Từ một ngành nghề rất hot, điểm số đầu vào của ngành có thể cao nhất cả nước vào đầu những năm 1980 cho đến những năm 1995, có thể giúp cả một tỉnh thành phát triển như Hải Phòng nhờ số lượng thuyền viên và dịch vụ cảng biển, hoặc như ngày nay, quốc gia hàng xóm của chúng ta là Philippine, theo trang Splash247 (tháng 5/2025), ước lượng “mỗi năm có hơn 400.000 thủy thủ tàu biển Philippines được triển khai ra nước ngoài (mọi cấp bậc trên tàu biển), tạo ra hơn 6,7 tỷ USD kiều hối” với tỷ giá ngân hàng Vietcom bank là 26,050 vnđ/ 1 Dola Mỹ, tương đương 174,535 tỷ VNĐ,bằng với quy mô kinh tế của tỉnh Quảng Ngãi sau sáp nhập bao gồm tỉnh Quảng Ngãi và Kom Tum cũ (trích báo Vnexpress), với dân số sau sáp nhập tổng là: 2,161,755 (tính đến hết năm 2024, trích báo tuổi trẻ). Một con số lý tưởng về thu nhập của 1 người, nhưng tại sao, không chỉ Philipine, thuyền viên Việt Nam, nhân lực ngành Hàng Hải lại có tỉ lệ bỏ nghề rất cao, bài viết này được dịch từ trang mfame.guru, tiêu đề bài viết Tiếng Anh là: The top 12 Reasons Seafarers leave their job at sea, bài viết được đăng vào ngày 17/11/2022.
Thuyền viên trên biển
Thuyền viên trên biển
Bài viết này được dịch và viết theo cách diễn giải của 1 người từng đi tàu (tất nhiên cũng đã bỏ nghề) giúp người đọc dễ hiểu và mường tượng hơn.
Đây là lý do phổ biến và rõ ràng nhất, bởi ngày nay, ngày càng nhiều thủy thủ mong muốn có một công việc “ổn định” trên bờ. Khi mới bắt đầu sự nghiệp, một thủy thủ sẽ không ngại sống một cuộc sống “du mục”, nhưng sau một vài năm, đặc biệt là sau khi kết hôn, họ lại khao khát một cuộc sống ổn định hơn, nhất là với gia đình. Đây chắc chắn không phải là lý do mới khiến thủy thủ bỏ nghề, nhưng vẫn là một trong những nguyên nhân chính dẫn đến sự bất mãn trong công việc.
Không thể phủ nhận thực tế rằng cuộc sống trên tàu biển đã trở nên vô cùng bận rộn. Với các quy định hàng hải ngày càng nghiêm ngặt hơn được ban hành hàng năm, cuộc sống của một người đi biển ngày càng trở nên bận rộn, vất vả và đơn điệu. Việc gia tăng thủ tục giấy tờ, hướng dẫn đào tạo nâng cao, các quy tắc mới và luật an toàn và môi trường nghiêm ngặt đã khiến cuộc sống của người đi biển trở nên vô cùng bận rộn trên tàu. Hơn nữa, nhiều người đi biển cũng cho rằng việc quản lý nhân lực kém trên tàu là một lý do khiến khối lượng công việc tăng lên. Không cần phải nói, cuộc sống trên tàu vốn đã bận rộn nay lại càng trở nên bận rộn hơn mỗi năm.
c. Chính trị trên tàu (chia phe phái)
Dù bạn có cố gắng tránh xa phe phái cá nhân hay công việc trên tàu đến đâu, sớm muộn gì nó cũng sẽ ảnh hưởng đến bạn. Phe phái và xung đột trên tàu không chỉ gây khó khăn cho công việc mà con cả việc giao lưu trong một nhóm nhỏ người trên tàu (với những con tàu có thuyền viên đa quốc tịch). Hơn nữa, ranh giới giữa công việc và cuộc sống cá nhân trên tàu rất mong manh. Điều này càng khiến việc tránh né cũng như giải quyết các vấn đề chính trị hoặc xung đột phát sinh do bất đồng quan điểm trở nên khó khăn hơn. Cần có sự quyết tâm, kiên nhẫn và kỹ năng tuyệt vời để ứng phó với những người khó tính trên tàu, đặc biệt là sau những tranh cãi về công việc/ cá nhân.
d. Thiếu đời sống xã hội
Hầu như tất cả những người lên tàu đều được nuôi dưỡng trong môi trường xã hội từ khi sinh ra. Khi những người này đột nhiên phải đối mặt với không gian chật hẹp của tàu, với đời sống xã hội gần như không đáng kể, những tác động tiêu cục như thất vọng, cô đơn và nhớ nhà bắt đầu ảnh hưởng đến họ. Ban đầu, cuộc sống trên tàu có vẻ không tệ, nhưng theo thời gian, cảm giác trống rỗng bắt đầu len lỏi. Việc thiếu tương tác với mọi người và hạn chế vận động khiến cuộc sống trên tàu trở nên khốn khổ hơn. Cần rất nhiều can đảm và sự vững vàng về tinh thần để giữ được sự bình tĩnh và tập trung trên tàu. Nhiều người đi biển cuối cùng đã bỏ việc vì lý do này.
e. Xa gia đình.
Mặc dù hầy hết thủy thủ đều có thể chấp nhận việc phải xa bạn bè trong vài tháng khi đi biển, nhưng việc phải xa gia đình trong nhiều tháng trời mới thực sự khiến trái tim họ chán nản. Một số người vừa mới bắt đầu cuộc sống hôn nhân, trong khi những người khác mới vừa trải qua thiên chức làm cha mẹ, việc nhớ nhung những khoảng khắc quý giá bên những người thân yêu mà họ yêu thương nhất, chính là điều khiến họ đau đớn tột cùng. Không một thủy thủ nào muốn bỏ lỡ thời gian bên vợ hay chứng kiến con trai, con gái mình già đi mà không có mình bên cạnh. Chính lúc đó, họ mới nhận ra tầm quan trọng của “cuộc sống gia đình” và “những người thân yêu”. Nỗi đau khi phải xa gia đình trong nhiều tháng trời cũng là một trong những lý do chính khiến họ bỏ nghề.
f. Vấn đề cá nhân/ gia đình.
Người ta không thể tập trung vào công việc khi bị làm phiền bởi các vấn đề gia đình hoặc cá nhân. Những người đi biển thường gặp phải vấn đề này khi họ để lại các vấn đề gia đình của mình trên bờ. Tuy nhiên, việc không thể giải quyết các vấn đề cá nhân và những ảnh hưởng tiêu cực của nó đối với gia đình, gây ra trạng thái lo lắng thường trực làm giảm khả năng tập trung vào nhiệm vụ của một người. Thật vô cùng khó khăn để làm việc khi bạn ở trên tàu nhưng tinh thần lại ở nhà. Hơn nữa, điều gây tổn thương nhiều hơn cho những người đi biển là không thể giải quyết bất kỳ tình huống khẩn cấp hoặc sự cố nào trong gia đình họ ở nhà. Những tình huống như vậy dẫn đến sự thất vọng, lo lắng, mất ngủ và căng thẳng tột độ cho những người đi biển. Nhiều người đi biển đã bỏ nghề vì lý do này.
g. Sự gia tăng nạn cướp biển.
Mặc dù gần đây đã có nhiều biện pháp được thực hiện để chống cướp biển trên biển, nhưng các vụ việc liên quan đến cướp biển và cướp tàu vẫn xảy ra hầu như hàng tháng. Mối đe dọa từ cướp biển ngày càng gia tăng và rõ ràng là các thủy thủ rất lo sợ mặc dù có sẵn vũ khí để chống lại chúng. Không ai muốn mạo hiểm mạng số hoặc tự đặt mình vào nguy hiểm khi trên những con tàu hoạt động ở những khu vực bị ảnh hưởng bởi cướp biển. Nối sợ cướp biển cũng được coi là một trong nhiều lý do khiến thủy thủ rời bỏ công việc trên tàu.
h. Các vấn đề sức khỏe.
Làm việc trên tàu đòi hỏi phải đáp ứng các yêu cầu y tế và sức khỏe nghiêm ngặt. Mặc dù các quy định nghiêm ngặt phải tuân thủ trước khi lên tàu, nhưng thật trớ trêu khi cuộc sống trên tàu lại không hề lành mạnh. Lịch trình ăn và ngủ thất thường, áp lực công việc quá mức, môi trường không thân thiện, thiếu thực phẩm tươi sống và cơ sở vật chất y tế không đầy đủ đã ảnh hưởng nghiêm trọng đến sức khỏe thuyền viên. Hơn nữa, một số thuyền viên cũng phải nghỉ việc khi được chuẩn đoán mắc các bệnh lý cần được chăm sóc y tế ngay lập tức trong trường hợp khẩn cấp. Nhiều người cũng phàn nàn về sự chênh lệch ngày càng tăng giữa giờ làm việc và giờ nghỉ ngơi, bất chấp luật pháp yêu cầu phân bổ thời gian hợp lý.
(Mình từng phải ăn cải thìa và bí đỏ đông đá, khi chuyến hành trình 1 đi từ Nhật tới Mỹ và về Trung quốc kéo dài gần 2 tháng)
i. Giảm thời gian đi phép trên bờ.
Một trong những lý do chính khiến mọi người gia nhập đội tàu thương mại là sự hấp dẫn được khám phá thế giới. Tuy nhiên, trong vài năm trở lại đây, số lượng thời gian phép được cấp cho thuyền viên đã giảm đột ngột. Do thời gian quay vòng tàu tại cảng nhanh hơn và các quy trình bảo dưỡng định kỳ, thuyền viên không được phép ra cảng. Hơn nữa, nhiều tàu VLCC (Very Large Crude Carrier – tàu chở dầu thô lớn) và tàu có sức chứa lớn thậm chí còn không cập cảng để dỡ hàng hoặc bốc hàng (ở trong miền Nam, các tàu siêu trường siêu trọng thường chỉ dừng lại ở ngoài biển Vũng Tàu để chia hàng cho các sà lan hoặc tàu nhỏ), khiến thuyền viên không có cơ hội giải tỏa trên bờ, tránh xa môi trường tàu. Việc đi biển liên tục như vậy với ít hoặc không có nhiều cơ hội được lên bờ nghỉ phép và mua sắm đã khiến nhiều thuyền viên nản lòng và cuối cùng đã từ bỏ nghề hàng hải.
j. Thiếu việc làm ở trên bờ.
Nguyên nhân này nghe có vẻ mâu thuẫn, nhưng đây cũng là một trong những lý do khiến thủy thủ bỏ nghề sớm trong sự nghiệp của họ. Mặc dù hầu hết các trường Hàng hải và chuyên gia hàng hải đều hứa hẹn những cơ hội làm việc trên bờ đầy đủ cho các thủy thủ, nhưng những người muốn chuyển lên bờ lại thấy khó có được một công việc xứng đáng. Hầu hết các công ty yêu cầu một lượng kinh nghiệm lớn trên biển để có được một vị trí quản lý tốt trên bờ, người ta còn phải có bằng MBA (thạc sĩ) hoặc tham gia một số khóa học tương đương. Các thủy thủ thấy khó khi quay lại học tập sau một thời điểm nhất định, đặc biệt là khi họ bị ràng buộc bởi trách nhiệm gia đình. Nhiều thủy thủ hiện có thể lường trước được điều này và do đó thay đổi hướng đi của họ rất sớm trong sự nghiệp của họ. Tuy nhiên, việc thỏa hiệp về mức lương là một điều mà sớm muộn gì họ cũng phải chấp nhận.
k. Giảm số lượng thành viên trên tàu.
Trong bối cảnh khủng hoảng tài chính đang đe dọa ngành vận tải biển, các công ty vận tải biển đang tận dụng mọi biện pháp có thể để cắt giảm chi phí. Để làm được điều này, số lượng thuyền viên trên tàu đang bị cắt giảm để bù đắp các chi phí cần thiết. Kết quả là, các thủy thủ đang phải chịu khối lượng công việc tăng đáng kể mà không được tăng lương. Xu hướng này đã được ghi nhận ở hầu hết các công ty vận tải biển trên toàn thế giới. Nhu cầu công việc tăng cao với mức lương tương đương hoặc không tăng cũng đang khiến nhiều thuyền viên bỏ việc.
l. Luật hàng hải nghiêm ngặt.
Luật hàng hải nghiêm ngặt đã gây khó khăn cho cuộc sống của các chuyên gia hàng hải, đặc biệt là những người ở cấp quản lý. Nhiều thuyền viên trong quá trình đã bị bỏ tù, phạt nặng và đình chỉ công tác vì những luật này. Các sĩ quan cấp quản lý là những người thường xuyên phải gánh chịu gánh nặng của những luật này và do đó luôn chịu áp lực trong suốt hành trình. Đây là một trong những lý do chính dẫn đến tình trạng thiếu hụt trầm trọng các chuyên gia hàng hải ở cấp quản lý. Đọc bài viết tiếng anh đầy đủ tại: