị bốn tháp pháo đôi 15 inch, còn lớp Lion sẽ được lắp ba tháp pháo ba nòng 16 inch. Cả hai lớp tàu đều có pháo hạng hai gồm tám bệ pháo đôi 133mm. (Naval History and Heritage Command)
Hải quân Hoàng gia Anh (RN) đã hoàn tất một thiết giáp hạm sau lớp King George V, nhưng đó không phải là tàu thuộc lớp Lion. Vanguard được hoàn thành sau chiến tranh và cung cấp thêm một gợi ý về diện mạo của lớp Lion nếu chúng được đóng. Góc nhìn từ mạn trái mũi tàu Vanguard này được chụp vào năm 1946. Đặc biệt, hãy lưu ý phần mũi tàu được nâng cao trên Vanguard — chi tiết này đã được bổ sung vào thiết kế lớp Lion sau đợt tái thiết kế năm 1942. Khác biệt chính giữa Vanguard và các tàu lớp Lion chưa hoàn tất là cấu hình pháo chính: Vanguard được trang bị bốn tháp pháo đôi 15 inch, còn lớp Lion sẽ được lắp ba tháp pháo ba nòng 16 inch. Cả hai lớp tàu đều có pháo hạng hai gồm tám bệ pháo đôi 133mm. (Naval History and Heritage Command)
Sau khi thiết kế cuối cùng được phê duyệt vào ngày 15 tháng 12 năm 1938, Bộ Hải quân Anh nhanh chóng mời thầu. Hợp đồng được trao vào ngày 21 tháng 2 năm 1939 – chỉ vài ngày sau phê duyệt – cho thấy nhu cầu cấp bách về việc khởi công tàu. Hai chiếc đầu tiên được đặt hàng vào ngày 28 tháng 2 năm 1939 với hy vọng hoàn thành sau 3,5 năm. Tuy nhiên, kế hoạch này nhanh chóng bị đình trệ do thiếu nhân lực và giáp. Tháng 10 năm 1939, việc xây dựng bị đình chỉ một năm; tàu bị bỏ dở với hy vọng sẽ được tiếp tục. Việc đóng các tàu Conqueror Thunderer thậm chí chưa từng bắt đầu.
Tiến độ chậm chạp cho phép tiếp tục cải tiến thiết kế dựa trên kinh nghiệm chiến đấu. Tháng 11, Hải quân quyết định tiếp tục trì hoãn để tích hợp thêm bài học chiến tranh. Tuy nhiên, hoài nghi về giá trị chiến lược của thiết giáp hạm ngày càng tăng khiến khả năng tái khởi động gần như bằng không. Dù vậy, tiềm năng hoàn thành các tàu vẫn được duy trì như một đòn cân bằng với việc đóng thiết giáp hạm của phe Trục. Tháng 12/1941 và 1/1942, thêm nhiều cải tiến được đưa vào thiết kế nhằm tăng khả năng sống sót. Thiết kế lại bao gồm tăng chiều rộng thân tàu lên 108 feet để cải thiện hệ thống phòng ngư lôi, hủy bỏ yêu cầu tháp pháo số 1 có thể bắn ở góc 0 độ (giúp nâng sống mũi tàu từ 28,3 lên 37 feet – cải thiện khả năng đi biển), bổ sung radar, gia cố hệ thống điện nhằm tránh tình trạng mất điện như khi Prince of Wales bị đánh chìm ngày 10/12/1941.
Tuy nhiên, kể cả sau những cải tiến đó, việc đóng LionTemeraire không bao giờ được nối lại. Bộ Tham mưu Hải quân kết luận rằng số thiết giáp hạm hiện có là đủ sau khi hoàn tất hai tàu cuối của lớp King George V, và năm 1943, việc hoàn thành hai tàu Lion bị hoãn vô thời hạn để nhường chỗ cho một chương trình đóng tàu sân bay quy mô lớn. Đến tháng 5 năm 1945, phần sống tàu chưa hoàn thiện của Lion Temeraire bị tháo bỏ khỏi ụ đóng.
LỚP LION
Các hình chiếu từ trên xuống và theo mặt bên mô tả một siêu thiết giáp hạm lớp Lion theo thiết kế ban đầu năm 1938. Con tàu có nhiều điểm tương đồng đáng kể với lớp King George V trước đó. Cả hai lớp đều có bố trí cấu trúc thượng tầng và ống khói giống nhau. Theo thiết kế ban đầu, lớp Lion có mũi thẳng đứng và gần như không có độ vồng ở phần mũi tàu. Tới năm 1942, thiết kế này được thay đổi với phần mũi được nâng cao nhằm cải thiện khả năng đi biển. Cũng cần lưu ý đến khu vực triển khai máy bay ở giữa tàu, với hai máy phóng cố định đặt ngang thân. Dàn pháo chính gồm ba tháp pháo ba nòng, mỗi tháp trang bị pháo 16 inch/45. Dàn pháo hạng hai giống hệt về số lượng và cách bố trí với lớp King George V – vị trí của tám tháp pháo nòng đôi 5.25 inch có thể thấy rõ trong hình chiếu từ trên xuống. Vào năm 1938, pháo phòng không gần như bị xem nhẹ – chỉ có sáu bệ pháo pom-pom tám nòng được trang bị. Bản thiết kế sửa đổi năm 1942 đã khắc phục điểm yếu này bằng cách loại bỏ khu vực triển khai máy bay giữa tàu, nhường chỗ cho ba bệ pháo pom-pom tám nòng bổ sung và một bệ pháo bốn nòng. Nếu bất kỳ tàu nào trong lớp này được hoàn thành, chúng cũng sẽ được trang bị nhiều pháo 20mm nòng đơn.

Hải quân Đức - Lớp H

Nguồn gốc
Bismarck trong bức ảnh này đang trượt xuống đường trượt hạ thủy tại xưởng đóng tàu Blohm & Voss vào ngày 14 tháng 2 năm 1939. Sau này, tàu được gia nhập bởi tàu chị em Tirpitz. Hải quân Đức (Kriegsmarine) còn lên kế hoạch cho những dự án lớn hơn với sáu siêu thiết giáp hạm thuộc lớp H. Theo truyền thống của các nhà thiết kế hải quân Đức, Bismarck được ưu tiên thiết kế với trọng tâm là khả năng bảo vệ hơn các yếu tố khác. (Naval History and Heritage Command)
Bismarck trong bức ảnh này đang trượt xuống đường trượt hạ thủy tại xưởng đóng tàu Blohm & Voss vào ngày 14 tháng 2 năm 1939. Sau này, tàu được gia nhập bởi tàu chị em Tirpitz. Hải quân Đức (Kriegsmarine) còn lên kế hoạch cho những dự án lớn hơn với sáu siêu thiết giáp hạm thuộc lớp H. Theo truyền thống của các nhà thiết kế hải quân Đức, Bismarck được ưu tiên thiết kế với trọng tâm là khả năng bảo vệ hơn các yếu tố khác. (Naval History and Heritage Command)
Khi đối mặt với sự thua kém về số lượng so với Hải quân Hoàng gia Anh, các nhà thiết kế thiết giáp hạm Đức buộc phải thiết kế những tàu chiến nhanh hơn, được bảo vệ tốt hơn và hỏa lực mạnh hơn so với các đối thủ Anh tiềm tàng. Kết quả đầu tiên của chính sách chế tạo tàu vượt trội này là lớp Bismarck – những thiết giáp hạm nặng nhất từng được chế tạo bởi một hải quân châu Âu. Thiết kế sơ bộ của lớp tàu này bắt đầu vào năm 1934. Kết quả cuối cùng là một con tàu có lượng giãn nước đầy tải hơn 49.000 tấn, tốc độ tối đa 30 hải lý/giờ, hỏa lực chính gồm tám khẩu pháo 15 inch bố trí trong bốn tháp pháo đôi, và giáp hông dày tối đa 12,6 inch. Bismarck và tàu chị em Tirpitz cho thấy chúng là những thiết giáp hạm tốt, nhưng trong nỗ lực tiếp theo, các nhà thiết kế Đức quyết tâm tạo ra một con tàu còn mạnh hơn nữa.
Các nghiên cứu cho lớp thiết giáp hạm mới bắt đầu vào năm 1937 với mong muốn chính là tăng cỡ pháo chính. Ngay từ đầu, Hitler đã can thiệp vào quá trình thiết kế và thúc ép rằng mỗi tàu phải được trang bị pháo chính có cỡ nòng lớn hơn bất kỳ đối thủ tiềm tàng nào. Đây là một cách tiếp cận đơn giản hóa vì nó không xét đến những yêu cầu phát sinh tương ứng mà việc trang bị pháo lớn mang lại. Sau khi bị thuyết phục rằng việc chế tạo những con tàu có lượng giãn nước khổng lồ là điều không thực tế đối với Đức, Hitler đồng ý rằng pháo 16 inch là cỡ nòng tối đa có thể thực hiện. Ngoài việc nâng cấp pháo chính lên 16 inch, các yêu cầu thiết kế ban đầu rất giống với lớp Bismarck.
Bản vẽ đường nét của Hải quân Hoa Kỳ về Bismarck này thể hiện các đặc điểm chính của lớp tàu này. Dễ thấy là dàn pháo chính gồm bốn tháp pháo nòng đôi 15 inch, cùng với cấu trúc thượng tầng nhỏ gọn và một ống khói đơn. Mặc dù lớp H-39 có nhiều điểm tương đồng về hình dáng bên ngoài so với lớp Bismarck, nhưng vẫn có những khác biệt quan trọng như hệ thống động lực gồm 12 động cơ diesel và dàn pháo chính được nâng cấp gồm tám khẩu pháo 26 inch. (Naval History and Heritage Command)
Bản vẽ đường nét của Hải quân Hoa Kỳ về Bismarck này thể hiện các đặc điểm chính của lớp tàu này. Dễ thấy là dàn pháo chính gồm bốn tháp pháo nòng đôi 15 inch, cùng với cấu trúc thượng tầng nhỏ gọn và một ống khói đơn. Mặc dù lớp H-39 có nhiều điểm tương đồng về hình dáng bên ngoài so với lớp Bismarck, nhưng vẫn có những khác biệt quan trọng như hệ thống động lực gồm 12 động cơ diesel và dàn pháo chính được nâng cấp gồm tám khẩu pháo 26 inch. (Naval History and Heritage Command)
Theo Kế hoạch hải quân “Z” cho việc mở rộng lực lượng hải quân Đức, sáu thiết giáp hạm mới – gọi là lớp H – sẽ được chế tạo vào năm 1944. Quá trình thiết kế các con tàu này diễn ra lâu dài và rối rắm, phản ánh sự can thiệp của Hitler và những thay đổi trong yêu cầu thời chiến. Vào mùa xuân năm 1939, kế hoạch chế tạo các tàu mới cho thấy những tiến triển với thiết kế cuối cùng được hoàn tất vào tháng 7. Hitler nôn nóng muốn bắt đầu thi công ngay, vì vậy thiết giáp hạm “H” được đặt lườn vào ngày 15 tháng 7 năm 1939.
Việc hoàn tất lớp H trong vòng sáu năm dựa trên giả định rằng Hải quân Đức sẽ không tham chiến cho đến năm 1946. Ngay sau khi chiến tranh bắt đầu vào ngày 1 tháng 9 năm 1939, công việc trên hai tàu đầu tiên bị đình chỉ. Nhu cầu cạnh tranh về thép đồng nghĩa với việc công trình xây dựng sẽ không bao giờ được tiếp tục. Chương trình lớp H đã bị kết liễu.
Việc hoãn đóng lớp H cho phép người Đức cải tiến thiết kế với kinh nghiệm thời chiến. Sau chỉ thị của Hitler yêu cầu một thiết kế mới, hải quân đã tiến hành một nghiên cứu mới vào ngày 15 tháng 7 năm 1940. Đây là cơ sở cho thiết kế H-40, tập trung vào cải tiến khả năng bảo vệ. Hai phương án thiết kế đã được đề xuất. Phương án đầu tiên (Phương án A) giữ nguyên lượng giãn nước ban đầu bằng cách loại bỏ một trong các tháp pháo chính để có trọng lượng dành cho lớp giáp tăng cường. Để tăng công suất nhằm duy trì tốc độ 30 hải lý/giờ của thiết kế gốc, sẽ cần một thiết kế lại lớn để phù hợp với hệ thống bốn trục và thêm động cơ diesel. Để tránh điều này, một hệ thống động lực hỗn hợp gồm diesel và turbine hơi nước đã được đề xuất. Phương án B giữ nguyên hỏa lực chính ban đầu và thêm giáp bảo vệ bằng cái giá phải trả là tăng lượng giãn nước. Để duy trì tốc độ, cùng một hệ thống động lực hỗn hợp bốn trục được dự kiến.
Bismarck là một thiết kế cân bằng, nhưng trong mắt các kỹ sư thiết kế Đức thì lại yếu về hỏa lực. Với lượng giãn nước bổ sung cho thiết kế lớp H-39, người Đức quyết định giữ nguyên gói giáp bảo vệ cơ bản đã dùng trên Bismarck và tăng cường hỏa lực bằng cách trang bị pháo chính cỡ 16 inch. Do hình dung các thiết giáp hạm chủ lực của họ sẽ được sử dụng như những tàu tập kích thương mại (một nhiệm vụ đòi hỏi tầm hoạt động xa), vì vậy mà lớp H-39 được trang bị hệ thống động lực diesel nhằm tăng cường khả năng hành trình. (Naval History and Heritage Command)
Bismarck là một thiết kế cân bằng, nhưng trong mắt các kỹ sư thiết kế Đức thì lại yếu về hỏa lực. Với lượng giãn nước bổ sung cho thiết kế lớp H-39, người Đức quyết định giữ nguyên gói giáp bảo vệ cơ bản đã dùng trên Bismarck và tăng cường hỏa lực bằng cách trang bị pháo chính cỡ 16 inch. Do hình dung các thiết giáp hạm chủ lực của họ sẽ được sử dụng như những tàu tập kích thương mại (một nhiệm vụ đòi hỏi tầm hoạt động xa), vì vậy mà lớp H-39 được trang bị hệ thống động lực diesel nhằm tăng cường khả năng hành trình. (Naval History and Heritage Command)
Thiết kế H-40 bị loại bỏ khi Hitler ra lệnh rằng không được đóng hai tàu đầu tiên cho đến sau chiến tranh. Điều này dẫn đến thiết kế tiếp theo – H-41, đây là một nỗ lực nhằm cải thiện khả năng bảo vệ hơn nữa và chấp nhận bất kỳ ảnh hưởng nào đến tốc độ do trọng lượng tăng thêm. Hầu hết trọng lượng bổ sung, đưa lượng giãn nước đầy tải lên tới 77.752 tấn, được sử dụng để tăng cường giáp ngang. Boong giáp trên cùng cuối cùng được tăng lên 3,2 inch và boong giáp dưới lên 5,9 inch. Khả năng phòng thủ chống ngư lôi cũng được cải tiến với mục tiêu chịu được đầu nổ 500lb. Phía ngoài vách ngăn chống ngư lôi dày 1,8 inch là ba khoang dọc – hai khoang để trống và một khoang chứa chất lỏng. Chiều sâu tối đa của hệ thống là 22 feet. Giáp dưới đáy cũng được nhấn mạnh với tổng độ dày thép và chiều sâu lên tới gần 10 feet. Một cải tiến khác dựa trên kinh nghiệm chiến đấu – trong trường hợp này là tổn thất của Bismarck vào tháng 5 năm 1941 là việc thêm một khối thuốc nổ ở các trụ bánh lái trong trường hợp cần phải phá hủy bánh lái nếu bị hư hỏng trong chiến đấu.
Thiết kế H-41 hoàn toàn khác với thiết kế gốc H-39 và được phê duyệt vào ngày 15 tháng 11 năm 1941. Nếu việc đóng lớp H được nối lại sau chiến tranh, nó sẽ dựa trên thiết kế này.
Một khác biệt quan trọng khác của thiết kế H-41 là sự thay đổi trong hỏa lực chính. Để duy trì lợi thế trước siêu thiết giáp hạm của Anh được trang bị pháo 16 inch, thiết kế H-41 sử dụng loại pháo mới 16,5 inch/48. Con tàu vẫn giữ nguyên dàn pháo chính tám khẩu, và toàn bộ vũ khí phụ khác giữ nguyên. Sự thay đổi thiết kế lớn này là khả thi vì các nòng pháo 16 inch ban đầu được chế tạo quá khổ, cho phép chúng được nạo lại thành cỡ 16,54 inch. Không có nòng pháo nào hiện có từng được sửa đổi theo cách này, nhưng các thử nghiệm đạn dược đã được tiến hành. Với việc sử dụng thuốc phóng đặc biệt và đạn dưới cỡ, người Đức hy vọng có thể tăng thêm tầm bắn.
Sau khi thêm lượng giãn nước từ thiết kế gốc H-39 và mở rộng chiều ngang thân tàu để tăng chiều sâu hệ thống chống ngư lôi, tốc độ giảm xuống còn 28 hải lý/giờ. Các nhà thiết kế Đức quyết định giảm từ yêu cầu ban đầu 30 hải lý/giờ để đổi lấy khả năng bảo vệ tăng cường. Tầm hoạt động vẫn là một yếu tố quan trọng, do đó dung tích dầu nhiên liệu được tăng lên để giữ tầm hoạt động ở mức 20.000 hải lý.
Bảo vệ
Sơ đồ giáp của lớp H.
Sơ đồ giáp của lớp H.
Tổng trọng lượng dành cho giáp chiếm 39,2% lượng giãn nước tiêu chuẩn. Ở một số khu vực, như đai giáp chính, mức bảo vệ thực tế còn thấp hơn lớp Bismarck trước đó. Ở các khu vực khác, như mũi và đuôi tàu, và quanh hệ thống lái, mức bảo vệ lại cao hơn.
Vùng miễn nhiễm của lớp H-39 trước pháo 16 inch/45 của Hải quân Mỹ, bắn đạn nặng 2.240 lb, được tính toán là nằm trong khoảng 13.500–25.000 yard. Bố trí giáp của lớp H-39 tương tự như trên lớp Bismarck. Vị trí và độ dày của giáp bên được thiết kế không phải để ngăn hoàn toàn sự xuyên phá của đạn pháo, mà nhằm giảm thiểu thiệt hại cho các khu vực trọng yếu. Đai giáp chính (giáp dưới) dày chưa tới 12 inch (thực tế còn mỏng hơn lớp Bismarck) và khá nông. Nhìn chung, phần lớn thân tàu đều dễ bị xuyên phá bởi các loại đạn lớn.
Các thiết giáp hạm lớp “H” sẽ được vận hành bằng mười hai động cơ diesel 9 xy-lanh loại MZ 65/95, với bốn động cơ truyền lực cho mỗi trong ba trục chân vịt. Mỗi piston, như chiếc được trưng bày tại đây, được thiết kế với đường kính 650 mm và hành trình piston dài 950 mm. (Ảnh do hãng M.A.N. cung cấp)
Các thiết giáp hạm lớp “H” sẽ được vận hành bằng mười hai động cơ diesel 9 xy-lanh loại MZ 65/95, với bốn động cơ truyền lực cho mỗi trong ba trục chân vịt. Mỗi piston, như chiếc được trưng bày tại đây, được thiết kế với đường kính 650 mm và hành trình piston dài 950 mm. (Ảnh do hãng M.A.N. cung cấp)
Bảo vệ theo chiều ngang dựa vào một boong trên và một boong giáp. Giáp bổ sung được bố trí trên các khoang máy và hầm đạn, với phần giáp bên ngoài của boong được vát nghiêng để tăng thêm khả năng bảo vệ.
Có việc bố trí giáp đáng kể tại khu vực mũi và đuôi tàu bên ngoài hầm giáp chính, dựa trên phân tích các trận chiến trong Thế chiến I. Giáp tại mũi tàu bảo vệ các két nhiên liệu phía trước, còn giáp tại đuôi bảo vệ hệ thống lái. Người Đức cho rằng các khu vực thân tàu không có giáp có thể bị hư hại nghiêm trọng do mảnh đạn, và rằng việc giới hạn thiệt hại trong một khu vực nhỏ sẽ dễ xử lý hơn. Các nhà thiết kế Đức tin rằng đài chỉ huy (chính và phụ) là những khu vực quan trọng cần được bảo vệ chắc chắn. Lớp bảo vệ dày nhất được dành cho các tháp pháo chính và bệ tháp pháo của chúng.
Hệ thống bảo vệ bên gồm một vách ngăn chống ngư lôi dày 1,8 inch bên ngoài các khoang máy và 2,4 inch bên ngoài hầm đạn. Bề dày của hệ thống chống ngư lôi đạt 18 feet ở phần giữa tàu, nhưng tất nhiên giảm dần về phía trước và sau do thân tàu thu hẹp. Các nhà thiết kế Đức chỉ có thể cung cấp khoảng cách “đệm” 4,2 feet tại khu vực tháp pháo 16 inch phía sau. Bảo vệ dưới đáy tàu được cung cấp bởi một đáy kép với sự chia khoang rộng rãi. Chiều sâu của hệ thống tăng lên tới tối đa 9 feet dưới các tháp pháo chính.
Động lực
Động cơ diesel MZ 65/95 được chụp khi đang thử nghiệm tại giá thử nghiệm của hãng M.A.N. ở Augsburg, Đức, trong Thế chiến II. Phiên bản 9 xy-lanh của động cơ này dự kiến sẽ được sử dụng trong hệ thống động lực diesel của các thiết giáp hạm lớp “H”, ngoại trừ phương án B. Động cơ này cao khoảng 7 mét, và bốn động cơ được sử dụng cho mỗi trục chân vịt. (Ảnh do hãng M.A.N. cung cấp)
Động cơ diesel MZ 65/95 được chụp khi đang thử nghiệm tại giá thử nghiệm của hãng M.A.N. ở Augsburg, Đức, trong Thế chiến II. Phiên bản 9 xy-lanh của động cơ này dự kiến sẽ được sử dụng trong hệ thống động lực diesel của các thiết giáp hạm lớp “H”, ngoại trừ phương án B. Động cơ này cao khoảng 7 mét, và bốn động cơ được sử dụng cho mỗi trục chân vịt. (Ảnh do hãng M.A.N. cung cấp)
Một trong những thay đổi lớn nhất so với Bismarck là hệ thống động lực của lớp H. Sự thay đổi này xuất phát từ loại nhiệm vụ mà lớp H dự kiến sẽ thực hiện. Trong một cuộc chiến với Vương quốc Anh, người Đức vẫn dự định sử dụng các thiết giáp hạm của mình như những tàu tập kích đường dài nhằm vào thương mại Anh. Điều này đòi hỏi một con tàu có tầm hoạt động lớn nhất có thể. Để đạt được điều này, động cơ diesel được ưu tiên sử dụng vì tiết kiệm nhiên liệu hơn so với hệ thống hơi nước. Việc áp dụng động lực diesel còn mang lại lợi thế là khả năng phản ứng khẩn cấp tức thì – điều mà hệ thống hơi nước không thể làm được. Yêu cầu thiết kế ban đầu đặt ra tầm hoạt động 16.000 hải lý ở tốc độ 19 hải lý/giờ. Mười hai động cơ diesel và 12 máy phát điện diesel được yêu cầu để tạo ra 162.743 mã lực cho ba trục chân vịt. Tốc độ tối đa chỉ vượt qua 30 hải lý/giờ đôi chút.
Một nhược điểm của hệ thống động lực diesel là nó chiếm nhiều thể tích bên trong hơn so với hệ thống hơi nước tương đương. Đây là một yếu tố gây cản trở khi người Đức muốn bổ sung thêm pháo hạng hai nhưng lại không tìm được không gian cho hầm đạn. Việc sử dụng một ống khói duy nhất cho 12 động cơ diesel là điều không thể, vì vậy phải sử dụng hai ống khói. Điều này tiếp tục làm giảm không gian boong cho pháo và buộc phải di dời khu vực máy bay về phía đuôi tàu.
Vũ khí
Thiết giáp hạm lớp H đang giao tranh trên biển. Lớp H được người Đức xem là phiên bản mạnh hơn lớp Bismarck về hoả lực khi được trang bị pháo 16 inch. (Richard Allison)
Thiết giáp hạm lớp H đang giao tranh trên biển. Lớp H được người Đức xem là phiên bản mạnh hơn lớp Bismarck về hoả lực khi được trang bị pháo 16 inch. (Richard Allison)
Thông thường, việc thử nghiệm và sản xuất các loại pháo lớn là yếu tố mất nhiều thời gian nhất trong quá trình hoàn thành một thiết giáp hạm. Đối với các thiết kế H-39 và H-40, loại pháo được lựa chọn là pháo 16 inch/50. Loại pháo này đã được phát triển từ năm 1934 và đến năm 1940 thì đã hoàn tất các thử nghiệm. Tính đến năm 1939, chỉ mới có bảy nòng pháo được hoàn thành. Những khẩu pháo này sau đó được sử dụng làm pháo phòng thủ bờ biển tại Na Uy và Pháp sau khi các thiết giáp hạm lớp H bị hủy bỏ.
Dàn pháo chính sẽ được bố trí trong bốn tháp pháo đôi. Hải quân Đức không ưa chuộng các tháp pháo ba hoặc bốn nòng cho pháo chính trên thiết giáp hạm. Tháp pháo đôi mang lại độ gom đạn hiệu quả hơn và làm giảm số lượng pháo bị vô hiệu hóa nếu một tháp pháo bị phá hủy. Tuy nhiên, việc lựa chọn bốn tháp pháo đôi đồng nghĩa với việc khu vực thân tàu cần được bảo vệ sẽ phải kéo dài hơn.
Các ảnh chụp pháo 16 inch của Đức tại cảng Narvik, Na Uy. Mặc dù thiết giáp hạm lớp H bị dừng vô thời hạn nhưng các pháo chính của dự án này vẫn được hoàn thiện và được đem đi trưng dụng như những pháo phòng thủ ven biển. (Ảnh chụp của Hải quân Hoàng gia Na Uy)
Các ảnh chụp pháo 16 inch của Đức tại cảng Narvik, Na Uy. Mặc dù thiết giáp hạm lớp H bị dừng vô thời hạn nhưng các pháo chính của dự án này vẫn được hoàn thiện và được đem đi trưng dụng như những pháo phòng thủ ven biển. (Ảnh chụp của Hải quân Hoàng gia Na Uy)
Pháo máy 37 mm là loại pháo phòng không tiêu chuẩn trên mọi tàu chiến chủ lực của Đức. Loại pháo này tuy có phạm vi tối đa là 6.750 m và có khả năng mang đạn nặng 0,75 kg, nhưng chúng lại tỏ ra kém hiệu quả trong việc chống lại máy bay có tốc độ cao, dẫu chúng có thể nâng góc bắn lên tới 80 độ. ( Albrecht Schnarke Collection)
Pháo máy 37 mm là loại pháo phòng không tiêu chuẩn trên mọi tàu chiến chủ lực của Đức. Loại pháo này tuy có phạm vi tối đa là 6.750 m và có khả năng mang đạn nặng 0,75 kg, nhưng chúng lại tỏ ra kém hiệu quả trong việc chống lại máy bay có tốc độ cao, dẫu chúng có thể nâng góc bắn lên tới 80 độ. ( Albrecht Schnarke Collection)
Dàn pháo hạng hai là một sự pha trộn lỗi thời của nhiều cỡ pháo khác nhau. Cách bố trí này tương tự như trên lớp Bismarck. Không thể trang bị thêm pháo vì không còn không gian cho hầm đạn và vì không có đủ góc bắn cho các bệ pháo mới. Dàn pháo hạng hai để đối đầu với mục tiêu mặt nước bao gồm 12 khẩu pháo 5,9 inch/55 đặt trong sáu tháp đôi. Ngoài ra còn dự định trang bị 16 khẩu pháo 4,1 inch/65 hai nhiệm vụ, sử dụng bệ pháo kín được cải tiến. Dàn pháo phòng không hạng nhẹ bao gồm 16 khẩu pháo đôi 37mm/83 và 32 khẩu pháo đơn 20mm. Kinh nghiệm chiến tranh cho thấy khả năng phòng không của thiết giáp hạm Đức rất yếu, và lớp H-39 không có cải tiến nào để khắc phục vấn đề đó. Sáu ống phóng ngư lôi ngầm cỡ 21 inch cũng được dự kiến lắp đặt, chủ yếu để hỗ trợ vai trò tàu tập kích mặt biển.
Các tàu lớp H khi hoạt động độc lập sẽ cần có khả năng triển khai máy bay riêng. Hệ thống máy bay dành cho bốn thủy phi cơ, cùng với các bệ phóng và nhà chứa, buộc phải dời từ vị trí giữa tàu như trên Bismarck về phía đuôi thượng tầng. Cách bố trí này gặp nhiều vấn đề. Nhà chứa máy bay, chứa các vật liệu dễ cháy, được đặt hai bên tháp pháo “C”, với các đường ray dẫn đến một bệ phóng quay đặt ngay bên dưới pháo của tháp pháo “D”. Bệ phóng này không thể sử dụng được nếu các pháo không xoay sang mạn tàu hoặc nâng lên góc tối đa. Thiết kế H-41 đã khắc phục phần nào vấn đề này bằng cách dời bệ phóng khỏi vị trí dưới cặp pháo 15 inch phía sau và thay bệ phóng xoay bằng một bệ phóng cố định theo hướng ngang tàu.
Số phận
Ảnh chụp ụ tàu đóng thiết giáp hạm lớp H tại Xưởng đóng tàu Blohm & Voss ở Hamburg ngày 4/8/1939.
Ảnh chụp ụ tàu đóng thiết giáp hạm lớp H tại Xưởng đóng tàu Blohm & Voss ở Hamburg ngày 4/8/1939.
Hitler hoàn toàn ủng hộ các thiết giáp hạm khổng lồ vì uy tín của quốc gia, nhưng ông cũng nhìn thấy sự cần thiết của chúng trong một cuộc chiến sắp tới với Vương quốc Anh và Pháp. Để chuẩn bị cho cuộc chiến này, Tư lệnh Hải quân Đức đã xây dựng một kế hoạch mở rộng hải quân. Kế hoạch này được gọi là “Kế hoạch Z”, được trình lên Hitler vào tháng 1 năm 1939 và xoay quanh sáu thiết giáp hạm lớp H.
Hitler yêu cầu sáu tàu lớp H phải được hoàn thành trong vòng sáu năm. Để bảo đảm tiến độ này, ông dành cho Hải quân mức ưu tiên cao nhất để hoàn thành chương trình trước năm 1944. Bốn xưởng đóng tàu được giao hợp đồng sản xuất.
Chỉ có hai tàu được đặt lườn. Thiết giáp hạm “H” được khởi công trước khi chiến tranh nổ ra nhưng bị dừng lại ngay sau đó khi mới hoàn thành 766 tấn vật liệu. Vào ngày 25 tháng 11 năm 1941, tàu bị lệnh tháo dỡ và số thép được sử dụng cho các nhu cầu chiến tranh khác. Thiết giáp hạm “J” được khởi công ngay sau khi chiến tranh bắt đầu, nhưng mới chỉ lắp đặt được 40 tấn vật liệu thì công việc đã bị đình chỉ. Tàu này cũng bị lệnh phá dỡ vào tháng 11 năm 1941. Thiết giáp hạm “K” chưa từng được khởi công, dù khoảng 3.000 tấn vật liệu đã được chuyển tới xưởng ở Kiel. Ba tàu cuối cùng chỉ dừng ở mức ý tưởng trên giấy.
LỚP H
Những hình chiếu bên và từ trên xuống dưới đây mô tả một siêu thiết giáp hạm lớp H của Đức. Con tàu được mình hoạ dưới đây là theo thiết kế H-39, vốn có thể đã được đưa vào biên chế sớm nhất là năm 1944 nếu Hitler không khơi mào chiến tranh vào năm 1939. Các tàu lớp H-39 sẽ có nhiều điểm tương đồng với lớp Bismarck. Chúng sẽ mang một dáng vẻ cân đối và đầy uy lực, với hai tháp pháo 16in./50 phía trước và hai phía sau, cùng hai ống khói đồ sộ phục vụ cho 12 động cơ diesel. Hệ thống pháo hạng hai và phòng không cũng được thể hiện rõ ràng và rất giống với lớp Bismarck cả về số lượng lẫn cách bố trí. Cụ thể, bao gồm 12 khẩu pháo 5.9in./55 bố trí trong sáu tháp đôi trên boong chính, cùng với dàn pháo phòng không tầm xa gồm 16 khẩu 4.1in./65 đặt trong tám tháp pháo kín, bố trí cao hơn một cấp. Ngoài ra còn có hệ thống pháo phòng không hạng nhẹ, bao gồm 16 khẩu pháo 37mm/83 bố trí trong các tháp đôi. Ngoài hai ống khói khổng lồ, điểm khác biệt dễ nhận thấy nhất so với lớp Bismarck là việc di chuyển cơ sở hàng không từ vị trí giữa tàu ra một vị trí bất tiện ở phía sau. Chú ý đến bệ phóng máy bay đặt ngay bên dưới tháp pháo số 4 cỡ 16inch, còn lối vào nhà chứa máy bay nằm ngang hàng với tháp pháo số 3.
Những thiết kế thiết giáp hạm cuối cùng của Đức
Sau khi Bismarck bị đánh chìm, người Đức đã điều Tirpitz (hiển thị trong ảnh) đến Na Uy, nơi nó trở thành một mối đe dọa tiềm tàng đối với các đoàn tàu vận tải của phe Đồng minh đến Liên Xô. Trong thời gian đóng tại Na Uy, Tirpitz bị tấn công bởi tàu ngầm mini của Anh và hàng loạt đợt không kích từ tàu sân bay, cho đến khi bị đánh chìm bởi máy bay ném bom hạng nặng mang bom 12.000 pound. Các thiết kế lớp H về sau đã rút kinh nghiệm từ trường hợp này bằng cách tăng cường bảo vệ đáy tàu và giáp ngang, nhưng người Đức nhận ra rằng không có cách nào để bảo vệ hiệu quả trước một quả bom 12.000 pound được thả từ độ cao lớn. (Naval History and Heritage Command)
Sau khi Bismarck bị đánh chìm, người Đức đã điều Tirpitz (hiển thị trong ảnh) đến Na Uy, nơi nó trở thành một mối đe dọa tiềm tàng đối với các đoàn tàu vận tải của phe Đồng minh đến Liên Xô. Trong thời gian đóng tại Na Uy, Tirpitz bị tấn công bởi tàu ngầm mini của Anh và hàng loạt đợt không kích từ tàu sân bay, cho đến khi bị đánh chìm bởi máy bay ném bom hạng nặng mang bom 12.000 pound. Các thiết kế lớp H về sau đã rút kinh nghiệm từ trường hợp này bằng cách tăng cường bảo vệ đáy tàu và giáp ngang, nhưng người Đức nhận ra rằng không có cách nào để bảo vệ hiệu quả trước một quả bom 12.000 pound được thả từ độ cao lớn. (Naval History and Heritage Command)
Hitler vốn say mê những loại vũ khí chiến tranh khổng lồ và đã chỉ đạo hải quân tiếp tục nghiên cứu các thiết kế thiết giáp hạm cỡ lớn. Đây hoàn toàn là những dự án mạng tính lý thuyết, được thực hiện bởi Ủy ban Thiết kế Tàu Mới thay vì Phòng Thiết kế Công trình – đơn vị đã tạo ra các thiết kế thiết giáp hạm trước đó. Chúng là những ý tưởng viển vông, không bị giới hạn bởi cỡ pháo hay lượng choán nước. Không có khả năng nào chúng sẽ được đóng; nước Đức sẽ không bao giờ có đủ thép để chế tạo những con quái vật này.
Các thiết kế cho thấy sự tiếp tục nhấn mạnh của Đức vào hỏa lực và phòng vệ. Tất cả đều lớn hơn đáng kể so với thiết kế H-41, cả về chiều dài lẫn bề ngang. Thiệt hại trong chiến tranh của Bismarck và Tirpitz đã được xem xét, dẫn đến những cải tiến đáng kể về mặt bảo vệ. Bề ngang cực lớn của các tàu này – lên đến 169 feet trong thiết kế H-44 – là kết quả của việc tăng độ sâu của hệ thống chống ngư lôi.
Độ sâu khổng lồ của hệ thống bảo vệ bên mạn được bổ sung bằng việc tăng cường độ sâu cho hệ thống bảo vệ đáy tàu – vượt quá 15 feet trong trường hợp thiết kế H-44.
Dàn pháo chính được tăng cỡ lên tới pháo 20 inch trong hai thiết kế cuối cùng. Dàn pháo hạng hai về cơ bản vẫn giữ nguyên như trong thiết kế H-39.
Với kích thước khổng lồ, các nhà thiết kế cũng có thể bố trí một hệ thống động lực có khả năng sản sinh 266.300 mã lực. Một hệ thống hỗn hợp lại được sử dụng, gồm bốn động cơ diesel cho các trục ngoài và hai tua-bin hơi nước cho hai trục trong. Ngay cả với lượng choán nước cực lớn, tất cả các tàu này đều có thể đạt tốc độ ít nhất là 30 hải lý/giờ.
Khi không có bất kỳ khả năng nào rằng một trong các thiết kế này sẽ được chế tạo, chúng chẳng là gì ngoài các nghiên cứu mang tính khái niệm. Vào thời điểm này của cuộc chiến, đã rõ ràng rằng việc đầu tư vào các thiết giáp hạm – dù chúng “không thể bị đánh chìm” – cũng không còn là lựa chọn khôn ngoan. Quan niệm rằng chúng vẫn có thể được sử dụng trong các cuộc tuần tra tầm xa ra Đại Tây Dương là điều hoàn toàn ảo tưởng. Bên cạnh đó, chúng hoàn toàn không thực tế bởi chúng quá lớn để được đóng trên bất kỳ ụ trượt nào hiện có (chúng sẽ phải được đóng trong một ụ tàu khô), và không thể hoạt động từ các cảng nông của Đức trên biển Bắc. Riêng H-44 quá lớn đến mức không thể vào được bất kỳ cảng nào của Đức.
NHỮNG THIẾT KẾ THIẾT KẾ HẠM LỚP H TIẾP THEO
H-41: Nếu Đức Quốc xã nối lại việc đóng siêu thiết giáp hạm sau chiến tranh, con tàu đó sẽ được xây dựng theo thiết kế H-41. Thiết kế H-41 khác biệt so với thiết kế H-39 chủ yếu ở khía cạnh bảo vệ. Những cải tiến tập trung vào việc tăng cường khả năng bảo vệ ngang và dưới đáy tàu bằng cách tận dụng kinh nghiệm chiến tranh. Dàn pháo chính được thay đổi thành loại pháo mới cỡ 16.5in./48. Ngoài ra, vũ khí của lớp này vẫn không thay đổi. Sự khác biệt bên ngoài rõ rệt duy nhất so với thiết kế H-39 là sự thay đổi trong bố trí các cơ sở hàng không. Thiết kế H-41 loại bỏ bệ phóng xoay đặt dưới cặp pháo 16.5in. phía sau và thay thế bằng một bệ phóng cố định đặt ngang thân tàu ở phía sau hơn.
H-42: Biến thể này thể hiện sự gia tăng đáng kể về chiều dài, bề ngang và tổng lượng giãn nước. Hệ thống vũ khí vẫn giữ nguyên, vì vậy trọng lượng bổ sung được sử dụng để trang bị hệ thống động lực hỗn hợp mạnh hơn và tăng cường giáp bảo vệ. Giáp ngang tiếp tục là trọng tâm; độ dày của giáp boong tăng lên 13in., phân bổ trên ba lớp boong. Người Đức xác định ngư lôi là mối đe dọa chính đối với các siêu thiết giáp hạm của họ nên đã thực hiện thêm nhiều biện pháp để tăng cường bảo vệ bên mạn. Theo đó, bề ngang của H-42 được tăng lên 140 feet, trong đó 50 feet được dành cho hệ thống phòng ngư lôi với nhiều lớp vách ngăn.
H-43: Thiết kế này thậm chí còn lớn hơn nữa. Việc gia tăng chiều ngang là yếu tố chính khiến lượng giãn nước toàn tải vượt quá 118.000 tấn. Dàn pháo chính được nâng lên tám khẩu pháo 20in., điều này tiếp tục làm tăng lượng giãn nước. Ngoài ra, vũ khí vẫn giữ nguyên như ở thiết kế trước. Hệ thống động lực hỗn hợp được giữ lại, nhưng trọng lượng tăng thêm khiến tốc độ của tàu giảm đi. Yếu tố ảnh hưởng khác đến tốc độ là chiều ngang gia tăng, lên đến 158 feet, trong đó 62 feet được dành cho hệ thống bảo vệ chống ngư lôi hai bên.
H-44: Với lượng giãn nước toàn tải hoàn toàn phi thực tế là 139.000 tấn, thiết kế này cho phép bổ sung đáng kể vào hệ thống bảo vệ. Chiều ngang tăng lên 169 feet, nhờ đó độ sâu tổng cộng của hệ thống bảo vệ chống ngư lôi hai bên đạt đến 72 feet. Hai vách ngăn chống ngư lôi được tăng độ dày và kéo dài từ sống tàu đến boong chính. Hệ thống động lực hỗn hợp và dàn pháo chính cỡ 20in. vẫn được giữ nguyên.

Hải quân Đế quốc Nhật Bản – Thiết kế A-150

Nguồn gốc
Chiếc Yamato của Hải quân Đế quốc Nhật Bản có lẽ là thiết giáp hạm nổi tiếng nhất từng được chế tạo , được chụp khi đang chạy thử nghiệm vào ngày 30 tháng 10 năm 1941. Sự kết hợp giữa pháo chính cỡ 18,1 inch và mức độ bảo vệ nặng nề nhất có thể khiến Yamato trở thành thiết giáp hạm mạnh nhất từng được hoàn tất. Thiết kế của Yamato còn xa mới đạt độ hoàn hảo, nhưng nó đã được sử dụng làm cơ sở cho Thiết kế A-150 – thế hệ siêu thiết giáp hạm tiếp theo của Hải quân Nhật. Nếu một số siêu thiết giáp hạm được đề cập trong curn sách này từng được hoàn thiện, chúng sẽ sánh ngang với Yamato về hỏa lực và khả năng bảo vệ. (Naval History and Heritage Command)
Chiếc Yamato của Hải quân Đế quốc Nhật Bản có lẽ là thiết giáp hạm nổi tiếng nhất từng được chế tạo , được chụp khi đang chạy thử nghiệm vào ngày 30 tháng 10 năm 1941. Sự kết hợp giữa pháo chính cỡ 18,1 inch và mức độ bảo vệ nặng nề nhất có thể khiến Yamato trở thành thiết giáp hạm mạnh nhất từng được hoàn tất. Thiết kế của Yamato còn xa mới đạt độ hoàn hảo, nhưng nó đã được sử dụng làm cơ sở cho Thiết kế A-150 – thế hệ siêu thiết giáp hạm tiếp theo của Hải quân Nhật. Nếu một số siêu thiết giáp hạm được đề cập trong curn sách này từng được hoàn thiện, chúng sẽ sánh ngang với Yamato về hỏa lực và khả năng bảo vệ. (Naval History and Heritage Command)
Trong số tất cả các thiết giáp hạm chưa hoàn thành được đề cập trong cuốn sách này, thiết kế A-150 của Hải quân Đế quốc Nhật Bản là loại còn cách xa hoàn thiện nhất. Không có bất kỳ khả năng nào những chiếc tàu này sẽ được khởi công, chứ đừng nói đến việc hoàn thành. Rất ít thông tin được biết về chi tiết của thiết kế này vì toàn bộ bản vẽ đã bị tiêu huỷ trong khoảng thời gian từ khi Nhật Bản chấp nhận các điều kiện đầu hàng của phe Đồng minh vào ngày 15 tháng 8 đến lễ đầu hàng chính thức vào ngày 2 tháng 9 năm 1945. Thậm chí vẫn chưa rõ liệu thiết kế này có phải là một “Siêu Yamato” không hay là một kiểu hoàn toàn mới.
Cơ sở cho Thiết kế A-150 là nhằm tạo ra một chiến hạm duy trì được ưu thế về chất lượng trước Hải quân Hoa Kỳ hoặc Anh mà Nhật Bản đã đạt được với lớp Yamato. Lý do để xây dựng lớp Yamato với lượng choán nước đầy tải 70.000 tấn rất đơn giản: Hải quân Nhật Bản không bao giờ có thể cạnh tranh về số lượng với Hải quân Hoa Kỳ, nên họ phải chế tạo những con tàu có ưu thế tuyệt đối về chất lượng. Lớp Yamato với mức độ bảo vệ cực kỳ nặng và dàn pháo chính 18,1 inch đã mang lại cho Hải quân Nhật một lợi thế rõ ràng.
Mặc dù hầu hết các bản thiết kế của lớp Yamato đã bị tiêu hủy trước khi Nhật Bản chính thức đầu hàng, một số bản vẫn còn tồn tại, như bản được hiển thị ở đây. Không có tài liệu nào còn sót lại cho Thiết kế A-150, điều này khiến các chi tiết về siêu thiết giáp hạm này trở nên rời rạc. Vì lớp thiết giáp hạm mới được cho là có kích thước và lượng choán nước tương đương với Yamato, nên nhiều khả năng Thiết kế A-150 sẽ có hình dạng tương đối giống với các siêu thiết giáp hạm đầu tiên của Hải quân Đế quốc Nhật Bản, thay vì là một thiết kế hoàn toàn mới. (Naval History and Heritage Command)
Mặc dù hầu hết các bản thiết kế của lớp Yamato đã bị tiêu hủy trước khi Nhật Bản chính thức đầu hàng, một số bản vẫn còn tồn tại, như bản được hiển thị ở đây. Không có tài liệu nào còn sót lại cho Thiết kế A-150, điều này khiến các chi tiết về siêu thiết giáp hạm này trở nên rời rạc. Vì lớp thiết giáp hạm mới được cho là có kích thước và lượng choán nước tương đương với Yamato, nên nhiều khả năng Thiết kế A-150 sẽ có hình dạng tương đối giống với các siêu thiết giáp hạm đầu tiên của Hải quân Đế quốc Nhật Bản, thay vì là một thiết kế hoàn toàn mới. (Naval History and Heritage Command)
Công việc thiết kế mới, mang mã hiệu A-150, bắt đầu vào năm 1938–39 sau khi công việc thiết kế lớp Yamato hoàn tất. Các nghiên cứu ban đầu dựa trên giả định rằng con tàu mới sẽ mang pháo 20,1 inch (một nâng cấp từ dàn pháo chính 18,1 inch trên lớp Yamato) bố trí trong ba tháp pháo ba nòng hoặc bốn tháp pháo đôi. Tốc độ mong muốn là 30 hải lý/giờ để duy trì lợi thế so với lớp North Carolina của Hoa Kỳ (đang trong quá trình đóng khi đó) với tốc độ 27 hải lý/giờ. Mức độ bảo vệ được cho là sẽ còn vượt trội hơn lớp Yamato, vốn đã được thiết kế để chịu đựng được đạn pháo 18 inch. Để chế tạo một con tàu với những đặc tính như vậy, các nghiên cứu ban đầu chỉ ra rằng cần một lượng choán nước tiêu chuẩn vào khoảng 90.000 tấn. Điều này được xem là quá tham vọng và tốn kém ngay cả đối với Hải quân Nhật, nên cuối cùng quyết định rằng tàu sẽ có lượng choán nước tương đương lớp Yamato. Thiết kế cuối cùng của A-150 được hoàn tất vào đầu năm 1941. Trước chiến tranh, việc đóng tàu chưa bao giờ bắt đầu do thiết giáp hạm bị đặt ở mức ưu tiên thấp, và các trận đánh đầu tiên trong cuộc chiến Thái Bình Dương đã chứng minh rằng thời đại của thiết giáp hạm đã kết thúc, dẫn đến việc công trình này không bao giờ được khởi công sau đó.
Bảo vệ
Sơ đồ giáp của lớp Yamato. Nhiều khả năng thiết kế  mà A-150 sử dụng sẽ dựa vào thiết kế giáp của Yamato cùng một vài cải tiến.
Sơ đồ giáp của lớp Yamato. Nhiều khả năng thiết kế mà A-150 sử dụng sẽ dựa vào thiết kế giáp của Yamato cùng một vài cải tiến.
Rất ít chi tiết còn sót lại về sơ đồ bảo vệ của Thiết kế A-150. Có vẻ như đai giáp chính được dự kiến dày tối đa 18 inch, và giáp tháp pháo chính được nâng lên 31,5 inch ở mặt trước và 11,6 inch ở mặt trên. Không có thông tin nào khác được biết đến. Độ dày giáp khổng lồ ở mặt trước của các tháp pháo 20,1 inch vượt quá khả năng sản xuất của ngành công nghiệp Nhật Bản, do đó giáp mặt trước sẽ phải được ghép từ hai lớp riêng biệt. Cách này kém hiệu quả hơn nhiều so với một tấm thép nguyên khối.
Việc bảo vệ trên lớp Yamato mang lại một số manh mối về mức độ bảo vệ dự kiến cho Thiết kế A-150. Lớp Yamato là loại tàu chiến có giáp nặng nhất từng được chế tạo, với 33% (22.534 tấn) lượng choán nước thiết kế được dành riêng cho giáp. Điều này là cần thiết để đáp ứng yêu cầu thiết kế chịu được pháo 18 inch và có khả năng chống ngư lôi với đầu đạn TNT 660lb. Nếu Thiết kế A-150 bị giới hạn ở mức lượng choán nước như lớp Yamato, thì rất có thể mức giáp trang bị sẽ tương tự, có thể kèm theo một số cải tiến nhỏ. Ví dụ, trên lớp Yamato, mối nối giữa đai giáp trên và giáp dưới có thiết kế lỗi, sử dụng hai loại đinh tán khác nhau. Cách này thiếu độ bền ngang trước hiệu ứng cắt của một vụ nổ. Khi phần nối này thất bại, sự toàn vẹn của phòng giáp trung tâm bị ảnh hưởng nghiêm trọng. Người Nhật biết rõ lỗi này, nhưng vì muốn đảm bảo tiến độ đóng tàu, họ đã không sửa đổi thiết kế. Khả năng chống ngư lôi dưới nước của lớp Yamato cũng bị đánh giá thấp, điều đã được chứng minh trong chiến tranh khi cả Yamato, Musashi và chiếc thứ ba Shinano (được cải tạo thành tàu sân bay) đều bị đánh chìm bởi ngư lôi. Độ sâu tối đa (16,4 feet tại khu vực giữa tàu) của các gờ chống ngư lôi trang bị cho Yamato thấp hơn so với các thiết giáp hạm nước ngoài được thiết kế cùng thời. Ngoài ra, các gờ này không được bơm đầy chất lỏng nhằm hấp thụ lực nổ, điều khiến đai giáp bên trong dễ hứng chịu toàn bộ xung kích. Các khu vực không giáp như mũi và đuôi tàu chỉ dựa vào phân khoang. Tuy nhiên, các khoang ở những khu vực này quá lớn và hệ thống bơm không đủ mạnh, dẫn đến tình trạng ngập nước nghiêm trọng và con tàu bị nghiêng.
Một số cải tiến đã được lên kế hoạch trong hệ thống bảo vệ của chiếc thứ ba và thứ tư thuộc lớp Yamato, và được cho là sẽ được áp dụng cho Thiết kế A-150. Bổ sung bảo vệ dưới đáy là cần thiết để đối phó với mối đe doạ từ thủy lôi, đặc biệt là thủy lôi từ tính. Do đó, ở khu vực buồng máy và kho đạn, một lớp thép dày nửa inch được bổ sung để tạo thành đáy ba lớp. Ở những khu vực không thể thêm lớp thứ ba, đáy đôi được gia cường thêm. Việc tăng cường bảo vệ dưới đáy làm tăng trọng lượng thêm 600 tấn. Để bù đắp, một số khu vực khác – vốn được đánh giá là có giáp quá mức cần thiết – đã được cắt giảm nhẹ. Cụ thể, đai giáp chính và sàn giáp chính bị giảm khoảng ½ inch, còn các bệ tháp pháo bị giảm khoảng 1 inch.
Dù Thiết kế A-150 có khắc phục được một số vấn đề về bảo vệ của lớp Yamato hay không, thiết kế mới này có lẽ vẫn sẽ dễ bị tổn thương trước các cuộc tấn công dưới nước, bởi vì ngư lôi tiêu chuẩn của Hải quân Hoa Kỳ (Mark 13, Mod 1) mang đầu đạn 606lb thuốc nổ Torpex – mạnh gấp đôi TNT – điều này khiến mọi tính toán của các kỹ sư Nhật Bản trở nên lỗi thời. Ngoài ra, quy mô bảo vệ khổng lồ của các thiết giáp hạm mới nhất của Hải quân Nhật Bản bị suy giảm hiệu quả bởi chất lượng kém của thép giáp Nhật Bản. Bất kỳ tàu nào lớn và được bọc giáp dày như Yamato hay Thiết kế A-150 đều sẽ rất khó bị đánh chìm, nhưng tổng thể hiệu quả của hệ thống bảo vệ giáp vẫn thấp hơn so với kỳ vọng.
Hệ thống động lực
Một lần nữa, phần này có rất ít chi tiết còn tồn tại. Nhiều khả năng, hệ thống động lực sẽ dựa trên thiết kế của Yamato, sử dụng 12 nồi hơi hơi nước dẫn động bốn turbine. Hệ thống này tạo ra công suất 150.000 mã lực (shp), đủ để đạt tốc độ 27,5 hải lý/giờ. Tuy hệ thống turbine hơi này hoạt động ổn định, nhưng lại là một thiết kế có công suất tương đối thấp. Một điểm yếu lớn là mức tiêu thụ nhiên liệu rất cao. Với một lực lượng hải quân thiếu nhiên liệu trầm trọng như IJN, điều này là một vấn đề nghiêm trọng.
Vũ khí
Thiết giáp hạm thiết kế A-150 có vẻ ngoài giống lớp Yamato nhưng lại đang trang bị pháo 20,1 inch trên tháp pháo hai nòng, cùng với trang bị nhiều pháo hạng hải 100mm. (Richard Allison)
Thiết giáp hạm thiết kế A-150 có vẻ ngoài giống lớp Yamato nhưng lại đang trang bị pháo 20,1 inch trên tháp pháo hai nòng, cùng với trang bị nhiều pháo hạng hải 100mm. (Richard Allison)
Pháo 18,1 inch trên các siêu thiết giáp hạm lớp Yamato được thiết kế để có tầm bắn xa hơn dàn pháo chính của bất kỳ thiết giáp hạm nào của Mỹ hay Anh. Người Nhật dự đoán rằng người Mỹ sẽ phát hiện ra năng lực thực sự của lớp Yamato trong chiến tranh, vì vậy lớp kế tiếp phải trang bị pháo chính lớn hơn nữa để duy trì khả năng bắn xa vượt trội. Do đó, pháo chính của lớp tàu mới sẽ bao gồm loại pháo 20,1 inch/45 hoàn toàn mới. Phiên bản cuối cùng của Thiết kế A-150 dự kiến trang bị sáu khẩu pháo này bố trí trong ba tháp pháo đôi. Đáng chú ý là các tháp pháo đôi 20,1 inch có kích thước tương đương với các tháp pháo ba nòng 18,1 inch trên lớp Yamato. Vì vậy, nếu pháo lớn hơn gặp vấn đề, chúng có thể được thay thế bằng loại pháo 18,1 inch đã được chứng minh hiệu quả.
Rất ít thông tin về loại pháo này còn lại – nếu được lắp đặt lên các tàu A-150, chúng sẽ là pháo hải quân lớn nhất từng xuất hiện trên một tàu chiến. Bộ phận kỹ thuật của IJN đã bắt đầu nghiên cứu loại pháo mới này từ tháng 6 năm 1939, sau khi hoàn thành thiết kế pháo 18,1 inch. Một nòng pháo 20,1 inch đã được chế tạo tại xưởng hải quân Kure, và một nòng thứ hai gần hoàn tất. Tuy nhiên, chưa có cuộc thử nghiệm bắn nào được tiến hành vì bệ pháo và các phụ kiện khác chưa được hoàn thiện. Tầm bắn của loại pháo mới không rõ, nhưng nhiều khả năng vượt quá 45.275 yard – tầm bắn của pháo 18,1 inch/45 trên Yamato. Trọng lượng đạn xuyên giáp của loại 18,1 inch là 3.219 lb, trong khi đạn xuyên giáp 20,1 inch ước tính nặng 4.290 lb.
Thông tin chi tiết về dàn pháo hạng hai cũng rất mơ hồ. Loại pháo chủ yếu được cho là 3,9 inch/65 – loại pháo đa dụng được IJN đánh giá là tốt nhất, với tầm bắn tối đa chống mục tiêu mặt nước là 21.300 yard. Tuy nhiên, vận tốc đầu nòng cao của nó làm giảm tuổi thọ nòng pháo. Số lượng pháo được trang bị cho A-150 không rõ, nhưng nếu dựa vào dàn pháo phụ của lớp Yamato, thì ít nhất 24 khẩu 3,9 inch/65 lắp trong các tháp đôi có thể đã được bố trí. Không rõ liệu A-150 có giữ lại hai tháp pháo ba nòng 6,1 inch/60 như trên Yamato hay không. Dù được tuyên bố là pháo đa dụng, nhưng trên thực tế chúng không hiệu quả trong vai trò phòng không. Rất có thể những pháo này sẽ bị loại bỏ để giảm trọng lượng, nhằm bù cho trọng lượng tăng thêm của tháp pháo 20,1 inch. Do yêu cầu thực tế, số lượng pháo phòng không hạng nhẹ tiêu chuẩn của IJN trang bị trên A-150 chắc chắn phải rất lớn – Yamato đã mang tới 152 khẩu vào năm 1945.
Số phận
Việc xây dựng hai thiết giáp hạm khổng lồ sau khi chiến tranh bắt đầu rõ ràng là vượt quá khả năng của ngành công nghiệp đóng tàu Nhật Bản. Dự án lớp Yamato được khởi công trước chiến tranh nhưng chưa bao giờ hoàn tất. Hai tàu đầu tiên – YamatoMusashi – được hoàn thành dưới dạng thiết giáp hạm, còn chiếc thứ ba – Shinano – mãi đến cuối năm 1944 mới hoàn tất dưới dạng tàu sân bay. Chiếc thứ tư, chưa được đặt tên và có mã số là Chiến hạm số 111, được đặt ky tại xưởng hải quân Kure vào tháng 11 năm 1940. Đến tháng 12 năm 1941, phần thân tàu đã hoàn thành khoảng 30%. Tại thời điểm này, người ta xác định rằng còn có các tàu khác (tàu sân bay, tàu ngầm, tàu khu trục) cần được ưu tiên hơn, nên việc đóng Chiến hạm số 111 bị hủy bỏ và phần thân tàu bị tháo dỡ.
Giống như các hải quân lớn khác, IJN phản đối ý tưởng dừng toàn bộ việc đóng thiết giáp hạm. Chương trình Tăng cường Hạm đội số 5 năm 1942 bao gồm năm tàu chiến chủ lực. Một trong số đó là phiên bản cải tiến của lớp Yamato, hai chiếc là thiết giáp tuần dương hạm (được biết với tên Thiết kế B-65), và hai chiếc còn lại là các siêu thiết giáp hạm thuộc Thiết kế A-150. Không chiếc nào trong số này từng được đặt lườn.
Nếu việc đóng tàu bắt đầu, các con tàu này sẽ được đặt lườn vào cuối năm 1941 hoặc đầu năm 1942. Thời gian đóng dự kiến là ba năm trước khi hạ thủy, với tổng thời gian hoàn tất là 5 năm.
THIẾT KẾ A-150
Các hình ảnh suy đoán này mô tả một siêu thiết giáp hạm thuộc Thiết kế A-150. Do không có bản vẽ nào của thiết kế này còn tồn tại, đây là những phỏng đoán có căn cứ về hình dáng mà các tàu có thể có. Giả định cơ bản khi xây dựng những hình ảnh này là ngoại hình của tàu sẽ tương tự lớp Yamato. Tuy nhiên, sẽ có một số điểm khác biệt quan trọng. Trước hết và quan trọng nhất là dàn pháo chính khác biệt, với ba tháp pháo đôi cỡ 20,1 inch. Để bù đắp cho trọng lượng tăng thêm từ pháo chính, hai tháp pháo ba nòng cỡ 6,1 inch/60 từng xuất hiện trên Yamato đã bị loại bỏ và thay thế bằng các bệ pháo 3,9 inch/65. Thay đổi lớn thứ hai là việc thay thế các bệ pháo kín 3,9 inch/65 cho các bệ pháo 5 inch/40 trên Yamato. Số lượng bệ pháo đôi 3,9 inch/65 vẫn chưa rõ ràng; hình ảnh này phản ánh tổng cộng 14 bệ, hoàn toàn là giả định. Vị trí của số lượng lớn các ụ pháo phòng không ba nòng 25mm cũng mang tính suy đoán và dựa trên cách bố trí của tàu Yamato vào năm 1945.

Hải quân Liên Xô – lớp Sovetsky Soyuz

Nguồn gốc
Các nhà thiết kế tàu chiến Liên Xô không có kinh nghiệm với thiết giáp hạm. Vào những năm 1930, các thiết giáp hạm duy nhất trong biên chế Hải quân Liên Xô là ba trong số bốn chiếc thuộc lớp Gangut, được đặt lườn vào năm 1909 và hoàn tất năm 1914. Đây là tàu Oktiabrskaia Revoliutsiia vào năm 1936. Mặc dù đã được hiện đại hóa trong thập niên 1930, những con tàu này vẫn có khả năng bảo vệ yếu, dàn pháo chính gồm các khẩu pháo 305mm/52 và tốc độ tối đa chỉ đạt 23 hải lý/giờ. Chúng không phù hợp để làm cơ sở cho lớp siêu thiết giáp hạm Sovetsky Soyuz. (Naval History and Heritage Command)
Các nhà thiết kế tàu chiến Liên Xô không có kinh nghiệm với thiết giáp hạm. Vào những năm 1930, các thiết giáp hạm duy nhất trong biên chế Hải quân Liên Xô là ba trong số bốn chiếc thuộc lớp Gangut, được đặt lườn vào năm 1909 và hoàn tất năm 1914. Đây là tàu Oktiabrskaia Revoliutsiia vào năm 1936. Mặc dù đã được hiện đại hóa trong thập niên 1930, những con tàu này vẫn có khả năng bảo vệ yếu, dàn pháo chính gồm các khẩu pháo 305mm/52 và tốc độ tối đa chỉ đạt 23 hải lý/giờ. Chúng không phù hợp để làm cơ sở cho lớp siêu thiết giáp hạm Sovetsky Soyuz. (Naval History and Heritage Command)
Một phần trong kế hoạch lớn của Stalin nhằm tăng cường năng lực quân sự của Liên Xô là củng cố lực lượng hải quân. Tầm nhìn này hướng đến một hạm đội biển xanh và “hạm đội đại dương” để làm công cụ răn đe trong thời kỳ bất ổn và để đóng vai trò như một biểu tượng cho sự vĩ đại của Liên Xô. Theo đó, một loạt kế hoạch hải quân hoành tráng đã được đệ trình trong những năm 1930, bao gồm việc đóng các thiết giáp hạm lớn. Tuy nhiên, triển vọng thực hiện chương trình này đã bị suy yếu bởi tình trạng yếu kém của nền công nghiệp Liên Xô và sau đó là cuộc Đại Thanh Trừng, bắt đầu ảnh hưởng đến giới lãnh đạo hải quân từ giữa năm 1937. Các cục thiết kế tàu chiến cũng chịu tác động nặng nề từ các cuộc thanh trừng. Điều này trực tiếp ảnh hưởng đến khả năng của Hải quân Liên Xô trong việc thiết kế và chế tạo các thiết giáp hạm lớn, tiên tiến tương đương với các thiết kế đang được cân nhắc ở phương Tây.
Một chương trình hải quân được thông qua vào tháng 6 năm 1936 bao gồm kế hoạch đóng tám thiết giáp hạm “Kiểu A” trọng tải 35.000 tấn và 16 thiết giáp hạm “Kiểu B” trọng tải 26.000 tấn. Năm 1937, trọng tải của các tàu Kiểu A được nâng lên 55.000–57.000 tấn theo mong muốn của hải quân. Kế hoạch này gặp nguy cơ bị phá sản khi chính phủ Liên Xô ký một thỏa thuận vào tháng 7 năm 1937 với Vương quốc Anh, cam kết tuân thủ giới hạn trọng tải 35.000 tấn cho thiết giáp hạm theo Hội nghị Luân Đôn lần thứ hai. Thỏa thuận này được cập nhật vào tháng 7 năm 1938, theo đó Liên Xô áp dụng “điều khoản leo thang” trong Hiệp ước Luân Đôn lần hai, nâng giới hạn lên 45.000 tấn. Ngay cả giới hạn mới này cũng bị các nhà thiết kế Liên Xô bỏ qua.
Trong số bốn chiếc siêu thiết giáp hạm thuộc lớp Sovetsky Soyuz, chỉ có chiếc Sovetskii Soiuz được phân công đóng tại Xưởng Ordzhonikidze ở Leningrad. Công việc thi công bắt đầu vào tháng 1 năm 1939, sau khi tiến hành nghi thức đặt lườn giả vào tháng 7 năm trước đó nhằm làm vừa lòng Stalin. Người Liên Xô nhanh chóng vấp phải vô số vấn đề công nghiệp trong quá trình đóng tàu. Sau cuộc xâm lược của Đức vào tháng 6 năm 1941, công việc bị đình chỉ vào ngày 10 tháng 7 năm 1941 và thân tàu được đưa vào trạng thái bảo quản dài hạn. Bức ảnh trinh sát đường không của Đức này chụp chiếc Sovetskii Soiuz chưa hoàn thành vào ngày 28 tháng 3 năm 1942. Đáng ngạc nhiên, thân tàu hầu như không bị hư hại trong suốt cuộc vây hãm Leningrad. (Naval History and Heritage Command)
Trong số bốn chiếc siêu thiết giáp hạm thuộc lớp Sovetsky Soyuz, chỉ có chiếc Sovetskii Soiuz được phân công đóng tại Xưởng Ordzhonikidze ở Leningrad. Công việc thi công bắt đầu vào tháng 1 năm 1939, sau khi tiến hành nghi thức đặt lườn giả vào tháng 7 năm trước đó nhằm làm vừa lòng Stalin. Người Liên Xô nhanh chóng vấp phải vô số vấn đề công nghiệp trong quá trình đóng tàu. Sau cuộc xâm lược của Đức vào tháng 6 năm 1941, công việc bị đình chỉ vào ngày 10 tháng 7 năm 1941 và thân tàu được đưa vào trạng thái bảo quản dài hạn. Bức ảnh trinh sát đường không của Đức này chụp chiếc Sovetskii Soiuz chưa hoàn thành vào ngày 28 tháng 3 năm 1942. Đáng ngạc nhiên, thân tàu hầu như không bị hư hại trong suốt cuộc vây hãm Leningrad. (Naval History and Heritage Command)
Giữa bối cảnh bất ổn do các cuộc thanh trừng, môi trường quốc tế bất định, và khó đoán định được ý muốn của Stalin, Hải quân Liên Xô vẫn tiếp tục thúc đẩy kế hoạch hải quân. Một kế hoạch mới vào năm 1937 chỉ còn sáu tàu Kiểu A và 12 tàu Kiểu B. Năm sau, một chương trình khác loại bỏ thiết giáp hạm Kiểu B và tăng số lượng tàu Kiểu A nặng lên 15 chiếc. Kế hoạch này bị giảm xuống vào năm 1939 và được xác nhận lại vào năm 1940 là sáu thiết giáp hạm, tất cả sẽ được đặt lườn trước tháng 12 năm 1942. Ngay cả kế hoạch này cũng bị điều chỉnh sau khi nước Pháp thất thủ, khiến cho việc đóng các thiết giáp hạm lớn trở nên bị xem là sự xa xỉ không cần thiết. Tháng 10 năm đó, việc đặt lườn thêm bất kỳ thiết giáp hạm nào bị dừng lại để ưu tiên đóng tàu ngầm và tàu khu trục. Công việc trên tàu Sovetskaia Belorussiia bị dừng, nhưng việc đóng ba tàu còn lại vẫn cố gắng được duy trì. Đó là Sovetskaia Rossiia được đóng gần Arkhangelsk, Sovetskii Soiuz ở Leningrad, và Sovetskaia Ukraina tại Nikolaev. Cả ba đều được dự kiến hạ thủy trong năm 1943.
Bản thiết kế cuối cùng của lớp Sovetsky Soyuz năm 1939.
Bản thiết kế cuối cùng của lớp Sovetsky Soyuz năm 1939.
Công việc thiết kế cho lớp thiết giáp hạm mới được thực hiện bởi cục thiết kế KB-4 tại Leningrad. Bộ Tham mưu Hải quân chủ trì đưa ra các yêu cầu kỹ thuật cho cục thiết kế thực hiện. Khi bản vẽ sơ bộ được phê duyệt, cơ quan đóng tàu bắt đầu thực hiện thiết kế kỹ thuật. Quá trình này kéo dài do liên tục phải sửa đổi giữa hải quân và cơ quan đóng tàu, chủ yếu do các kỳ vọng phi thực tế từ phía hải quân. Vấn đề này sau đó được xử lý theo hướng hành chính khi văn phòng thiết kế sơ bộ của hải quân bị sát nhập vào một nhánh của cơ quan đóng tàu. Dù quá trình này vốn đã rất khó khăn, tình hình lại ngày càng trở nên phức tạp hơn bởi sự can thiệp chính trị. Điều này diễn ra ở cấp cao nhất, khi Stalin liên tục can thiệp vào thiết kế các tàu này. Ông thậm chí còn tự viết lại các yêu cầu thiết kế, làm đổ bể nhiều tháng công việc.
Hai cục thiết kế đã nộp bản vẽ sơ bộ cho thiết giáp hạm Kiểu A vào tháng 11 năm 1936. Thiết kế của KB-4 được chọn và trở thành nền tảng cho lớp Sovetsky Soyuz. Ngay từ thời điểm này, thiết kế đã vượt giới hạn 45.000 tấn, với mức 46.000–47.000 tấn. Thiết kế kỹ thuật đầu tiên của KB-4 đạt 48.415 tấn. Hải quân phản đối, và đến tháng 4 năm 1937 một thiết kế kỹ thuật cho tàu 47.700 tấn được đưa ra. Tuy nhiên, tất cả các bên đã nhận ra rằng để đáp ứng yêu cầu của hải quân, một con tàu lớn hơn nhiều – khoảng 55.000 tấn – là cần thiết. Tháng 7 năm 1937, Stalin đồng ý với thiết kế mới có trọng tải 55.000–57.000 tấn, được trang bị pháo chính 406mm (16 inch), giáp đai dày tối đa gần 381mm, và tốc độ tối đa 29 hải lý/giờ. Đây là thay đổi lớn đòi hỏi tái thiết kế toàn bộ, và diễn ra đúng vào thời điểm các cuộc thanh trừng đạt đỉnh trong ngành hải quân và thiết kế. Bất chấp các khó khăn, đội ngũ thiết kế còn lại vẫn hoàn thành bản thiết kế vào tháng 11 năm 1937.
Đến tháng 2 năm 1938, thiết kế đã tăng lên 58.420 tấn, vẫn giữ dàn pháo chính và tốc độ cũ. Mặc dù bản thiết kế chưa hoàn thiện ở tất cả các khía cạnh – đặc biệt là phần động lực – quyết định vẫn được đưa ra là đặt lườn chiếc đầu tiên vào tháng 7 năm 1938 theo thiết kế này. Bản vẽ kỹ thuật chỉ được phê duyệt vào tháng 7. Việc thi công bắt đầu vào đầu năm 1939 nhưng tiến triển rất chậm, như sẽ được mô tả bên dưới.
Hỗ trợ từ nước ngoài cho chương trình siêu thiết giáp hạm của Liên Xô
Thiết kế thiết giáp hạm 'UP41' của hãng kiến trúc Ý Ansaldo dựa trên lớp Vittorio Veneto.
Thiết kế thiết giáp hạm 'UP41' của hãng kiến trúc Ý Ansaldo dựa trên lớp Vittorio Veneto.
Tiến trình thiết kế siêu thiết giáp hạm của Liên Xô đã được hỗ trợ gián tiếp từ nước ngoài. Từ năm 1925, Ý đã cung cấp sự hỗ trợ về thiết kế và đóng tàu chiến. Đến năm 1935, sự hỗ trợ này được cụ thể hóa dưới hình thức hỗ trợ thiết kế một thiết giáp hạm. Thiết kế do phía Ý cung cấp dựa trên lớp Vittorio Veneto, nhưng có kết hợp một số ý tưởng thiết kế của Liên Xô. Liên Xô chưa bao giờ có ý định đóng thiết giáp hạm theo bản thiết kế Ý mà họ nhận được vào tháng 7 năm 1936, nhưng một số dữ liệu kỹ thuật đã được tích hợp vào các thiết kế trong nước.
Nhiều nỗ lực hơn đã được dành cho việc tìm kiếm hỗ trợ kỹ thuật từ Mỹ. Điều này bao gồm việc thành lập một công ty được tài trợ đầy đủ tại Hoa Kỳ nhằm thu mua thiết bị cho các siêu thiết giáp hạm mới. Giám đốc của công ty này hoàn toàn không am hiểu về các vấn đề hải quân, nhưng lại là con rể của Bộ trưởng Ngoại giao V. M. Molotov. Nỗ lực này cũng bị cản trở bởi thái độ lạnh nhạt của Hải quân Hoa Kỳ đối với việc hỗ trợ thực chất cho Liên Xô. Dù Hải quân Mỹ nghĩ gì về mong muốn của Liên Xô, Tổng thống Roosevelt lại cho rằng việc này là ý tưởng tốt, nên các nỗ lực của Liên Xô đã đạt được một số tiến triển. Họ đã chuẩn bị ký hợp đồng với một xưởng đóng tàu Mỹ để đóng một thiết giáp hạm 35.000 tấn với pháo 16 inch, kèm theo các bộ phận cấu kiện cho ít nhất một chiếc nữa sẽ được đóng tại Liên Xô. Xưởng đóng tàu được tiếp cận là New York Shipbuilding và Bethlehem Shipbuilding Corporation. Tuy nhiên, họ không nhận được phê duyệt chính thức từ Bộ Ngoại giao và thương vụ bị hủy bỏ vào tháng 5 năm 1937. Sau thất bại đó, Liên Xô tiếp tục tiếp cận Hải quân Mỹ để tìm kiếm phê duyệt. Mặc dù New York Shipbuilding rất mong muốn nhận hợp đồng, nhưng thương vụ vẫn bị đổ vỡ.
Thiết kế thiết giáp hạm lai tàu sân bay của hãng kiến trúc Mỹ Gibbs & Cox.
Thiết kế thiết giáp hạm lai tàu sân bay của hãng kiến trúc Mỹ Gibbs & Cox.
Một diễn biến đáng chú ý hơn là việc Liên Xô đã tiếp cận hãng kiến trúc hải quân danh tiếng Gibbs & Cox vào tháng 8 năm 1937. Bản thiết kế do William Francis Gibbs thực hiện sau đó là một siêu thiết giáp hạm lai tàu sân bay nặng 62.000 tấn. Thiết kế này ban đầu không được trình cho phía Liên Xô và cũng không được Bộ Ngoại giao Mỹ phê duyệt do vi phạm các hiệp ước hải quân hiện đang có hiệu lực. Trong khi đó, chính phủ Liên Xô thay đổi yêu cầu xuống còn 45.000 tấn. Stalin đã trực tiếp can thiệp bằng cách gặp đại sứ Mỹ vào ngày 5 tháng 6 năm 1938 để thúc giục Washington phê chuẩn dự án. Roosevelt đồng ý cho phép đóng một siêu thiết giáp hạm 45.000 tấn tại Mỹ cho phía Liên Xô, và cũng phê duyệt việc chuyển giao bản thiết kế “quái vật” 62.000 tấn.
Gibbs bắt đầu thiết kế siêu thiết giáp hạm 45.000 tấn và gặp phái đoàn Liên Xô trong khoảng tháng 3 đến tháng 5 năm 1939, nhưng lại tiếp tục gặp trì hoãn do Hải quân Mỹ gây ra. Dù sao đi nữa, mối quan tâm của Liên Xô lúc này đã chuyển sang các thiết kế tàu khu trục. Sau cuộc xâm lược Ba Lan của Liên Xô vào tháng 9, Gibbs thông báo với phía Liên Xô rằng ông sẽ không hợp tác với họ nữa.
Bảo vệ
Quy mô bảo vệ dự kiến dành cho lớp tàu mới này là cực kỳ lớn. Yêu cầu thiết kế là phải chịu được đạn pháo 406mm (16 inch) và bom 1.100lb. Trên thực tế, tổng khối lượng giáp trang bị còn vượt cả lớp Yamato của Hải quân Nhật Bản. Tuy nhiên, khả năng bảo vệ này kém ấn tượng hơn con số thể hiện. Các nhà máy sản xuất giáp tại Liên Xô không thể chế tạo được các tấm giáp dày hơn 230mm. Vào tháng 11 năm 1940, người ta quyết định thay thế thép giáp xi-măng bằng loại thép tôi mặt cứng ở các khu vực cần giáp dày trên 8 inch. Đây là một sự sụt giảm đáng kể về khả năng bảo vệ vì thép không xi-măng của Liên Xô tỏ ra giòn hơn nhiều trong các thử nghiệm.
Đai giáp chính, kéo dài trên 57% chiều dài đường nước, bao phủ khu vực hầm tàu với lớp giáp dày nhất là 16,5 inch tại khu vực kho đạn. Lớp này giảm xuống còn dưới 15 inch ở khu vực buồng máy. Phía trên đai giáp chính là một đai chống mảnh đạn dày 25mm kéo dài toàn bộ chiều dài khu vực hầm. Giáp cũng được trang bị trên toàn bộ chiều dài con tàu, không chỉ riêng phần hầm được bọc giáp. Ở mũi tàu, đai giáp chính bắt đầu với độ dày 8,7 inch rồi giảm dần xuống dưới 1 inch, được thay thế bằng một đai chống mảnh kéo dài đến mũi. Ở đuôi tàu, độ dày giảm từ 15 inch xuống còn 7,1 inch.
Các kỹ sư thiết kế Liên Xô gặp khó khăn trong việc cung cấp khả năng bảo vệ ngang đầy đủ cho tàu. Các thử nghiệm vào năm 1937 tại Biển Đen trên một tàu chở hàng được lắp các tổ hợp giáp sàn khác nhau cho thấy rằng sàn giáp chính nên được đặt cao hơn trong thân tàu, với một sàn chống mảnh bên dưới. Điều này tạo ra vấn đề về trọng lượng vì yêu cầu đai giáp chính cũng phải được kéo lên cao theo. Bảo vệ ngang được thực hiện qua ba lớp riêng biệt bên trên khu vực hầm. Sàn boong mũi dày khoảng 1 inch được thiết kế để kích nổ bom hoặc đạn pháo trước khi chúng chạm tới sàn chính phía dưới – sàn này dày 6,1 inch. Lớp cuối cùng, sàn chống mảnh, dày khoảng 2 inch. Các khu vực phía trước khu vực hầm nhận được lớp giáp dày 2,6–4 inch, trong khi khu vực phía sau được trang bị giáp dày từ 6,1 đến 2,6 inch.
Bảo vệ dưới nước được thiết kế để chống chịu một vụ nổ tương đương với đầu đạn chứa 1.650lb TNT. Các thử nghiệm quy mô lớn được thực hiện trên các mô hình tỷ lệ và một hầm thử cỡ thật để xác định hệ thống bảo vệ dưới nước tối ưu. Những thử nghiệm này kéo dài đến mùa thu năm 1939 và chỉ ra rằng hệ thống vách chống ngư lôi nhiều lớp của Mỹ vượt trội so với hệ thống Pugliese của Ý. Kết quả là một thiết kế lai: hệ thống Pugliese được áp dụng ở khu vực phía trước thân tàu (kéo dài hơn 400ft), trong khi khu vực giữa tàu (108ft tiếp theo) áp dụng hệ thống nhiều lớp chống ngư lôi kiểu Mỹ. Chiều sâu của hệ thống đạt 26 feet tại khu vực giữa tàu và 22 feet ở phía trước và phía sau.
Hệ thống động lực
Một hệ thống ba trục được lựa chọn nhằm rút ngắn chiều dài khu vực thành trì bọc giáp và do đó tiết kiệm trọng lượng. Cách bố trí này ảnh hưởng đến hiệu suất tổng thể của hệ thống động lực. Quá trình hoàn thiện các tua-bin do Liên Xô sản xuất trong nước gặp nhiều trục trặc lớn, dẫn đến việc không có tua-bin nào được hoàn thành. Chỉ có ba tua-bin từ Thụy Sĩ được bàn giao. Nồi hơi đầu tiên, cũng theo thiết kế Thụy Sĩ, không được hoàn thành cho đến đầu năm 1941.
Sơ đồ bố trí máy móc không hề tối ưu. Bốn nồi hơi được đặt trong hai phòng nồi hơi ở phía trước, còn ba tua-bin thì tập trung trong một khoang duy nhất phía sau chúng. Dù có thể có vách ngăn chia giữa các tua-bin, việc đặt tất cả trong một khoang chung là một điểm yếu tiềm tàng. Hai nồi hơi còn lại được đặt trong một khoang riêng phía sau khoang máy.
Vũ khí
 Pháo B-37 406 mm của Sovetsky Soyuz trên bệ thử nghiệm MP-10, năm 1940.
Pháo B-37 406 mm của Sovetsky Soyuz trên bệ thử nghiệm MP-10, năm 1940.
Pháo hạm L50 406 mm của Liên Xô trên bệ đơn để thử nghiệm Kramatorsk, 1939 được dùng để sử dụng trên tàu chiến lớp Sovetsky Soyuz
Pháo hạm L50 406 mm của Liên Xô trên bệ đơn để thử nghiệm Kramatorsk, 1939 được dùng để sử dụng trên tàu chiến lớp Sovetsky Soyuz
Dàn pháo chính gồm chín khẩu pháo 16 inch/50 bố trí trong ba tháp pháo ba nòng. Đây là loại pháo mới và đã vượt qua các thử nghiệm thành công vào năm 1940. Mỗi tháp pháo có kính ngắm 39 feet và có thể điều khiển tại chỗ. Hệ thống điều khiển hỏa lực trung tâm sử dụng hai kính ngắm lập thể dài 26 feet. Một kính để đo cự ly mục tiêu, còn kính kia đo điểm rơi của đạn pháo tàu bắn ra. Một máy tính cơ điện được lắp đặt để tính toán tầm bắn và góc bắn.
Số lượng và vị trí dàn pháo hạng hai được nghiên cứu kỹ nhằm tránh ảnh hưởng từ sóng chấn từ vụ nổ của pháo chính cũng như vị trí kho đạn. Một cách bố trí lỗi thời được áp dụng, theo đó tách biệt pháo chống tàu với pháo phòng không hạng nặng. Dàn pháo chống tàu gồm 12 khẩu pháo 6 inch/57 bố trí trong sáu tháp đôi đặt giữa thân tàu. Phòng không tầm xa được đảm nhận bởi tám khẩu pháo 3,9 inch/56 trong bốn tháp đôi. Sau khi hải quân phàn nàn, số lượng này được nâng lên thành 12 khẩu trong sáu tháp pháo đôi vào tháng 1 năm 1941, với việc bổ sung thêm hai tháp pháo ở đuôi tàu. Các pháo này được điều khiển bởi ba đài chỉ huy ổn định. Phòng không tầm gần gồm 32 khẩu pháo 37mm/67.5 bố trí trong tám cụm pháo. Hải quân cho rằng số lượng này không đủ nên đã tăng lên 40 khẩu vào năm 1941. Đáng chú ý, các cụm pháo này đều được bọc kín để bảo vệ kíp pháo thủ khỏi mảnh bom và sóng chấn từ pháo lớn.
Các cơ sở không quân được bố trí ở đuôi tàu và ban đầu chỉ có một bệ phóng. Đến tháng 1 năm 1941, số lượng bệ phóng tăng lên hai. Có hai nhà chứa cho hai thủy phi cơ KOR-2, và hai chiếc khác để sẵn trên bệ phóng hoặc boong tàu.
Số phận
Với tình trạng của ngành đóng tàu Liên Xô lúc bấy giờ và quy mô cùng độ phức tạp của lớp Sovetsky Soyuz, gần như không có khả năng thực tế nào để các tàu này có thể hoàn thành. Việc sản xuất giáp không đáp ứng được yêu cầu số lượng, và phần lớn giáp chế tạo ra bị các nhà máy đóng tàu từ chối do chất lượng kém. Hệ thống động lực cũng không hoàn thiện; không một đơn vị tua-bin nào từ thiết kế Thụy Sĩ được hoàn thành. Ngoài ra còn có vấn đề với trục chân vịt và tháp pháo chính. Các xưởng đóng tàu gặp khó khăn khi áp dụng công nghệ hàn, khiến các tàu này vẫn được đóng chủ yếu bằng đinh tán.
Một tùy viên hải quân Hoa Kỳ đã chụp bức ảnh này của chiếc Sovetskii Soiuz vào tháng 6 năm 1944 tại Xưởng Ordzhonikidze ở Leningrad. Thân tàu trông còn nguyên vẹn; vào thời điểm chiến tranh bắt đầu, phần thân của tàu được ước tính đã hoàn thành 21%, với 15.818 tấn thép đã lắp đặt, bao gồm 4.287 tấn giáp. Thân tàu chỉ chịu ít thiệt hại trong suốt cuộc chiến, nhưng một phần giáp đã được tháo ra để sử dụng cho các công trình phòng thủ trong cuộc chiến bảo vệ Leningrad, khiến mức độ hoàn thành giảm xuống còn 19,5%. Tại thời điểm đó, đây là chiếc có tiến độ hoàn thành cao nhất trong số các siêu thiết giáp hạm của Liên Xô, điều này đã làm dấy lên sự quan tâm đến khả năng hoàn tất con tàu sau chiến tranh. (Naval History and Heritage Command)
Một tùy viên hải quân Hoa Kỳ đã chụp bức ảnh này của chiếc Sovetskii Soiuz vào tháng 6 năm 1944 tại Xưởng Ordzhonikidze ở Leningrad. Thân tàu trông còn nguyên vẹn; vào thời điểm chiến tranh bắt đầu, phần thân của tàu được ước tính đã hoàn thành 21%, với 15.818 tấn thép đã lắp đặt, bao gồm 4.287 tấn giáp. Thân tàu chỉ chịu ít thiệt hại trong suốt cuộc chiến, nhưng một phần giáp đã được tháo ra để sử dụng cho các công trình phòng thủ trong cuộc chiến bảo vệ Leningrad, khiến mức độ hoàn thành giảm xuống còn 19,5%. Tại thời điểm đó, đây là chiếc có tiến độ hoàn thành cao nhất trong số các siêu thiết giáp hạm của Liên Xô, điều này đã làm dấy lên sự quan tâm đến khả năng hoàn tất con tàu sau chiến tranh. (Naval History and Heritage Command)
Bốn con tàu được đặt lườn và dự kiến hoàn thành vào năm 1939 và đưa vào phục vụ hạm đội vào năm 1941. Tuy nhiên, lịch trình này không bao giờ khả thi. Con tàu dẫn đầu, Sovetskii Soiuz, được cho là bắt đầu đặt ky vào tháng 7 năm 1938 để xoa dịu Stalin. Công việc thực sự chỉ bắt đầu vào tháng 1 năm 1939. Việc đóng hai tàu tại Leningrad và hai tàu tại Nikolaev như kế hoạch ban đầu là bất khả thi, vì vậy hai tàu được chuyển đến xưởng đóng tàu mới tại Molotovsk gần Arkhangelsk. Các bộ phận cho hai con tàu này được chế tạo tại Leningrad và sau đó được chuyển lên phía bắc đến cơ sở mới.
Vào tháng 8 năm 1939, thời gian thi công ước tính là 60 tháng. Theo đó, Sovetskii SoiuzSovetskaia Ukraina dự kiến hạ thủy vào tháng 5–6 năm 1941 và đưa vào biên chế năm 1943. Sovetskaia Belorussiia sẽ theo sau vào năm 1944. Tuy nhiên, như đã đề cập, tiến độ thi công chậm chạp và cả chương trình rơi vào nghi vấn. Ngày 19 tháng 10 năm 1940, việc xây dựng Sovetskaia Belorussiia bị hủy bỏ sau khi phát hiện 70.000 đinh tán ở đáy tàu được làm từ thép kém chất lượng. Việc hủy bỏ một tàu tại Molotovsk cho phép tàu kia, Sovetskaia Rossiia, có thể hoàn tất sớm hơn (năm 1943 thay vì 1944). Khi quân Đức xâm lược Liên Xô vào tháng 6 năm 1941, không tàu nào trong ba chiếc còn lại hoàn thành quá 20%. Khi thấy rõ rằng chúng sẽ không thể hoàn thành kịp thời để góp phần tham chiến chống Đức, nên vào ngày 10 tháng 7 năm 1941, công việc trên ba tàu còn lại bị đình chỉ. Ngoại trừ Sovetskii Soiuz, được đưa vào bảo quản dài hạn, ba chiếc kia bị hủy bỏ vào ngày 10 tháng 9 năm 1941.
Hai bức ảnh về chiếc Sovetskaia Ukraina do người Đức chụp lại vào tháng 9/1941. Ảnh phía trên là phần mũi tàu, được chụp từ mép trước của bệ pháo chính số 2. Ảnh phía dưới, cũng nhìn về phía trước, cho thấy phần giữa tàu. (Henri Le Masson)
Hai bức ảnh về chiếc Sovetskaia Ukraina do người Đức chụp lại vào tháng 9/1941. Ảnh phía trên là phần mũi tàu, được chụp từ mép trước của bệ pháo chính số 2. Ảnh phía dưới, cũng nhìn về phía trước, cho thấy phần giữa tàu. (Henri Le Masson)
Bức ảnh cuối cùng của chiếc Sovetskaia Ukraina có lẽ được chụp trong giai đoạn từ năm 1943-44. (S.A. Smiley)
Bức ảnh cuối cùng của chiếc Sovetskaia Ukraina có lẽ được chụp trong giai đoạn từ năm 1943-44. (S.A. Smiley)
Sau chiến tranh, một ủy ban đặc biệt được thành lập để đánh giá khả năng hoàn thiện bất kỳ thân tàu nào còn lại. Stalin tin rằng ít nhất một chiếc nên được hoàn tất. Dù Sovetskaia Ukraina ở Nikolaev đã hoàn thành được 18% vào lúc chiến tranh bắt đầu, phần thân tàu đã bị quân Đức tháo dỡ khi chiếm đóng thành phố. Trước khi rút lui, quân Đức cho nổ các giá đỡ dưới một bên thân tàu, khiến việc hạ thủy trở nên bất khả thi. Sovetskaia Rossiia tại Molotovsk còn chưa đạt 1% hoàn thành. Phương án hứa hẹn nhất là tiếp tục hoàn tất Sovetskii Soiuz ở Leningrad. Dù bị hư hại do chiến tranh và một phần giáp bị tháo ra để dùng trong công sự quanh Leningrad, con tàu vẫn đạt mức hoàn thành 19,5%. Ba tua-bin Thụy Sĩ vẫn còn sẵn có để lắp đặt. Tuy nhiên, ủy ban ghi nhận rằng các tàu chưa hoàn thiện này có nhiều điểm yếu và sẽ thua kém các thiết kế nước ngoài hiện có. Việc khắc phục các thiếu sót này có thể mất tới ba năm, và việc hoàn tất tàu sẽ tiêu tốn nguồn lực xưởng đóng vốn có thể dùng để đóng các tàu hiện đại hơn. Do đó, ủy ban đề nghị hủy bỏ Sovetskaia UkrainaSovetskaia Rossiia, nhưng tránh đưa ra đề xuất tương tự cho Sovetskii Soiuz để không làm Stalin phật ý. Tháng 3 năm 1947, hai tàu đầu tiên được lệnh tháo dỡ. Sovetskii Soiuz tồn tại đến tháng 5 năm 1948, khi cũng bị ra lệnh tháo dỡ. Tham vọng chế tạo siêu thiết giáp hạm của Liên Xô cuối cùng đã chấm dứt.
LỚP SOVETSKY SOYUZ
Một siêu thiết giáp hạm khổng lồ lớp Sovetsky Soyuz được mô tả trong các hình ảnh này. Con tàu toát lên vẻ uy lực mạnh mẽ với ba tháp pháo ba nòng cỡ 16 inch cùng hai ống khói đồ sộ. Cấu trúc thượng tầng phía trước có hình dáng thấp và gọn. Cột buồm chính được đặt giữa tàu, nằm giữa hai ống khói. Khác với các siêu thiết giáp hạm khác cùng thời, thân tàu không có boong liên tục. Cách bố trí dàn pháo hạng hai không tối ưu. Để tác chiến mặt biển, tàu được trang bị 12 khẩu pháo 6 inch/57 bố trí trong sáu tháp pháo đôi, tất cả đều tập trung ở khu vực giữa tàu. Dàn pháo phòng không tầm xa bao gồm 12 khẩu 3,9 inch/56 trong sáu tháp pháo đôi; hai trong số này được đặt trên đuôi tàu, giữa các thiết bị hàng không. Cũng dễ thấy là dàn pháo phòng không hạng nhẹ, gồm 40 khẩu 37mm/67,5 trong mười bệ pháo bố trí quanh các cấu trúc thượng tầng phía trước và sau. Các bệ pháo này được bọc kín hoàn toàn để bảo vệ kíp pháo thủ khỏi mảnh bom và áp lực từ các khẩu pháo lớn hơn. Boong đuôi được dùng làm khu vực phục vụ hoạt động hàng không. Hai máy phóng đã được lên kế hoạch bổ sung sau này. Cần cẩu máy bay và nhà chứa cũng có thể được nhìn thấy.

Trận chiến giả tưởng giữa các siêu thiết giáp hạm: trận hải chiến ngoài khơi Honshu năm 1946

Chiến dịch Coronet năm 1946.
Chiến dịch Coronet năm 1946.
Cuộc đụng độ lớn nhất giữa các thiết giáp hạm trong lịch sử diễn ra vào ngày 15 tháng 3 năm 1946. Trong cuộc giao chiến khổng lồ này, thiết giáp hạm USS Montana của Hải quân Hoa Kỳ đối đầu với siêu thiết giáp hạm Yamato dựa trên thiết kế A-150 của Hải quân Đế quốc Nhật Bản. Sau khi Nhật Bản từ chối đầu hàng mặc dù đã phải hứng chịu nhiều vụ ném bom nguyên tử, Hoa Kỳ quyết định tiến hành Chiến dịch Coronet, cuộc đổ bộ lên đảo Honshu. Vào thời điểm đó, Hải quân Nhật Bản gần như chỉ còn là một tập hợp các lực lượng cảm tử, ngoại trừ một ngoại lệ duy nhất. Việc đóng mới siêu Yamato, được khởi công từ năm 1942, mặc dù gặp nhiều khó khăn nhưng vẫn được tiếp tục và hoàn tất trước thời điểm dự kiến diễn ra cuộc xâm lược. Chiếc siêu thiết giáp hạm được đưa đến Yokosuka để bảo vệ tuyến đường biển dẫn vào Tokyo. Việc Nhật hoàn thiện chiếc siêu thiết giáp hạm đã không qua mắt được người Mỹ. Để đối phó với mối đe dọa này, Mỹ đã phê duyệt đóng hai chiếc thuộc lớp Montana. Khi cuộc xâm lược bắt đầu, Montana đã được đưa vào hoạt động, và thủy thủ đoàn nóng lòng muốn đối đầu với kẻ thù khổng lồ đang được đồn đại là đã sẵn sàng tham chiến.
Trong cảnh hư cấu này, Montana đang giao chiến với một thiết giáp hạm chưa bị phát hiện của Hải quân Đế quốc Nhật Bản (IJN). Mười hai khẩu pháo 16 inch của con tàu được xoay sang mạn trái và nâng nòng lên, chuẩn bị khai hỏa một loạt đạn. Như đã được nhấn mạnh trong trận Honshu hư cấu trong phần văn bản trước, một chỉ huy Mỹ với một siêu thiết giáp hạm lớp Montana dưới quyền, khi đối đầu với một lực lượng mặt biển của IJN, có lẽ sẽ chọn cách giao chiến ở tầm xa để tận dụng lợi thế từ hệ thống điều khiển hỏa lực vượt trội của Montana. Bằng cách giữ trận chiến ở tầm xa, Montana vẫn có thể bắn trúng mục tiêu một cách chính xác, trong khi phía Nhật vốn không có ra-đa điều khiển hỏa lực thực sự, sẽ không thể đáp trả hiệu quả.
Trong cảnh hư cấu này, Montana đang giao chiến với một thiết giáp hạm chưa bị phát hiện của Hải quân Đế quốc Nhật Bản (IJN). Mười hai khẩu pháo 16 inch của con tàu được xoay sang mạn trái và nâng nòng lên, chuẩn bị khai hỏa một loạt đạn. Như đã được nhấn mạnh trong trận Honshu hư cấu trong phần văn bản trước, một chỉ huy Mỹ với một siêu thiết giáp hạm lớp Montana dưới quyền, khi đối đầu với một lực lượng mặt biển của IJN, có lẽ sẽ chọn cách giao chiến ở tầm xa để tận dụng lợi thế từ hệ thống điều khiển hỏa lực vượt trội của Montana. Bằng cách giữ trận chiến ở tầm xa, Montana vẫn có thể bắn trúng mục tiêu một cách chính xác, trong khi phía Nhật vốn không có ra-đa điều khiển hỏa lực thực sự, sẽ không thể đáp trả hiệu quả.
Khi lực lượng xâm lược của Mỹ bị phát hiện, siêu Yamato chuẩn bị rời Yokosuka cùng một số tàu khu trục hộ tống nhằm đánh vào lực lượng đổ bộ ở phía tây vịnh Tokyo. May mắn cho phía Nhật, thời tiết cực kỳ xấu và nhiều mây che phủ khiến lực lượng tàu sân bay khổng lồ của Mỹ không thể can thiệp. Đáp lại, phía Mỹ quyết định điều Montana cùng một lực lượng tàu khu trục với số lượng lớn để đối đầu với mối đe dọa này. Các thiết giáp hạm khác được giữ lại vì người Mỹ tin rằng chiếc siêu Yamato được trang bị pháo hạm cỡ lớn – có thể lên tới 20 inch.
Thật đáng kinh ngạc, lực lượng Nhật Bản đã tránh được các tàu ngầm Mỹ đang chờ sẵn ngoài vịnh Tokyo và tiến thẳng đến khu vực đổ bộ phía tây. Montana được lệnh chặn đánh. Trận đánh bắt đầu lúc chạng vạng tối. Các tàu khu trục Mỹ là bên đầu tiên bắt được tín hiệu radar của siêu Yamato, và không lâu sau đó Montana cũng bắt được tín hiệu ở cự ly gần 40.000 yard. Vào tháng 2 năm 1944, ngoài khơi Truk Atoll, hai thiết giáp hạm lớp Iowa từng khai hỏa ở khoảng cách lên đến 39.000 yard – là tầm bắn xa nhất từng ghi nhận trong chiến tranh. Nhưng lần này, radar Mark 8 trên Montana đã hoạt động đúng như kỳ vọng, và khai hỏa ở khoảng cách 39.500 yard. Montana bắn các loạt đạn ngắm một cách thận trọng trong khi cơ động để rút ngắn khoảng cách xuống còn 32.000 yard – được cho là nằm trong vùng miễn nhiễm của Montana. Đô đốc chỉ huy phía Mỹ hài lòng với việc giao chiến ở tầm xa, tận dụng lợi thế từ hệ thống điều khiển hỏa lực vượt trội. Khi trời tối hơn, tầm nhìn trực tiếp với tàu Nhật bị mất, nhưng radar cho thấy mục tiêu đã nhiều lần bị làn đạn bao quây (straddled), và có thể đã trúng vài phát đạn.
Trong cảnh này, siêu thiết giáp hạm theo thiết kế A-150 của Hải quân Đế quốc Nhật Bản (IJN) đang được thể hiện khi đang tác chiến với một thiết giáp hạm Hoa Kỳ chưa xuất hiện. Thiết kế A-150 được thiết kế xoay quanh dàn pháo chính khổng lồ cỡ 20,1 inch – các khẩu pháo này được làm nổi bật trong hình ảnh này. Cả ba tháp pháo nòng đôi đều xoay sang mạn trái và đã nâng nòng lên, chuẩn bị khai hỏa một loạt đạn nhắm vào mục tiêu Mỹ. IJN mong muốn con tàu này tiếp tục duy trì ưu thế chất lượng vượt trội so với các thiết giáp hạm Mỹ, như lớp Yamato đã đạt được nhờ dàn pháo chính 18,1 inch và mức độ bảo vệ cực kỳ kiên cố. Học thuyết tác xạ của IJN được xây dựng dựa trên giả định rằng dàn pháo chính của các thiết giáp hạm Nhật sẽ có tầm bắn vượt trội so với pháo chính của đối phương. Điều này chắc chắn đúng với lớp Yamato khi đối đầu với bất kỳ thiết giáp hạm nào của Mỹ được trang bị pháo 16 inch, và người Nhật kỳ vọng sẽ duy trì lợi thế này bằng cách trang bị pháo 20,1 inch cho lớp siêu thiết giáp hạm tiếp theo. Hệ thống điều khiển hỏa lực của thiết giáp hạm Nhật Bản được xây dựng dựa trên các bộ đo tầm quang học xuất sắc. Ngay cả khi không sử dụng ra-đa, người Nhật vẫn kỳ vọng có thể khai hỏa ở khoảng cách lên tới 45.000 yard. Tuy nhiên, trong một cuộc đấu pháo với một tàu Mỹ được trang bị hệ thống điều khiển hỏa lực dẫn đường bằng ra-đa, chiến thuật này sẽ là hết sức bất lợi.
Trong cảnh này, siêu thiết giáp hạm theo thiết kế A-150 của Hải quân Đế quốc Nhật Bản (IJN) đang được thể hiện khi đang tác chiến với một thiết giáp hạm Hoa Kỳ chưa xuất hiện. Thiết kế A-150 được thiết kế xoay quanh dàn pháo chính khổng lồ cỡ 20,1 inch – các khẩu pháo này được làm nổi bật trong hình ảnh này. Cả ba tháp pháo nòng đôi đều xoay sang mạn trái và đã nâng nòng lên, chuẩn bị khai hỏa một loạt đạn nhắm vào mục tiêu Mỹ. IJN mong muốn con tàu này tiếp tục duy trì ưu thế chất lượng vượt trội so với các thiết giáp hạm Mỹ, như lớp Yamato đã đạt được nhờ dàn pháo chính 18,1 inch và mức độ bảo vệ cực kỳ kiên cố. Học thuyết tác xạ của IJN được xây dựng dựa trên giả định rằng dàn pháo chính của các thiết giáp hạm Nhật sẽ có tầm bắn vượt trội so với pháo chính của đối phương. Điều này chắc chắn đúng với lớp Yamato khi đối đầu với bất kỳ thiết giáp hạm nào của Mỹ được trang bị pháo 16 inch, và người Nhật kỳ vọng sẽ duy trì lợi thế này bằng cách trang bị pháo 20,1 inch cho lớp siêu thiết giáp hạm tiếp theo. Hệ thống điều khiển hỏa lực của thiết giáp hạm Nhật Bản được xây dựng dựa trên các bộ đo tầm quang học xuất sắc. Ngay cả khi không sử dụng ra-đa, người Nhật vẫn kỳ vọng có thể khai hỏa ở khoảng cách lên tới 45.000 yard. Tuy nhiên, trong một cuộc đấu pháo với một tàu Mỹ được trang bị hệ thống điều khiển hỏa lực dẫn đường bằng ra-đa, chiến thuật này sẽ là hết sức bất lợi.
Trên tàu siêu Yamato, đô đốc chỉ huy Nhật Bản đang vô cùng căng thẳng. Tàu bị pháo hạm Mỹ dội xuống liên tục – một phát trúng mũi trái khiến thân tàu bị thủng lớn, nước tràn vào và tàu nghiêng nhẹ trước khi khôi phục lại thăng bằng nhờ các biện pháp chống ngập. Một số phát trúng hoặc suýt trúng phần mạn trái gây thêm ngập cục bộ. Các tàu nhỏ, được cho là khu trục hạm Mỹ, tiếp cận trong cự ly dưới 20.000 yard và bị pháo phụ trên Yamato khai hỏa. Lần đầu tiên trong lịch sử hải chiến, pháo 20.1 inch được sử dụng thực chiến. Tuy nhiên, các loạt bắn nửa loạt (half-salvos) bắn về phía thiết giáp hạm Mỹ không gây được tổn hại rõ ràng.
Sau gần một giờ khai hỏa chính xác, phía Mỹ cũng rơi vào trạng thái thất vọng. Dù đã bắn khoảng 320 quả đạn pháo 16 inch, nhưng chiếc siêu Yamato vẫn không có dấu hiệu bị đánh chìm. Với mối đe dọa Nhật Bản đang tiến gần khu đổ bộ, trận đánh cần phải kết thúc dứt khoát. Đô đốc ra lệnh cho Montana áp sát xuống còn 22.000 yard – vẫn nằm trong vùng miễn nhiễm. Từ đó, hỏa lực tập trung sẽ được triển khai cùng với một đợt tấn công ngư lôi quy mô lớn từ 21 tàu khu trục. Khi Montana tiến lại gần, các xạ thủ pháo trên Yamato đã cải thiện khả năng bám mục tiêu nhờ sử dụng các kính đo xa quang học trong bóng tối. Tuy nhiên, không loạt pháo nào của Nhật đến gần được mục tiêu. Ngược lại, các loạt pháo đầy đủ từ Montana đã liên tục trúng đích. Một số quả trúng thượng tầng tàu Nhật làm hỏng radar và hệ thống đo xa chính, tuy nhiên bộ chỉ huy vẫn an toàn trong tháp chỉ huy. Các quả đạn khác trúng phần thân ngoài vùng thiết giáp bảo vệ gây thêm ngập nước và nghiêng tàu lần nữa.
Khi hai thiết giáp hạm tiếp tục nã pháo vào nhau, ba hải đội tàu khu trục Mỹ vẫn đang tiếp cận mục tiêu. Họ nhanh chóng loại bỏ ba tàu khu trục lớp Matsu của Nhật đang cố gắng bảo vệ Yamato, và triển khai một đợt tấn công ngư lôi quy mô từ hai bên mũi của siêu thiết giáp hạm đang tới gần. Radar trên các tàu khu trục Mỹ cho thấy tốc độ của Yamato giảm đột ngột – có vẻ do hư hại từ trận pháo kích. Thực tế là hai quả đạn 16 inch đã xuyên vào khu vực tháp pháo số 3 và gây ngập nặng phòng máy phía sau. Dù pháo phụ 3.9 inch trên Yamato bắn trúng ba tàu khu trục, không chiếc nào bị đánh chìm. Khoảng 16 khu trục hạm đã khóa mục tiêu bằng radar và khai hỏa. 154 quả ngư lôi lao tới siêu thiết giáp hạm Nhật. Ước tính 24 quả trúng mục tiêu (người Mỹ tuyên bố tới 40, nhưng có lẽ con số thực sự không bao giờ biết được), đủ để vô hiệu hóa hệ thống phòng thủ dưới nước của tàu Nhật. Trong vòng 20 phút, Yamato mất toàn bộ điện năng, nghiêng nặng về bên trái và không thể khắc phục vì bơm không hoạt động. Khoảng 40 phút sau cú đánh ngư lôi đầu tiên, chiếc siêu Yamato lật úp và chìm. Trong khi đó, không có bất kỳ tàu khu trục Mỹ nào bị đánh chìm, và Montana chỉ bị mảnh pháo gây thiệt hại nhẹ, khiến hai người thiệt mạng và 11 người bị thương.

PHÂN TÍCH VÀ KẾT LUẬN

So sánh các siêu thiết giáp hạm của năm cường quốc Nhật Bản, Hoa Kỳ, Liên Xô, Đức, Anh. (Ảnh được chỉnh sửa từ World of Warships)
So sánh các siêu thiết giáp hạm của năm cường quốc Nhật Bản, Hoa Kỳ, Liên Xô, Đức, Anh. (Ảnh được chỉnh sửa từ World of Warships)
Hải quân Mỹ xem lớp Iowa là một thiết kế kém hơn so với lớp Montana. Với lượng rẽ nước lớn hơn đáng kể để khai thác, các kỹ sư Mỹ đã đưa ra lớp Montana cân bằng và mạnh mẽ hơn nhiều. Những tàu này sở hữu khả năng bảo vệ vượt trội – chỉ chúng mới có thể chịu được pháo 16 inch/50 và đầu đạn nặng 2.700 lb, được Hải quân Mỹ xem là khẩu pháo hải quân tốt nhất thế giới. Montana là tàu chiến được vũ trang mạnh nhất từng được thiết kế, với loạt bắn mạn tàu lớn hơn bất kỳ thiết giáp hạm nào khác. Ưu thế hỏa lực thực sự của lớp tàu này là hệ thống điều khiển hỏa lực vượt trội. Nhượng bộ duy nhất trong thiết kế mà các kỹ sư Mỹ thực hiện là ở tốc độ. Tổng thể mà nói, lớp Montana là lớp siêu thiết giáp hạm chưa hoàn thành tốt nhất.
Xét đến các thiết kế của hải quân của hai cường quốc châu Âu, lớp Lion của Anh là một sự kết hợp tốt giữa hỏa lực, bảo vệ và tốc độ. Tuy nhiên, các đặc tính của con tàu không nổi bật ở bất kỳ khía cạnh nào. Như thiết kế ban đầu, lớp Lion có hai điểm yếu chính. Bản thiết kế lại năm 1942 đã giải quyết cả hai. Điểm yếu đầu tiên là hệ thống bảo vệ mạn tàu không đủ. Việc tăng chiều sâu trong thiết kế lại đã xử lý phần nào vấn đề này, nhưng người Anh vẫn giữ chiều ngang tối đa ở mức 108 feet để tàu có thể đi qua Kênh đào Panama, do đó không đạt được khả năng chống ngư lôi tối đa. Vấn đề thứ hai là tầm hoạt động hạn chế, đã được khắc phục bằng cách bổ sung 1.100 tấn nhiên liệu. Trong một cuộc đụng độ với đối thủ phe Trục, lớp Lion sẽ có lợi thế nhờ hệ thống radar điều khiển hỏa lực tuyệt vời.
Chủ yếu nhờ kích thước lớn hơn nhiều nên các kỹ sư Đức phải đưa ra ít nhượng bộ hơn, thiết kế H-39 là con tàu vượt trội hơn lớp Lion. H-39 có hỏa lực xuất sắc với pháo 16 inch/50. Pháo Đức nổi tiếng về độ chính xác. Tuy nhiên, hiệu suất tuyệt vời của khẩu pháo này sẽ bị hạn chế bởi việc thiếu radar điều khiển hỏa lực. Người Đức có thể bù đắp điều này bằng hệ thống quang học tuyệt vời và kíp pháo thủ được huấn luyện kỹ lưỡng, nhưng đây vẫn sẽ là điểm yếu lớn vào ban đêm hoặc trong điều kiện thời tiết xấu. Hỏa lực hạng hai thì lỗi thời với các khẩu pháo riêng biệt cho chống hạm và phòng không. Việc Đức không phát triển được pháo lưỡng dụng phù hợp là điều đáng chú ý. Nếu các tàu này từng được hoàn thành, chúng sẽ đi vào hoạt động vào giai đoạn cuối chiến tranh – khi mối đe dọa từ không quân ở mức cao nhất. Lúc đó, điểm yếu trong phòng không của lớp H sẽ bị lộ rõ.
Khả năng bảo vệ của thiết kế H-39 khá khác biệt so với các thiết kế siêu thiết giáp hạm khác trong cuốn sách này. Đai giáp chính của tàu mỏng hơn so với các thiết kế nước ngoài và thiếu chiều sâu. Việc lắp thêm một đai giáp trên còn mỏng hơn đã làm tăng trọng lượng mà không mang lại khả năng chống lại pháo hạng nặng, thậm chí cả pháo 6 inch ở cự ly gần. Việc thiếu các thử nghiệm đầy đủ với bom cũng khiến khả năng bảo vệ ngang không đạt yêu cầu. Hai boong giáp sẽ không thể ngăn được các loại bom hạng nặng thả từ độ cao. Điều này xuất phát từ việc người Đức quyết định tăng cường giáp ở các khu vực khác để giữ trong giới hạn lượng rẽ nước. Ngay cả người Đức cũng nhận ra điều này là sai lầm và đã thêm boong giáp thứ ba trong các bản thiết kế sau. Khả năng bảo vệ dưới nước cũng yếu hơn so với các thiết kế nước ngoài, vì nó dựa trên hệ thống của tàu Bismarck, vốn đã cho thấy điểm yếu trước ngư lôi và đạn pháo xuyên nước cỡ 14 inch của Anh trong trận cuối cùng của Bismarck năm 1941. Thiết kế H-41 sau này, tập trung nhiều hơn vào bảo vệ, đã khắc phục phần nào những thiếu sót đó.
Các thiết kế muộn hơn của lớp H – H-42, H-43, và H-44 – đều là tưởng tượng và không thể so sánh với các con tàu có khả năng hoàn thành thực tế. Tuy vậy, chúng là ví dụ cho thấy điều gì có thể đạt được trên một siêu thiết giáp hạm với kích thước không giới hạn, nơi không cần đánh đổi giữa hỏa lực, bảo vệ và tốc độ.
Trong số tất cả các siêu thiết giáp hạm chưa hoàn thành, lớp Sovetsky Soyuz là kém ấn tượng nhất. Như chính người Liên Xô đánh giá, những tàu này có nhiều điểm yếu nghiêm trọng, bao gồm khả năng phòng không yếu, không có radar, khả năng bảo vệ ngang và dưới đáy kém, và tốc độ không đủ so với các thiết giáp hạm hiện đại nước ngoài. Dù chúng được trang bị pháo 16 inch tầm xa, về lý thuyết thì cho phép chúng vượt trội so với đối thủ nước ngoài, nhưng điều đó lại không có ý nghĩa thực tế vì tầm bắn vượt xa khả năng kiểm soát bằng hệ thống điều khiển hỏa lực quang học trên tàu. Việc không có radar điều khiển hỏa lực chính và pháo phòng không khiến chúng hoàn toàn bất lợi khi đối đầu với bất kỳ siêu thiết giáp hạm nào khác.
Thiết kế A-150 rất khó đánh giá vì có quá ít thông tin kỹ thuật. Có thể giả định rằng mức độ bảo vệ sẽ tương tự lớp Yamato, vì hai lớp tàu có kích cỡ gần bằng nhau. Ưu thế tiềm năng lớn nhất của thiết kế A-150 là pháo chính cỡ 20 inch. Tuy nhiên, ưu thế giữa pháo 20 inch và pháo 16 inch/50 của Mỹ có thể không lớn như tưởng. Khả năng xuyên giáp của pháo 18.1 inch/45 trên Yamato là tương đối yếu so với cỡ nòng, và chỉ nhỉnh hơn một chút so với pháo 16 inch/50. Ở cự ly 21.872 yard, pháo 18.1 inch có thể xuyên 19.5 inch giáp; ở cự ly 32.808 yard có thể xuyên 14.2 inch giáp – đủ để xuyên qua đai giáp chính của Montana. Khả năng xuyên của pháo 20 inch vẫn chưa được biết, nhưng với đầu đạn nặng hơn, nó có thể vượt trội phần nào. Tuy nhiên, điểm yếu lớn nhất làm hạn chế hiệu quả của pháo 20 inch là hệ thống điều khiển hỏa lực kém. Bốn kính đo tầm quang học 49 feet trên Yamato – loại lớn nhất từng lắp cho thiết giáp hạm – có thể được lặp lại trên A-150. Đây là thiết bị quang học tuyệt vời, nhưng vẫn không thể sánh với hệ thống điều khiển hỏa lực dẫn đường bằng radar trên các thiết giáp hạm Mỹ. Radar của Hải quân Nhật rất yếu – radar mặt nước Type 22 tốt hơn radar Type 21 đầu tiên, nhưng vẫn không có độ phân giải cần thiết để điều khiển hỏa lực. Nó chỉ có tầm hoạt động tối đa 26.930 yard với mục tiêu cỡ thiết giáp hạm.

ĐỌC THÊM

Breyer, Siegfried, Battleships and Battle Cruisers 1905–1970, Doubleday & Company Inc., Garden City, New York (1978) Campbell, John, Naval Weapons of World War Two, Naval Institute Press, Annapolis, Maryland (1985) Friedman, Norman, U.S. Battleships, Naval Institute Press, Annapolis, Maryland (1985) Garzke, William H., and Dulin, Robert O., Battleships, United States Battleships, 1935–1992, Naval Institute Press, Annapolis, Maryland (1995) Garzke, William H., and Dulin, Robert O., Battleships, Axis and Neutral Battleships in World War II, Naval Institute Press, Annapolis, Maryland (1985) Garzke, William H., and Dulin, Robert O., Battleships, Allied Battleships in World War II, Naval Institute Press, Annapolis, Maryland (1980) Lengerer, Hans and Ahlberg, Lars, The Yamato Class and Subsequent Planning, Nimble Books, Ann Arbor, Michigan (2014) McLaughlin, Stephen, Russian and Soviet Battleships, Naval Institute Press, Annapolis, Maryland (2003) Sturton, Ian (ed.), Conway’s Battleships, Naval Institute Press, Annapolis (2008)