”Kết quả của những nghiên cứu đã chứng minh: 10,000 giờ đồng hồ luyện tập là đòi hỏi bắt buộc để đạt được cấp độ tinh thông và khả năng trở thành một chuyên gia đẳng cấp thế giới – trong bất kỳ lĩnh vực nào”.


1. Có bẩm sinh thiên tài?

Trong suốt gần một thế hệ, các nhà tâm lý học trên khắp thế giới đã tham gia vào cuộc tranh luận hăng say xung quanh câu hỏi: phải chăng hầu hết số phận chúng ta (destiny) có thể coi là đã được định hình từ xa xưa, từ khi sinh ra? Có tồn tại thứ gì đó dạng như tài năng bẩm sinh hay không?
Vâng câu trả lời là có. Chỉ có một số ít vận động viên, hay một số ít nhà văn, hay doanh nhân đạt được đến đỉnh thành công của mình. Song khi các nhà nghiên cứu càng đi sâu vào cuộc đời của những kẻ xuất chúng được cho là “bẩm sinh” như trên, thì người ta lại thấy vai trò của tài năng thiên bẩm càng nhỏ bé hơn so với quá trình chuẩn bị dai dẳng mà ít người biết đến.

Đọc thêm:

Đầu 1990, trong một cuộc tranh luận về tài năng, nhà tâm lý học Anders Ericsson và cộng sự đã đi đến một học viện Âm nhạc để làm một nghiên cứu. Nhờ sự trợ giúp của các giáo sư nơi đây, ông tìm lại các cựu sinh viên ở nhạc viện, và phân thành ba nhóm:
(1) nghệ sĩ solo đẳng cấp thế giới
(2) nhóm nghệ sĩ được đánh giá là “tốt”
(3) các sinh viên không thực sự đam mê và trở thành giáo viên nhạc cụ trong hệ trường công.
Ngạc nhiên thay, khi Ericsson tìm gặp họ, đặt câu hỏi và thống kê lại, thì một hình mẫu lại nổi lên: những người chơi nghiệp dư, giáo viên không bao giờ luyện tập nhiều hơn 3 giờ/tuần trong suốt thời thơ ấu, cho đến khi đạt độ tuổi đôi mươi, họ chỉ mới có 2,000 giờ luyện tập.
Ở phía còn lại, thời gian luyện tập của những nghệ sĩ chuyên nghiệp đã vượt trội hơn rất nhiều, non đến năm 20 tuổi, họ đã tích lũy cho mình trung bình đến 10,000 giờ luyện tập.Điều vô cùng nổi bật trong nghiên cứu của Ericsson, chính là việc ông và các đồng sự không thể tìm ra bất cứ “thiên tài bẩm sinh” nào mà lại luyện tập với thời gian ít hơn các bạn đồng trang lứa bỏ ra (!) Hay cả ngược lại, họ cũng không thể tìm ra bất cứ “kẻ cần cù” nào – những người làm việc chăm chỉ hơn tất cả kẻ khác, mà lại không hội tụ đủ những gì cần thiết để lọt vào tốp xuất sắc nhất.
Những kẻ ngự trị trên đỉnh cao không chỉ làm việc chăm chỉ hơn, hay chăm chỉ hơn nhiều so với người kẻ khác – họ làm việc chăm chỉ hơn rất, rất, rất nhiều!Ý tưởng then chốt rằng: để thực hiện hoàn hảo một nhiệm vụ phức hợp đòi hỏi một mức độ luyện tập tối thiểu, đã xuất hiện lặp đi lặp lại trong các nghiên cứu về tài năng chuyên môn ở nhiều lĩnh vực khác nhau. Trên thực tế, nếu tổng hợp lại, thì các nhà nghiên cứu có một niềm tin bất tận về một con số thời gian kỳ diệu để đạt đến độ tinh thông thực sự: 10,000 giờ đồng hồ!

2. Những kẻ có năng lực vượt trội đã làm gì?

Bác sĩ thần kinh học Daniel Levitin viết: “Trong những nghiên cứu khác nhau về các nhà soạn nhạc, cầu thủ bóng rổ, các cây bút sáng tác tiểu thuyết, vận động viên trượt băng, nghệ sĩ dương cầm, tuyển thủ cờ vua, các doanh nhân công nghệ hay cả những tên tội phạm lão luyện, … hằng số 10,000 giờ này luôn luôn lặp lại.
Tất nhiên vẫn có người thu hoạch được nhiều hơn từ những buổi luyện tập hơn người khác, song tới nay chưa ai tìm thấy một trường hợp nào trong đó một tay lão luyện tầm cỡ thế giới lại đạt được mức hoàn thiện trong thời gian ngắn hơn mười nghìn giờ.” Điều này là thật sự ngay cả với những nhân vật mà chúng ta thường hay nghĩ đến như hạng “phi thường bẩm sinh”.
Nhà phê bình âm nhạc Harold Schonberg đã gây sốc khi cho rằng Mozart, một người tưởng chừng như một thiên tài biết viết nhạc khi mới lên sáu, thực ra thuộc hạng “phát triển muộn”! Bởi vì ông này phải sau hơn 20 năm sáng tác ròng rã với những tác phẩm tương đối thất bại và những bài soạn lại từ tác phẩm khác, ông mới cho ra đời những tác phẩm vĩ đại nhất thế giới của mình.
Để trở thành một kiện tướng cờ vua có vẻ cũng phải mất 10 năm. Chỉ có huyền thoại Bobby Fischer đạt tới đẳng cấp tinh hoa đó trong khoảng thời gian ngắn hơn một chút: 9 năm. Còn mười năm là thứ gì vậy? À vâng, đó đại khái là chuyện mất bao lâu. Nếu mỗi ngày làm việc 8h liên tục, nghiêm túc, trong vòng 4 năm, sẽ tích lũy đủ 10.000 giờ.
Nhiều người nói rằng“Có rất nhiều người ngoài kia đi làm công chăm chỉ hằng ngày, mà có phát triển được đâu? Ta phải làm việc thông minh và chăm chỉ, chăm chỉ thôi là chưa đủ.
Một người nếu có tầm nhìn và định hướng bản thân tốt, sẽ có khả năng thành công cao hơn so với những người đồng trang lứa. Song nếu ta hiểu sâu và tổng thể hơn, thì ta lại thấy quan điểm “Work smart > Work hard” sai lầm vô cùng! Đó là bởi vì:
(1) Liệu anh có chắc rằng tất cả những người làm công ngoài kia đều chăm chỉ hay không, họ dành bao nhiêu thời gian để rèn giũa kĩ năng, bao nhiêu thời gian để giải trí?
(2) Nếu anh không chăm chỉ thử nhiều cách làm để hiểu sâu, thì làm sao anh biết được đâu mới là cách làm thông minh?
(3) Nếu anh không chăm chỉ một cách đều đặn, anh có chắc rằng anh sẽ thông minh hơn những đối thủ cạnh tranh chăm chỉ đều đặn khác trong vòng 10 năm tới hay không?
Ngay cả Buffett, được nhiều người cho là thông minh bậc nhất và có óc tính toán thiên bẩm, thật ra bắt đầu kiếm được 1 triệu USD đầu tiên khi ông 30 tuổi, tức gần 20 năm sau khi ông mua cổ phiếu đầu tiên cho mình vào năm 11 tuổi. Trong 20 năm ấy, buffet rất chăm: ông đọc báo cáo tài chính gần như mỗi ngày, sau khi đã hiểu sâu sắc về đầu tư giá trị. Ông chịu khó đi gặp ban lãnh đạo, thăm trụ sở công ty, trò chuyện với bề trên, đọc sách, đọc tạp chí chuyên ngành, đọc tin tức kinh tế lịch sử, đến mực Munger ( đối tác kỳ cựu của Buffet) phải mệnh danh ông là “cái máy học” (a learning machine).Tuy nhiên, rõ ràng Buffett cũng gặp điều kiện vô cùng may mắn: tốt nghiệp uWharton, được bố mẹ khuyến khích đầu tư chứng khoán từ rất sớm và được học triết lý đúng đắn trực tiếp từ ông tổ đầu tư giá trị Benjamin Graham trong cả trường đại học lẫn công việc. Vì lẽ đó Malcolm Gladwell mới đưa ra một luận điểm cuối cùng về “cơ hội phụ trội” may mắn trong đời người…

3. “Cơ hội rèn luyện đặc biệt”

Nếu chúng ta bới sâu xuống dưới bề ngoài của những người thành công vĩ đại, thì liệu chúng ta có tìm thấy một kiểu cơ hội luyện tập đặc biệt nào đó hay không? Hãy kiểm nghiệm ý tưởng này bằng 2 ví dụ, mà cả 2 đều gần gũi: một là nhóm nhạc Beatles – nhóm nhạc rock jazz nổi danh nhất từ trước đến nay, và hai là tỷ phú công nghệ Bill Gates.
Vào năm 1960, Beatles chỉ là một nhóm nhạc vô danh của trường trung học với 4 thành viên đi dò dẫm tìm đường. Rồi một hôm, họ được mời đến chơi nhạc ở Hamburg, Đức bởi một ông chủ câu lạc bộ thoát y thâu đêm suốt sáng tên Bruno. Có điều gì đặc biệt ở cái “phố đèn đỏ” Hamburg này hay không? Không hề! Trả công hậu hĩ cũng không. Âm thanh tốt cũng không. Khán giả cũng chắng biết gì về âm nhạc. Tất cả chỉ là khối lượng thời gian tuyệt đối mà nhóm nhạc phải chơi.
Sau này Beatles mới thú nhận rằng: “Ở Liverpool, chúng tôi mới chỉ chơi những suất dài có 1 giờ đồng hồ mà thôi. Ở Hamburg, chúng tôi phải chơi suốt 8 tiếng đồng hồ liên tục, 7 ngày một tuần.” 8 tiếng, 7 ngày/tuần suốt từ 1960–1964? Vâng đúng vậy, thử thách gắt gao ở Hamburg là một trong những điều khiến Beatles khác biệt với các nhóm nhạc khác hoàn toàn. Họ không chỉ học được khả năng chịu đựng, mà còn phải học khối lượng lớn các ca khúc và cách phối rock & roll với nhạc jazz cho khán giả đỡ nhàm. Lúc đi họ chẳng có gì cả. Lúc trở về họ đã trở nên rất cừ!
Hồi năm 1968, trong lúc các học trò khác lo vui chơi, thì Bill Gates đã “sống với máy tính” ở trường trung học Lakeside. Toàn bộ ý tưởng về ứng dụng của máy tính chỉ mới bắt đầu vào năm 1965, Bill Gates chắc chắn là số may mắn đầu tiên được tiếp cận với máy tính. Đến khi lên đại học Harvard, năm 1971, Bill Gates và các người bạn của mình – Paul Allen, đã sử dụng máy tính “chùa” tại trung tâm dữ liệu ISI, Washington đến 1,575 giờ đồng hồ trong suốt 7 tháng, trung bình là 8 tiếng/ngày suốt 7 ngày trong tuần.
“Đó là nỗi ám ảnh với tôi.” – Gates kể lại – “Tôi bỏ tiết thể dục. Tôi đến đó thâu đêm suốt sáng. Tôi đến đó vào cuối tuần. Nhiều lúc mẹ tôi không hiểu tại sao tôi lại khổ sở khi thức dậy mỗi buổi sáng đến như vậy!” Khoảng thời gian từ trung học đến lúc ấy chính là cơ hội rèn luyện phụ trội đặc biệt mà Gates đã chớp được.
Mấy ai có đủ điều kiện tài chính và đủ tầm nhìn để kiên trì với lập trình máy tính vào thập niên 1960s như vậy? Từ 1968 – 1975 lúc Gates nghỉ học năm 2 tại Harvard, ông đã tích lũy được 7 năm lập trình liên tục – một cậu Gates trẻ 20 tuổi đã có hơn 10,000 giờ luyện tập, và đã “dọn đường” sẵn cho con đường trở thành tỷ phú của mình trong tương lai.
Đọc trên báo chí và các bài viết tiểu sử của các người thành công ngày nay, chúng ta vờ rằng thành công (success) chỉ riêng rẽ là chuyện của công trạng cá nhân. Những chẳng có gì trong số những đoạn tiểu sử mà chúng ta vừa xem qua nói rằng mọi thứ chỉ đơn giản có vậy.
Nhưng Cụ thể hơn, đó đều là câu chuyện về những con người được trao tặng cơ hội vàng để làm việc chăm chỉ thực sự và họ đã nắm chặt lấy nó, tình cờ đủ trưởng thành vào thời điểm mà mọi nỗ lực ấy bắt đầu được xã hội tưởng thưởng một cách xứng đáng!
Joel Greenblatt đã từng nói: “Rèn luyện không chỉ tạo nên sự hoàn hảo. Rèn luyện giúp ta tạo nên sự vĩnh viễn.”
Trích Outlier, Madcom Gladwell

Đọc thêm: