(2021) Đọc 4 cuốn sách về Trương Vĩnh Ký  🕮 Tổng số sách đã đọc được: 200 quyển
1/ Petrus Ký: nỗi oan thế kỷ
2/ Chuyện Đời Xưa - Trương Vĩnh Ký
3/ Trương Vĩnh Ký Biên Khảo - Lê Thanh
4/ Trương Vĩnh Ký (1837 - 1898) by Khổng Xuân Thu

Trong tứ dân đều chuyên nghề cả, mà nông thị bội hơn. Đàn ông con trai hay ngồi quán ngồi lều trà rượu ăn chơi, còn việc cày cấy thì nhờ đàn bà con gái làm.  Đờn ông ăn mặc cũng thường, điều áo vắn tới đầu gối, đầu hay đội nón ngựa, bịt khăn đen. 
Đờn bà mặc áo có thắt lưng làm bìu(bọc), yếm đỏ, không gài nút nịt, nút vai thả không ra mà thôi, đầu đội nón giâu(ba tầm), lớn gần bằng cái nia, hai bên có hai quai tụi vắn tòng teng, đầu vấn ngang, lấy lược nhiễu vấn tóc mà khoanh vấn theo đầu. Dưới mặc váy, chân đi dép sơn, nước da mịn màng trắng trẻo, má hồng, da ửng, gót son, phốp pháp người, răng nhuộm đen cánh gián.

Lý sự của mèo

Một hôm trời tối, Tú Xuất vào nghỉ tại một nhà hàng nọ ở bên đường cái quan, ở đó, đã có anh hàng mèo đến trước ngồi chễm chệ trên giường, bên cạnh để đầy lồng nhốt đầy mèo. Tú Xuất đành ngồi giường dưới. Chủ quán thấy vậy đề nghị với anh buôn mèo cho Tú Xuất nằm giường trên kẻo bất tiện, nhưng người buôn mèo không chịu, lý sự rằng "Tôi tưởng cái phép ở hàng quán, ai đến trước thì ngồi trên, ai đến sau thì ngồi dưới, tôi đã ngồi đây thì cứ ở đây". Tú Xuất nghe nói thế, bèn bảo là không phải tranh cãi nữa.
Ðêm khuya, thừa lúc người bán mèo ngủ say, Tú Xuất lẻn dậy, khẽ tháo mấy cái que cài miệng lồng. Bao nhiêu mèo đều chui ra hết, con nào con nấy, tự do đi lại, leo trèo khắp nơi, kêu rầm rĩ. Người buôn mèo giật mình thức dậy, vội vã gọi nhà hàng giúp bắt mèo. Lúc đèn thắp sáng rồi, người buôn mèo thấy con ở mặt đất, con ở giường trên, con giường dưới, có con leo tận xà nhà. Tú Xuất ở giường dưới, lúc đó thấy động, cũng thức dậy, trỏ tay vào lũ mèo, nói:
Giống mèo cũng khôn ngoan và lý sự lắm đấy! Chà, con nào ra trước thì được ngồi trên cao, con nào ra sau thì phải ngồi dưới thấp.
Người buôn mèo biết là Tú Xuất nói kháy mình, nhưng không dám nói gì, vì còn phải lo tìm bắt lại lũ mèo vừa thoát. Vậy là Tú Xuất đã dạy cho anh chàng buôn mèo kia một bài học về đối nhân, xử thế.



CON RUỒI BỊ THƯA, BỊ ĐẬP MỘT 
người kia ở xứ rẫy bái quê mùa. Đến bữa nó đơm quảy dọn ra một mâm cúng ; con ruồi lên đậu ăn. Thì người chủ giận sao nó có hỗn ; mới đi thưa với quan huyện rằng : Lạy ông, tối cúng cho cha mẹ tôi, mà con chi không biết, nó bay lên nó ăn trước đi, hỗn-hào quá lắm. Ông huyện mới biểu nó : Hễ nó hỗn-hào vô phép, thì gặp nó đâu đánh nó đó. Nói vừa buông miệng ; con ruồi ở đâu bay lại, đậu trên mặt ông huyện ấy ; thì thằng ấy nói : Bẩm ông, ông mới xử nó làm vậy, mà nó còn dễ ngươi nó tới đậu trên mặt ông. Vả nói và giơ tay ra giang cánh, đánh một vả trên mặt ông huyện xửng-vửng.

THẦY DẠY ĂN TRỘM, THỬ HỌC TRÒ

CÓ ông thầy kia làm thầy dạy phép đi ăn trộm. Học trò cũng được năm bảy đứa. Có một đứa mới vô sau, thầy mới thử coi cho biết nó có dạn-dĩ lanh lợi hay không ; thì thầy dắt nó đi ăn trộm với thầy. Thầy đem rình cái nhà có đứa con gái hay làm hàng lụa. Biết có cây lụa dệt rồi, nó gói nó để trên đầu giường kê đầu mà ngủ. Thầy mở cửa biểu nó vô lấy cây lụa đem ra. Thầy thì đứng giữ nơi cửa ; nó vào thắp đèn ló lên, rọi thấy rồi, thụt đèn đi, thò tay lấy cây lụa. Mà chưa từng đứng dựa cái giường sợ run rẩy, động con ấy thức dậy, nắm đầu chú bợm, nó thất-kinh kêu : Nó nắm đầu tôi rồi, thầy ôi ! Thầy nó mới nói mưu : Tưởng nắm đâu, chớ nắm đầu không hề gì, nắm mũi kia mới sợ. Con kia nghe tưởng nắm mũi chắc, bỏ đầu nắm mũi, nó giựt nó chạy ra được. Mõ ống làng xóm chạy tới rượt theo, nó sợ quá nhè bụi tre gai chun phóc vào trỏng. Gai đâm trầy trụa nát cả mình, mà khi ấy không biết đau ? Thủng thẳng càng lâu càng đau, nhức nhối rát rao lắm. Còn ông thầy chạy thẳng về nhà chỏng cẳng ngủ. Sáng ngày ra, thầy nói với vợ nó phải lo mà đi kiếm nó về. Chỉ phải đi kiếm đàng nào. Vợ nó ra đi kiếm, nó ở trong bụi tre gai thấy cỏn đi ngang qua, mới kêu vô : Mầy về nói với thầy cứu tao với. Tao hồi hôm sợ quá chun vô đây. Họ rượt thét lấy, chun đại vào không biết đau, bây giờ chun ra không được : Mình mẩy nát hết. Vợ nó về thưa lại với thầy. Thấy xách gậy ra. Nó lạy lục xin cứu. Thầy nó mới vùng la làng lên : Bớ làng xóm ! Thằng ăn trộm đây ! Nó sợ đã sẵn, thất-kinh quên đau, vụt chạy tuốt ra được. Về nhà thuốc men hai ba tháng mới lành. Còn có thằng học trò khác dạn lắm, thầy nó muốn thử coi nó có khôn ngoan biết làm mưu, mà thoát thân khi túng nước hay không, thì đem anh ta tới nhà kia giàu lắm, thầy đánh ngạch vô được giở rương xe ra, biểu nó vô khuân đồ. Nó chun vô, ở ngoài thầy khóa quách lại, bỏ đó ra về ngủ. Nó ở trong không biết làm làm sao ra cho được ; mới tính dùng mưu. Vậy nó mới quơ hết áo quần tốt mặc vào sùm sùm sề sề. Lại lấy cái bung đội trên đầu, khuất mặt khuất mài đi hết. Ở trong rương mới kêu lên ! Ớ chủ nhà, ta là thần ; bấy lâu nay ta ở với cho mà làm giàu, nay mở rương cho ta ra đi dạo chơi ít bữa. Mở rương rồi, đờn bà ô-uế phải đi cho xa. Còn đàn ông thì nhang đèn, mà đứng nới ra xa xa, đừng có lại gần không nên. Trong nhà ngờ là thần thật, vật heo vật bò, để tạ thần. Lại có mời tổng xã tới thị đó nữa. Dọn dẹp xong, tiêm tất, mở rương chống nấp lên dẹp lại hai bên đứng ra xa xa chờ ông thần ra. Đâu ở trỏng thấy mặc đồ sùm-sề đầu đội cái bung đen đen, đi ra, rồi đi luôn đi ; thần dạy : Ai có muốn cúng dưng vật chi, thì đi theo sau xa xa. Tới chùa thần mới vô ngự cho mà lạy, Thiên-hạ ai nấy nghe đồn, rủ nhau đô-hội đi theo coi. Tới cái chùa kia, ông thần vô chùa, leo lên trên bàn thờ ngồi, cất cái bung đi. Thiên-hạ vô thì đứng xa ngoài sân không dám vô. Bữa ấy anh học trò nhát, mà bị chúng rượt chun bụi tre gai, có đi theo coi. Biết là bạn học mình, thì thưa với quới 63 chức, xin cho va vô coi cho gần. Mà mắc có lời thần đã phán, hễ ai lại gần, thì thần phạt sặc máu ra mà chết.Làng Tổng mới nói với nó : Mặc ý, muốn chết thì vô. Nó bươn nó vô leo lên đàng sau dòm mặt, biết. Anh kia mới nói : Anh đừng có nói ra, để nữa về tôi chia đồ cho ? Nó không tin nói : Rồi về anh chối đi, anh không chia. Anh kia nói : Không thì thề. Thằng nọ hỏi : Thề làm sao ? Nó nói : Anh le lưỡi tôi liếm, tôi le lưỡi anh liếm thì là thề đó. Vậy thằng kia le lưỡi ra, anh nọ cắn ngang đứt lưỡi đi, máu chảy ra, dầm dề ; leng teng chạy ra, mà nói không được, lấy tay chỉ biểu làng vô bắt.Ai nấy thấy máu mủ vậy, thì ngờ nó bị thần phạt sặc máu, liền sợ thất-kinh bỏ chạy ráo. Thần ta mới mang đồ về nhà thầy, chia cho thầy mà đền ơn. Thầy khen nói : Mầy học phép ăn trộm được rồi đó. Có muốn ra riêng, thì thầy cho ra được.

CON CHỒN VỚI CON CỌP 

NGÀY kia con chồn đi kiếm ăn trong rừng, mắc hơ-hỏng 4 vô ý sẩy chân sụp xuống dưới hầm ; chẳng biết làm làm sao mà lên cho được. Hết sức tính nữa. Than vắn thở dài, không bề tấn thối, như cá mắc lờ. Tưởng đã xong đời đi rồi. May đâu nghe đi thịch-thịch trên đất, mới lo mưu định kế, rồi lên tiếng hỏi rằng : - Ai đi đó ? Chẳng ngờ là con cọp, thì làm bộ mừng rỡ, mới hỏi : - Chớ anh đi đâu ? Đi có việc chi ? Anh cọp nói : - Tôi đi dạo kiếm chác ăn ; mà anh xuống mà làm chi đó vậy ? Thì anh chồn ta lại trở cách, mà nói rằng : - Ủa ! vậy anh không có nghe đi gì sao ? Người ta đồn đến mai nầy trời sập. - Cơ khổ thôi ! nhưng tôi không hay một đều ? Mà có thật như vậy, hay là người ta đồn huyễn vậy anh ? - Ấy, không thật làm sao ? Bởi thật tôi mới xuống đây mà núp, kẻo đến nữa, mà chạy không kịp, trời đè giập xương chết đi uổng mạng ; mà anh, chẳng qua là nghĩ tình cũ ngãi xưa, tôi mới nói ; chớ như không, thì ai lo phận nấy, tôi có nói làm chi. - Thôi, vậy thì xin anh cho tôi xuống đó với anh cho có bạn. - Ừ, mặc ý xuống, thì xuống. Anh cọp mới nhảy xuống, chuyện vãn một hồi, rồi anh chồn mới theo chọc lét anh cọp hoài. Cọp la không đặng. Cứ lẽo-đẽo theo khuấy luôn. Con cọp nổi giận mới hăm : Chọc, tôi xách cẳng, tôi ném lên cho trời sập đè giẹp ruột đi giờ. Anh chồn cũng không nao ; càng ngăm 5, lại càng chọc hoài. Anh cọp hết sức nhịn, mới dồi quách anh chồn lên : Rắn mắt, nói không đặng, lên trển trời đè cho bõ ghét. Anh chồn mừng quá bội mừng, thấy mình gạt được anh cọp mắc-mớp. Mới chạy kêu người ta tới đâm cọp sa hầm. Thường kẻ xấu lâm nạn, thì lo phương gỡ mình dầu phải làm mưu cho kẻ khác mắc vòng lao-lý cực-khổ ; miễn là cho mình khỏi thì thôi. Lại đôi khi cũng kiếm thế mà làm hại nó nữa.

CHÀNG RỂ BẮT CHƯỚC CHA VỢ

CÓ một thằng khờ khạo, ít-oi, không biết gì hết. Mà đến tuổi phải lo đôi bạn với người ta, mới tính đi cưới vợ. Đi coi rồi mượn mai-dong 6 đi nói. Đàng gái chịu gả, cho bỏ trầu cau. Mà phép hễ có miếng trầu miếng cau rồi, thì phải làm rể ; mà nó không biết làm rể là làm sao. Lấy làm khó lòng ; mới hỏi thăm ông mai : Chớ làm rể phải làm làm sao ? Ông mai mới dạy rằng : Đạo làm rể hễ thấy ông gia 7 làm giống 8 gì, thì phải giành lấy mà làm ; hễ thấy đi làm gì, thì phải làm theo như vậy. Bữa ấy tới nhà làm rể. Cơm nước rồi, cha vợ nó xách rựa đi đốn cây, nó cũng vác rựa mà đi theo. Ổng lại cây nầy, mới kê rựa vào đốn, thì nó lại nó nói : Cha, để tôi đốn cho. Cha nó nghe, thì để cho nó, qua cây khác. Nó cũng lại, nó nói làm vậy. Ông cũng để cho, ổng đi cây khác. Nó lại, cứ nó giành hoài. Ông gia nó thấy vậy, mới sanh nghi có khi nó điên chăng ; nên giựt mình đâm đầu chạy đi. Ngó ngoái lại, thấy nó lăng-căng chạy theo, lại càng thêm nghi. Chạy rớt cái khăn mắc trên bụi tre. Nó thấy vậy, nó cũng lột cái khăn củanó, mà ném lại đó như cha vợ nó vậy. Ông gia nó mới tin chắc nó là điên thiệt ; nên cong lưng chạy riết về nhà. Thở hào hễn chạy ngay vô nhà, thấy mụ ngồi trong bếp đang chỏng-chồng mông thổi lửa, mới đá mổng mụ một đá, biểu chạy trốn đi : Thằng rể nó điên thiệt. Chàng rể chạy xợt, thấy bà mẹ còn đó, cũng bắt chước giơ chơn đá mũ một đá như ổng vậy. Hai ông bà chạy chun núp dưới vựa lúa. Nó cũng chun theo. Hai ông bà thất kinh hồn vía, sợ dại nó có làm hung chăng, mới la làng lên. Nó cũng bắt chước la làng lên nữa.

ĐẶT LỜ TRÊN NGỌN CÂY 
CÓ một lão kia nghèo, không biết lo phương nào, mà làm cho ra tiền, mà ăn qua tháng ngày với người ta. Than thở nói to nói nhỏ với vợ. Vợ nó nói rằng : Cực thì thôi ! Có một mình anh dở làm vậy ! Người ta sao lanh lợi khéo lo khéo liệu ? Chồng mới nói : tao mạnh giỏi, làm giống gì cũng được hết ; ngặt có một đều không ai chỉ vẽ cho mà mần. Thì vợ nó nói : Thôi để tôi biểu cho mà mần, đi mua ít cái lờ, mà đi đặt cá mà ăn. Thằng chồng khờ nói : Biết ở đâu có cá mà đem mà đặt ? - Có khó gì đều ấy ! coi chỗ nào nhiều cứt cò, đem tới đó, mà đặt thì trúng. - Ừ, vậy tao làm được. Sáng ngày, lăng xăng xách tiền đi mua đó mua lờ. Vác rựa đi coi chỗ. Thấy trên cây bần kia trắng những cứt cò ; mừng, về vác lờ đem tới, leo lên đặt trên ngọn cây.

BỤNG LÀM DẠ CHỊU
CÓ một anh bất tài chẳng biết làm gì mà ăn, mới đi học làm thầy bói. Bói nhiều quẻ cũng khá ứng ; nên thiên-hạ tin đua nhau đem tiền đến xin bói. Làm vậy ăn tiền cũng đã khá, lại càng ra dạn-dĩ càng đánh phách 20 khua miệng rân. Bữa kia trong đền vua, có mất con rùa vàng, kiếm thôi đã cùng đã khắp mà không ra. Người ta mới tâu có anh thầy bói kia có danh, xin cho rước va tới, mà dạy gieo quẻ bói thử, họa may có được chăng. Vậy vua giáng chỉ dạy sắm võng-dá, quân-gia dù lộng cho đi rước cho được anh ta đem về. Thấy quân-gia rần rộ tới nhà, trong bụng đà có lo có sợ không biết lành dữ dường nào. Chẳng ngờ, nghe nói vua đòi đến bói, mà kiếm con rùa vàng của vua mất đi, trong lòng đã bấn-bíu, lo đái ra cây, sợ e bói chẳng nhằm, mà có khi bay đầu đi. Mà phải vưng phải đi, đánh liều mặc may mặc rủi. Bịt khăn bận áo, bước lên võng ra đi, nằm những thở ra thở vô không biết liệu phương nào, mới than rằng : Bụng làm dạchịu, chớ khá than-van. Chẳng ngờ may đâu hai thằng khiêng võng, một đứa tên là Bụng, một đứa tên là Dạ, là hai đứa đã đồng-tình ăn cắp con rùa vàng của vua. Nghe thầy nói làm vậy, thì ngờ là thầy thông thiên đạt địa đã biết minh rồi : sợ thầy tới nói tên mình ra, vua chém đi, cho nên để võng xuống, lại lạy thầy mà xin thương xót đến mình, vì đã dại sinh lòng tham, mới ăn cắp con rùa ấy, mà giấu trên máng xối. Xin thầy làm phước, đừng có nói tên ra, mà chúng tôi phải chết tội nghiệp. Anh thầy nghe nói mới hở hơi được, đem bụng mừng, thì mới nói : Thôi, tao làm phước, tao không có nói đâu, mà hòng sợ. Tới nơi anh ta bói xong, kiếm được rồi vua trọng thưởng, lại phong cho chức-sắc về vinh-vang. Mà vốn thiệt là việc may đâu mà nên mà thôi. Chẳng phải tại va có tài nghề chi đâu ! Ở đời có nhiều người nhờ vận may mà nên mà thôi, chớ chẳng phải tài tình chi.

HAI ông bà son, con cái không có. Khấn vái hết sức. Sau trời độ-vận sinh được một đứa con trai. Mà nó ăn hung quá, bung kia chảo nọ ăn cũng hết, càng lớn lại ăn nhiều lắm. Hai ông bà làm không đủ cho nó ăn. Túng thế mới tính mưu với nhau, mà đưa nó đi cho rồi, kẻo để chịu không nổi. Vậy hai ông bà kêu nó vô, mà nói với nó : Con bây giờ thì cũng đã khôn lớn : mà cha với mẹ thì tuổi-tác đã cao, gần đất xa trời, yếu đuối làm gì không đặng mà nuôi con ; thuở trước nhà ta còn đang hào-cường, cha có cho hoàng-đế bên Tàu mượn và vàng và bạc hơn bảy mươi muôn lượng ; thì bây giờ mình túng, không phép ngồi bó tay mà chịu nghèo. Con liền chịu ; sắm sửa ra đi. Đi ra ngoài bãi biển gặp ông khổng-lồ, đang tát biển, thì lại hỏi thăm : Anh làm chi mất công mất linh làm vậy ? - Anh khéo hỏi không ? Trong đời có một mình tôi mà thôi, không ai dám bì ; chẳng tin lại xách thử cái gàu mà coi : tôi đổ anh dở cho nổi. Anh kia lại xách thử gàu múc nước tát : Nhẹ hểu đi giống gì ? Khổng-lồ không dè có người mạnh-mẽ, tài tình hơn mình làm vậy ; kết nghĩa làm anh em. Rồi anh ta bày chuyện mình đi. Rủ ông Khổng-lồ đi theo có bạn. Hai anh em dắt nhau đi lên trên núi, gặp một người vặm- vở, to xương, lớn vóc, mới hỏi : Anh làm gì ở rừng ở bụi chèo queo một mình : Đi với qua đây mà chơi, coi ra còn có vị hơn. Anh ở núi nói : Tôi có một tài ngồi lại trên đảnh núi, thổi làm giông làm gió cho ngã cây ngã cối chơi vậy. - Nào, làm đi coi thử, nào ! Anh ta mới búng 24 má thổi một hơi. Cây cối gì đều rạp xuống hết. Vậy hai ông kia biểu : Thôi thì đi với tôi qua Tàu đòi bạc mà chơi. Đàng kia coi khá mòi, ừ, cuốn áo ra đi. Đi cách vài ba ngày đường, lại gặp một lão dị-kì tướng gánh voi trên núi. Mới lại mới hỏi : Chớ anh làm giống gì lục thục ở trên rừng vậy ? Anh kia đứng ngừng lại nói : Tôi đi lên rừng cao, đi bắt voi trói giò, gánh về để rục lấy một hai cây ngà bán kiếm tiền ăn. - Thôi mà, về lấy áo đi với mấy đứa tôi qua bên Bắc-thảo đòi bạc đem về chia nhau ăn. - Ừ, có vậy cũng may. Bốn bà con dắt nhau đi. Tới nơi, gởi dộng 25 vô trong nội một cái thơ đòi bạc nợ. Vua cho quan ra coi thử ai, mà đi đòi nợ đó. Ra thấy bốn người dị-hình dị-dạng ở bên Annam qua. Thì vua dạy dọn yến-tiệc đãi tử-tế. Mà các ảnh ăn hung quá, cung đốn theo thường không đủ. Vua tức mình lo mưu hại quách nó đi, để nó khuấy rối. Dọ coi thì anh nào cũng tài tình hết, sợ có khi các ảnh làm nhăng mà khốn. Vậy mới hạ chỉ dạy dọn yến, lại đặt binh-gia để phục mà hủy cho được. Bốn hợm ta thấy léo rồi, ăn thì ăn, mà ngó chừng kẻo nó ào vô thình lình mà khó giải. Nó nghe hiệu-lịnh, nó ào nó vô, thì anh làm gió thổi lên một hơi, nó rạp xuống hết. Vậy về báo với vua rằng : Tính thế không xong : Sức mới có một anh ra cự, mà quan quân binh lính rã ra hết, huống chi bốn bợm ra một lượt, thì ắt là nó ăn ta đi, nó giết hết. Vậy vua bàn với triều-đình phải mở kho mà trả bạc cho nó. Dầu mình không mắc nợ gì mặc lòng, nó đòi bao nhiêu, thì giao cho nó bấy nhiêu, đặng cho nó đi đi cho rảnh, để nó khuấy rối giờ. Vậy mới kêu vô mà giao bảy mươi muôn lượng bán kim bán ngân (nửa vàng nửa bạc) thì các ảnh chia nhau một người một gánh, gánh đi hểu-hểu. Ai nấy thấy đều thất-kinh hồn vía.