Bài viết bởi nhà báo Nick Davies, đăng trên báo The Guardian ngày 22 tháng 4 năm 2015. Bài viết nhân dịp kỷ niệm 40 năm kết thúc chiến tranh Việt Nam. 
Xe tăng quân đội Nhân Dân Việt Nam tiến vào chiếm Dinh Độc Lập, Sài Gòn ngày 30 tháng 4 năm 1975. Sự kiện này đánh dấu chấm hết chính thức cho chiến tranh Việt Nam.

Vào lúc sáng sớm một ngày tháng Hai năm 1968, khi cuộc chiến ở miền Trung Việt Nam đã đạt đến mức độ điên rồ mới, một nhóm lính Nam Hàn càn quét ngang qua một ngôi làng gọi là Hà My, một ngôi làng đơn sơ gồm các căn nhà tre xen lẫn với các cách đồng lúa cách thành phố Đà Nẵng khoảng một tiếng chạy xe. Họ đến từ đơn vị Rồng Xanh, một nhóm lính chiến đấu bên cạnh lính Mỹ, với nhiệm vụ tiêu diệt lực lượng nổi dậy cộng sản.
Nhiều tuần rồi họ đã lùa những người nông dân và các gia đình vào những khu sinh sống chật chội mà người Mỹ gọi là "ấp chiến lược". Bằng việc cách ly người nông dân ra khỏi ngôi làng, họ hi vọng họ có thể cắt được nguồn cung lương thực cũng như chỗ trú ẩn của lực lượng cộng sản, khiến đối phương chết đói. Và trong nhiều tuần liền những người nông dân và các gia đình liên tục cố gắng bỏ chạy, men theo đường mòn về Hà My, bởi vì họ ghét việc bị giam trong các ấp chiến lược và họ cần phải chăm sóc ruộng đồng. Lần này thì nhóm Rồng Xanh đã chịu quá đủ với việc bỏ trốn này rồi.
Vào sáng đó chỉ trong vòng một tiếng sau khi đến nơi, binh lính Hàn Quốc dồn hết người dân làng vào thành những nhóm nhỏ, rồi một cách rất hệ thống, họ nã đạn vào nhóm người. Một tiếng sau, họ đã giết 135 người dân làng. Họ đốt hết nhà và xác chết, rồi lấy xe ủi tống các xác đó vào những ngôi mộ tập thể. Và sự thật cũng bị chôn lấp luôn.
Hiện giờ có một tượng đài tưởng niệm vụ thảm sát ấy, xây 30 năm sau bởi những người lính Rồng Xanh, họ đã quay lại để bày tỏ sự ân hận. Nhưng có gì đó không ổn. Tượng đài đứng sừng sững, cao như một căn nhà, với mái che được trang trí đẹp đẽ, bên giới đó là hai ngôi mộ tập thể, và một bia đá lớn khắc tên những người lớn và trẻ em đã chết. Nhưng không có bất kì lời giải thích nào cho những cái chết đó cả.
Những người dân làng nói rằng khi các tượng đài mới được xây xông, lúc đó đằng sau bia đá có ghi rõ việc gì đã xảy ra vào ngày hôm đó. Một người còn chép lại được các từ đã khắc trên bia đá, hóa ra đó là một bài thơ rất mạnh mẽ nói về lửa và máu, về da thịt bị cháy, về các xác chết bị chôn dưới cát: "Đau đớn làm sau khi thấy cha và mẹ gục xuống thành từng mảnh trong đống lửa...Kinh hoàng làm sao khi thấy trẻ em và em thơ gào thét và khóc, với tay ra, vẫn còn đang bú từ bầu sữa của người mẹ đã chết..." Nhưng mà người dân kể rằng một vài quan chức ngoại giao Hàn Quốc đã đến thăm địa điểm trước ngày khánh thành bia đá và than phiền về ý nghĩa của bài thơ. Thay vì đứng lên và bảo vệ sự chính nghĩa của mình, lãnh đạo Việt Nam đã ra lệnh che bài thơ đó lại bằng một bức tranh điêu khắc hoa sen đang nở. Một nhà sử học Hàn Quốc, Heonik Kwon, người đã nghiên cứu về sự kiện ở làng Hà My lúc đó, đã ghi chép lại lời nói của người dân làng rằng việc che lấp sự thật này như là một cuộc thảm sát thứ hai, "giết chết ký ức của những người bị chết".
Tại sao người Việt Nam lại hạ thấp mình như thế? Tại sao những người chiến thắng cuộc chiến lại cho phép câu chuyện của họ bị định nghĩa bởi kẻ chiến bại?
Người dân làng nói rằng câu trả lời rất đơn giản: người Hàn đã trở thành một trong những nhà đầu tư nước ngoài lớn nhất trong nền kinh tế, và họ đề nghị sẽ trả tiền để xây bệnh viện ở địa phương nếu bài thơ về vụ thảm sát bị che lấp. Do đó lãnh đạo địa phương của Việt Nam đồng ý, họ không cưỡng lại được lời đề nghị hấp dẫn này. Và đây chính là điều cốt lõi diễn ra ở Việt Nam kể từ ngày cuộc chiến kết thúc 40 năm trước, vào ngày 30 tháng 4 năm 1975.
Sau một tháng đi thăm quan đất nước này bắt đầu từ hồi đầu năm, sau khi đã nói chuyện với những người nông dân, với tầng lớp tri thức, với các học giả và những cựu binh từ hai bên, hàng loạt câu chuyện về những sự giả dối và hạ thấp dân tộc đã được đưa ra ánh sáng, những thứ này bị áp đặt lên người Việt bởi những thế lực hùng mạnh theo đuổi lợi nhuận. Người Mỹ đã thành công trong việc lan truyền những điều sai trái về nguyên nhân cuộc chiến cũng như cách họ tiếng hành cuộc chiến. Nhưng mặc dù thất bại về mặt quân sự, người Mỹ và đồng minh của họ đã trở lại với những vũ khí tài chính còn lợi hại hơn gấp bội phần, ép người Việt Nam phải đi theo con đường mà ban đầu họ không chọn. Và bây giờ chính lãnh đạo của người Việt đang là kẻ nói dối lớn nhất.
Nguyễn Hào Thu, 90 tuổi, sống trong một căn hộ sáng sủa và đẹp đẽ ở Hà Nội. Bà nói chuyện bằng tiếng Pháp sành sõi như chim hót và một thứ tiếng Anh bập bẹ, bà mô tả thời con gái rằng bà đã được chứng kiến quốc gia của mình nghiền nát hai thế lực hùng mạnh như thế nào. Đầu tiên đó là người Pháp, những kẻ đã không chấp nhận từ bỏ thuộc địa của mình sau Thế chiến thứ hai. Vào năm 1946, ở tuổi 21, cô gái Thu đã đi vào rừng và tham gia lực lượng du kích kháng chiến, bà chuyên về việc trộn acid, saltpetre và cồn để tạo ra thuốc súng: "Tôi rất là hạnh phúc khi ở trong rừng. Với thuốc súng trong quả bom, bạn có thể - bụp - và thấy được ước mơ của bạn."
Và ước mơ đó không chỉ là ước mơ của những người chủ nghĩa dân tộc, đó là tống khứ những kẻ xâm lăng. Ước mơ đó là dành riêng cho những người cộng sản và lý tưởng cách mạng. Bà Thu kể lại thời thơ ấy người Pháp đã bắt cha của bà đi, lúc đó ông là giáo viên tiểu học. Bà phải mang cơm đến thăm tù cha mình khi mới bảy tuổi. "Tôi ghét tất cả những kẻ muốn tấn công và chiếm đóng Việt Nam. Trong tâm trí tôi, tôi đã trở thành một người cộng sản," bà nói. Gia đình bà từng là một gia đình trung lưu sống thoải mái, nhưng trong những năm 1930, nhà của bà được dùng để làm nơi hội họp cho các lực lượng nằm vùng của Đảng Cộng sản Việt Nam. Bà còn nhớ bà đã được đọc sách về Marx và Lenin và rồi người Pháp đã xử tử những người bạn của bà như thế nào. Khi đó bà mới 16 tuổi. "Tôi thực sự đã trở thành một người cộng sản."
Một vị chỉ huy cấp cao quân đội Nhân Dân Việt Nam gặp phóng viên nước ngoài sau ngày 30 tháng 4 năm 1975
Đọc thêm:
Lê Nam Phong cũng lớn tuổi gần bằng bà Thu. Khi ông đăng lính tình nguyện để đánh Pháp năm 1945 ông chỉ mới 17 tuổi. Ông dành 30 năm tiếp theo chiến đấu, cuối cùng trở thành thiếu tướng trong quân đội Bắc Việt Nam và là một nhân tố quan trọng trong việc đánh sập cỗ máy chiến tranh của người Mỹ. Ngồi ngoài hiên bên ngoài căn nhà rộng lớn của mình, cắt một miếng xoài trong một buổi chiều ấm áp, ông thong thả nhớ lại động cơ tham gia cách mạng của mình: "Chủ nghĩa xã hội ư? Đúng rồi, tất nhiên rồi. Mục tiêu của cuộc chiến đấu là để xây một quốc gia xã hội chủ nghĩa, để được tự do và độc lập và hạnh phúc. Trong những ngày đầu đánh Pháp và sau đó là Mỹ, chúng tôi đã định hình trong đầu xã hội mà chúng tôi muốn xây dựng sau này - một xã hội mà người không bóc lột người, công bằng, độc lập và bình đẳng."
Đó là sự khác biệt giữa câu chuyện giữa người Việt và người Mỹ kể ra bên ngoài. Phiên bản của người Mỹ về cuộc chiến đó là khi người Pháp bị đánh bại vào năm 1954, quân đội Mỹ tiến vào để bảo vệ Nam Việt Nam khỏi bị xâm chiếm bởi lực lượng cộng sản miền Bắc. Sự thật là người Pháp đã khiến tất cả người Việt Nam ghét họ, khiến họ đi theo sự lãnh đạo của Đảng Cộng Sản của Hồ Chí Minh. Và quan trọng hơn là lúc đó chẳng hề có hai quốc gia tách biệt. Vào năm 1954, mặc dù người Việt đã chiến thắng, người Pháp và đồng minh phương Tây của họ cố gắng bám lấy các cứ điểm ở miền Nam. Tại một hội nghị quốc tế ở Geneva, tất cả các bên đều đồng ý rằng quốc gia này sẽ bị chia hai - một cách tạm thời - thành miền Nam Việt Nam và miền Bắc Việt Nam, cho đến tháng 7 năm 1956, khi đó một cuộc bầu cử sẽ được tổ chức để tạo ra một chính phủ duy nhất cho cả quốc gia.
Tổng thống Mỹ lúc đó là Dwight Eisenhower, sau này thừa nhận rằng nếu mà cuộc tổng tuyển cử đó được phép xảy ra, khoảng 80% người Việt sẽ bỏ phiếu cho Việt Minh và lựa chọn xã hội chủ nghĩa - và những người Việt Nam mà chúng tôi gặp đều đồng ý như thế. Nhưng người Mỹ đã không cho phép điều đó xảy ra. Thay vào đó, họ dùng một đặc viên CIA đầy tai tiếng, ông Edward Lansdale, một người đã dùng các thủ đoạn khác nhau gồm hối hộ và bạo lực để lập nên một chính quyền mới ở Sài Gòn, đứng đầu bởi một chính trị gia Công giáo tên là Ngô Đình Diệm. Ông ta là một kẻ chuyên chế và theo chủ nghĩa gia đình trị, nhưng ông ta chống cộng và ủng hộ người Mỹ. Vào tháng 10 năm 1955, Lansdale đã giúp Diệm thắng cử trong một cuộc bầu cửa đầy gian lận để Diệm trở thành Tổng thống. Cuộc tổng tuyển cử bị hủy. Cuộc chia cắt "tạm thời" giữa hai miền bây giờ trở thành một cuộc chia cắt lâu dài, và Việt Nam bây giờ được đối xử như có hai quốc gia khác nhau, miền Nam được coi là nạn nhân của một cuộc xâm lược từ miền Bắc.
Tại một hội nghị quốc tế ở Geneva, tất cả các bên đều đồng ý rằng quốc gia này sẽ bị chia hai - một cách tạm thời - thành miền Nam Việt Nam và miền Bắc Việt Nam, cho đến tháng 7 năm 1956, khi đó một cuộc bầu cử sẽ được tổ chức để tạo ra một chính phủ duy nhất cho cả quốc gia.
Ban đầu người Mỹ, những người mà trước đó đã đổ tiền tài trợ cho cuộc chiến của người Pháp, hài lòng với việc đổ tiền xây dựng quân đội Nam Việt Nam, và gửi quân của mình vào Nam dưới cái tên "cố vấn" - có 16,300 cố vấn tổng cộng. Đến tháng 3 năm 1965 thì họ đã gửi lính của họ vào tham chiến. Vào đỉnh điểm của cuộc chiến năm 1969, người Mỹ đã có một đội quân 550,000 người ở miền Nam, cộng với 897,000 lính Nam Việt Nam, cùng với hàng ngàn lính Nam Hàn và lính đồng minh khác. Khi cuộc chiến kết thúc, số người chết là không thể đếm hết được, theo ước tính từ Khoa Y Đại học Harvard và Đại học Washington con số đó là khoảng 3.8 triệu người.
Người phát ngôn Bộ ngoại giao Anh Quốc bấy giờ, ông James Cameron, đã miêu tả hành động của người Mỹ là "sự xúc phạm đến các chuẩn mực quốc tế, vừa kinh tởm vừa ngu xuẩn." Vào năm 1965 ông nhìn lại con đường dẫn đến cuộc chiến và viết: "Nó vừa vụng về và tàn nhẫn và không hề được lên kế hoạch và vô tâm. Từng bước một, phương Tây vấp ngã và dính vào một tình huống mà họ chưa bao giờ hiểu hết được và không bao giờ cố gắng tìm kiếm câu trả lời: ngay từ ban đầu họ đã tranh cãi về những thứ vô nghĩa."
Sự tàn bạo của những tháng năm ấy vẫn còn sống trong lòng những người phải chịu đựng nó. Trong một căn nhà nhỏ ở Sài Gòn, cái tên nhiều người Việt vẫn gọi thành phố mà giờ là Thành phố Hồ Chí Minh, một người lính du kích trước đây nhớ lại lúc máy bay ném bom Mỹ bay qua chiến khu của họ trong rừng, anh và các đồng chí phải nấp trong các hố nhỏ: "Chúng tôi có rượu gạo rất mạnh. Nếu anh uống nó, anh sẽ thấy rưng rưng nước mắt. Chúng tôi gọi đó là "nước mắt tổ quốc". Nó giúp chúng tôi quên đi sợ hãi."
Binh lính miền Bắc xung phong tấn công quân miền Nam ở chiến trường Nam Lào, 1971.
Khối lượng thuốc nổ người Mỹ ném xuống Việt Nam nhiều hơn tổng khối lượng quân đồng minh ném vào Đức và Nhật Bản trong Thế chiến thứ Hai. Họ cũng ném bom cháy Napam, nó dính vào người nạn nhân và đốt hết da của họ, họ cũng ném bom phốt pho trắng, nó đốt đến tận xương người, họ ném bom bi, khi nổ nó văng ra hàng trăm qua bi sắt và mảnh thép ở mọi hướng, và họ ném 73 triệu lít chất hóa học độc hại, bao gồm 43 triệu lít Chất độc Màu Da Cam, thứ đó dùng để diệt cỏ nhưng cũng khiến những ai hít phải nó bị bệnh.
Tai tiếng nhất là việc người Mỹ ném bom Hà Nội, một thành phố đầy dân thường và không có không quân bảo vệ nó. Một người phụ nữ nhớ lại ngày bà mới 8 tuổi bà phải đeo các nhánh cây như là lớp ngụy trang vụng về để trốn khỏi các máy bay F-111 bay nhanh gấp đôi tốc độ âm thanh. Một người đàn ông từng là chiến sĩ phòng không kể rằng sau một ngày chiến đấu không có kết quả, ông về nhà và thấy toàn bộ khu phố đã bị phá tan tành: thứ duy nhất người con trai ông để lại là một cái chân bị đứt lìa, ông nhận ra được nó là của con ông nhờ vết sẹo trên đó.
Ở dưới đất, quân đội Mỹ là một lực lượng hùng mạnh không kém. Trong một ngôi làng ở vùng châu thổ Mê Kông, một bác nông dân khoảng 60 tuổi ngồi thư giãn trong nhà của mình, sàn nhà làm từ đất sét. Bà nhớ lại cái ngày mẹ chồng của mình lúc đó đang làm việc trên đồng ruộng, đã phạm sai lầm chết người là bỏ chạy khi trực thăng quân đội Mỹ xuất hiện và nã pháo vào khu vực gần đó: một quả tên lửa đã nổ trúng bà và xé nát người bà thành từng mảnh, các miếng thịt văng lên một cây dừa. "Tôi phải đi và thu gom bà đó lại. Tôi phải lượm từng cái răng." Các máy bay trực thăng cũng nổ súng giết chết ba người anh trai của bà. Bà kể những năm tháng qua, bà vẫn khó ngủ, và bà vẫn còn sợ bất kỳ âm thanh nào mà nghe giống tiếng trực thăng. 
Một người phụ nữ Việt Nam than khóc trước thi thể của người chồng được tìm thấy trong một khu mộ tập thể gần Huế. (Ảnh AP).
Chỉ với một chiếc bát nhựa, hai anh em cậu bé ăn mày bé nhỏ này phải tự mình kiếm sống để tồn tại (Sài Gòn, 1965-1975).  (Ảnh AP)
Đọc thêm:
Nhiều người Mỹ vẫn tin rằng vụ thảm sát Mỹ Lai tai tiếng là một sự kiện hiếm, không phải là điều diễn ra thường xuyên, nhưng nhà báo Nick Turse đã tìm thấy các dữ liệu trong Cục lưu trữ quốc gia Mỹ vào tháng 6 năm 2001. Ông tìm thấy các hồ sơ ghi lại hoạt động của một lực lượng bí mật, Đội Tìm Kiếm Tội Ác Chiến Tranh Việt Nam. Đội này đã ghi chép được hơn 300 sự kiện tàn sát, giết người, hãm hiếp và tra tấn thực hiện bởi quân đội Mỹ.
Turse sau đó đã đến thăm Việt Nam. Trong quyển sách, Giết Bất Cứ Thứ Gì Di Chuyển, ông mô tả việc tìm kiếm các địa điểm được mô tả trong tài liệu, trong đó có một địa mà theo ghi chép là 20 người phụ nữ và trẻ em được cho là đã bị giết trong một ấp ở vùng cao nguyên. Theo hướng dẫn của người địa phương, ông vô tình đến được một nơi tưởng niệm dành cho 5 cuộc thảm sát khác ở trong cùng khu vực: "Lúc đó tôi cứ tưởng việc tôi làm là mò kim đáy bể, không ngời tôi đã tìm được một bọc kim trong bể." Ông kết luận rằng một loạt các yếu tố bao gồm việc không quan tâm đến sự khác biệt giữa các dân tộc, áp lực từ cấp trên để đạt đủ doanh số "giết" và việc coi vùng nông thôn là "khu vực bắn tự do" (free-fire zone) đã khiến cho "việc giết hại dân thường trở nên phổ biến, diễn ra đều đặn và đều theo sự chỉ đạo của bộ chỉ huy."
Những ai sống sốt thì đôi lúc bị bắt làm tù nhân và phải chịu cảnh cực khổ. Vào năm 1970, một nhóm nghị sĩ Mỹ đã đến thăm nhà tù Côn Đảo đầy tai tiếng. Ở đó họ tìm thấy đàn ông và phụ nữ bị xiềng xích trong các "chuồng cọp", bỏ đói, bị đánh đập, tra tấn và phải ăn côn trùng để sống. Mặc cho sự phẫn nộ của dư luận khi các báo cáo này được công bố, nhà tù này vẫn hoạt động.

Chỉ mới vài năm trước, các ký giả của những tờ báo lớn ở Sài Gòn vẫn thường hay đến mua cà phê từ một quán nước bên đường, sở hữu bởi một bà chủ rất là dễ mến. Bà bán cà phê trước văn phòng của họ. Chỉ có vài người biết tên Bà. Họ hay gọi cô là Bà Bán Cà Phê. Bà cũng có câu chuyện của riêng mình để kể về cuộc chiến, nhưng câu chuyện chính của Bà là về những gì xảy ra sau khi hòa bình lập lại. Đây là bối cảnh cho những lời nói dối của Đảng Cộng Sản Việt Nam.
Bà còn nhớ Ngày Giải Phóng: niềm vui cuồng nhiệt của người dân khi cuộc chiến kết thúc, niềm tự hào không kể xiết của lực lượng cộng sản vì họ đã đánh bại được quân đội mà ai cũng nói là mạnh nhất thế giới, và ai cũng tràn đầy hi vọng cho một cuộc sống tốt đẹp hơn. Nhưng cũng đan xen trong đó là sự sợ hãi. Có rất nhiều tin đồn về việc trả thù và cướp bóc. Bà Bán Cà Phê đã rất lo lắng về việc có kẻ điên nào đó sẽ cầm những khẩu súng bị vứt lại trên đường và làm càn. Và bà cũng rất buồn, vì lý do cá nhân.
Một vài năm trước ngày giải phóng, cô làm bồi bàn cho một căn cứ quân sự của Mỹ ở Vũng Tàu, một vùng đất biển gần Sài Gòn, và ở đó cô gặp một anh lính tên là Ronald. Anh đến từ New York và anh có nhiệm vụ bay trinh sát ở Việt Nam và Cam-pu-chia. Họ đã yêu nhau. Nhưng chỉ trong thời gian ngắn, anh phải quay lại Mỹ, nhưng họ vẫn viết thư cho nhau, và anh nói với cô rằng anh sẽ bảo lãnh cho cô đến Mỹ. Thế rồi anh lặng im, và cô hiểu rằng sẽ không có cơ hội nào cho anh bảo lãnh cô đến Mỹ nữa. Sợ rằng chính quyền mới sẽ tức giận nếu phát hiện ra điều này, cô phải đốt các lá thư của Ronald và không bao giờ nghe tin gì từ anh nữa. Nhiều năm sau, giờ ở tuổi 64, tóc bạc và điềm đạm, ngồi lặng lẽ bên ngoài một ngôi chùa, bà vẫn còn thấy buồn trong lòng.
Một người lính Sài Gòn và bạn gái. Ảnh trước năm 1975.
Bà Bán Cà Phê thuộc về một bên khác trong cuộc chiến này. Bà đơn giản chỉ là một người phụ nữ Việt, yêu một anh lính Mỹ và mong muốn có một cuộc sống dễ chịu. Ngày Giải Phóng không mang lại những năm tháng tốt đẹp hơn. Ban đầu bà phải làm trong các nhà máy hợp tác xã. Ở đó bà phải ngồi và đạp máy khâu quần áo suốt 11 tiếng mỗi ngày, không được trả tiền công gì hết ngoài một phiếu ăn, dùng để đổi ra một nhúm nhỏ thóc loại tệ nhất và thịt thì còn ít hơn. Trong suốt nhiều năm, bà phải sống trong căn hộ nhỏ với người anh của mình, người anh đó cũng làm việc trong một xưởng may khác. Toàn bộ nền kinh tế rơi vào tình trạng bết bát. "Cuộc sống rất khó khăn cho người dân thường," bà kể. 
Người Mỹ ra đi để lại một Việt Nam tan nát. Đường bộ, đường sắt, cầu và kênh rạch đều bị phá hủy bởi bom đạt. Những quả bom và mìn chưa nổ nằm dọc khắp đất nước, thường ở dưới các cánh đồng lúa nước nơi người nông dân đi cấy. Hơn 5 triệu héc ta rừng đã bị tận diệt bởi thuốc nổ và chất độc màu da cam. Chính phủ mới ước tính rằng hơn hai phần ba làng xã ở miền Nam đã bị phá hủy. Ở Sài Gòn, di sản của người Mỹ bao gồm các trẻ em mồ côi cơ nhỡ đi lang thang khắp phố và ma túy là một đại dịch. Về mặt quốc gia, chính quyền mới ước tính họ phải đối đầu với 10 triệu di dân, 1 triệu quả phụ, 880,000 trẻ mồ côi, 362,000 người lưu trú bất hợp pháp, và 3 triệu người thất nghiệp.
Nền kinh tế thực sự hỗn loạn. Sau ngày Giải Phóng, lạm phát tăng cao đến 900% và Việt Nam, một quốc gia đầy những ruộng lúa, đã phải đi nhập khẩu gạo. Trong cuộc đàm phán ở Paris, người Mỹ đồng ý trả 3.5 tỷ USD như là viện trợ tái thiết cơ sở hạ tầng mục nát. Họ đã chẳng trả một đồng nào. Và như một sự sỉ nhục, người Mỹ còn yêu cầu chính quyền cộng sản phải trả lại hàng triệu đô la tiền nợ của kẻ thù cũ, tức chính quyền Sài Gòn trước. Việt Nam cần giao dịch với thế giới và viện trợ đến mức tuyệt vọng. Người Mỹ thì đảm bảo rằng đất nước này sẽ chẳng có hai thứ đó.
Ngay sau khi thất bại, người Mỹ lập tức áp đặt cấm vận kinh tế, cắt đứt nền kinh tế của quốc gia tan nát này khỏi hàng hóa không chỉ từ Mỹ, mà còn những quốc gia nghe theo sức ép từ Mỹ. Đồng thời các tổ chức quốc tế mà người Mỹ đứng đầu, bao gồm Ngân hàng Thế Giới, UNESCO đều từ chối viện trợ Việt Nam. Người Mỹ thừa nhận Chất Độc Màu Da Cam là một trong những nguyên nhân gây ra bệnh hiểm nghèo và đột biến ở trẻ sơ sinh và đồng ý bồi thường 2 tỷ USD - nhưng chỉ là cho cựu binh của họ. Những nạn nhân Việt Nam, được ghi nhận khoảng 2 triệu người, không được một cắc nào.
Đến giờ chúng ta vẫn chưa rõ có một mô hình kinh tế nào có thể đương đầu được với môi trường khốc liệt như thế này. Như một điều hiển nhiên, dự án xây dựng quốc gia xã hội chủ nghĩa của Việt Nam bắt đầu đổ sập. Dự án này bắt chước mô hình thô từ Liên Bang Xô Viết, theo đó người nông dân bị ép phải giao nộp thóc lúa để đổi lấy tem phiếu. Không có động lực sản xuất, sản lượng đầu ra giảm gần bằng 0, lạm phát tăng nhanh như hồi còn chiến tranh, và một lần nữa quốc gia lại phải đi nhập khẩu gạo. Trong đầu thập niên 1980, lãnh đạo chính quyền đã phải cho phép người nông dân bán lúa thặng dư, và như vậy chủ nghĩa tư bản bắt đầu trở lại. Đến cuối thập niên 1980, lãnh đạo đảng đã quyết định đi theo hướng xây dựng "nền kinh tế thị trường với định hướng xã hội chủ nghĩa."
Chính nhờ sự đổi mới này mà Bà Bán Cà Phê vào năm 1988 đã có thể rời khỏi xưởng may để trở thành một người bán hàng. Bà kể vào mỗi buổi sáng, bà sẽ dậy lúc 4 giờ để chuẩn bị cà phê cho kịp đi lòng vòng trong thành phố. Đến 5 giờ sáng bà sẽ ngồi trên một cái ghế nhỏ bên ngoài tòa soạn báo. Những thay đổi chung quanh bà xảy ra dồn dập trong những năm 1990. Các nhà đầu tư nước ngoài đã được phép đến và doanh nghiệp tư nhân được khuyến khích phát triển - tự do thương mại, thị trường tự do, lợi nhuận cho người này, lương cho người khác. Đằng sau những cánh rèm, chính phủ đang phát đi các tín hiệu cho thấy họ sẵn sàng xuống nước với Washington. Họ không còn đòi hỏi người Mỹ phải gửi 3.5 tỷ USD tiền viện trợ hay là bồi thường cho nạn nhân chất độc màu da cam nữa (các vụ kiện của cho nạn nhân chất độc màu da cam của người Việt hiện nay do tư nhân và tổ chức quốc tế làm, chính phủ không công khai lên tiếng mà chỉ ủng hộ ngầm - chú thích ND) hay là yêu cầu bồi thường cho tội ác chiến tranh. Họ thậm chí còn đồng ý trả nợ 146 triệu đô là của chính quyền Sài Gòn cũ. Đến năm 1994, người Mỹ lúc này đã hài lòng và dỡ bỏ lệnh cấm vận vốn đã bóp nghẹt Việt Nam suốt 20 năm nay. Ngân hàng Thế Giới, Quỹ tiền tệ quốc tế và các tổ chức nhân đạo khác bắt đầu gửi tiền đến giúp Việt Nam. Nền kinh tế bắt đầu tăng trưởng 8.4% mỗi năm và Việt Nam dần trở thành một trong những quốc gia xuất khẩu gạo lớn nhất thế giới.
Nhưng cần biết rằng trong suốt thập niên 1990, có rất nhiều nhóm trong Đảng Cộng Sản quyết tâm bảo vệ chủ nghĩa xã hội trước làn sóng tư bản đang tràn ngập cả nước. Mặc cho sự hỗn loạn của nền kinh tế gây ra bởi các chính sách đối nghịch này, chính quyền mới đã thành công trong việc xóa đói giảm nghèo. Khi cuộc chiến kết thúc, 70% dân số Việt Nam sống dưới mức nghèo. Đến năm 1992, con số đó là 58%. Đến năm 2000, con số đó là 32%. Cũng vào thời gian đó, chính quyền xây dựng một mạng lưới trường mẫu giáo ở mỗi phường xã, và xây rất nhiều trường trung học cơ sở, họ cũng xây được nền tảng cơ bản cho dịch vụ chăm sóc y tế toàn dân. Trong một thời gian nhất định, nhóm chủ nghĩa xã hội vẫn còn đủ sức để kiềm chế con tàu tư bản chủ nghĩa. Ba lần trong thập niên 1990, Ngân hàng Thế Giới đưa ra đề nghị cung cấp thêm hàng triệu đô la viện trợ cho Việt Nam nếu chính phủ đồng ý bán các doanh nghiệp quốc doanh và cắt giảm thuế nhập khẩu. Cả ba lần lời đề nghị này đều bị từ chối.
Nhưng từ năm 2000, sự thay đổi ngày càng nhanh và sự cân bằng chính trị dần biến mất. Do liên tục bị áp lực từ các tổ chức quốc tế và nhà đầu tư nước ngoài, bây giờ Việt Nam đã đồng ý bán cổ phần doanh nghiệp nhà nước của họ. Họ cũng ký các hiệp định thương mại với Mỹ và đỉnh cao là vào năm 2006 khi họ được làm thành viên của Tổ chức Thương Mại Thế Giới WTO, đồng nghĩa với việc được nhận thêm nhiều viện trợ nước ngoài nữa. Ba thập kỷ sau khi người cộng sản chiến thắng cuộc chiến, bây giờ quốc gia này đã trở thành một mảnh ghép trong nền kinh tế tư bản toàn cầu. Phương Tây một lần nữa lại chiến thắng.
Trên vỉa hè ở Sài Gòn, Bà Bán Cà Phê chậm rãi theo dõi những chuyển biến của xã hội hiện ra ngay trước mắt, nhưng bà chẳng thấy cuộc đời mình thay đổi. "Tôi vẫn chỉ kiếm được từng ấy, vẫn sống trong căn phòng ấy," bà nói. "Hàng hóa trong các cửa hàng thì phong phú hơn, nhưng giá cả cứ tăng. Đất nước đã thay đổi, nhưng không phải cho những người như tôi. Những ai có mối quan hệ thì trở nên giàu hơn." Trong suốt những năm qua bà vẫn chỉ bán đúng một loại cà phê đến từ Việt Nam, cà phê Trung Nguyên. Trong khi bà vẫn nghèo, người đàn ông sở hữu công ty ấy thì theo con sóng tư bản vươn lên và tài sản của ông có giá trị ước tính là 100 triệu đô la.

Ở văn phòng phía bên kia thành phố, anh Nguyễn Công Khê đang ngồi làm việc. Suốt nhiều năm qua, anh làm biên tập cho báo Thanh Niên, tờ báo có văn phòng ở bên trong tòa nhà sát chỗ Bà Bán Cà Phê. Trong lúc làm biên tập, Khê khiến nhiều người có quyền lực tức giận bởi anh đã vén bức màn mối liên kết làm ăn giữa các băng đảng Sài Gòn với những người có chức có quyền, rồi anh còn đăng bài về một sự việc tai tiếng lớn, câu chuyện tai tiếng đó ám chỉ những gia đình rất có quyền lực đã biển thủ công quỹ. Đó là hành động rất nguy hiểm. Việt Nam có một hệ thống kiểm soát báo chí đồ sộ, tất cả chủ biên tập báo đều phải đi họp hằng tuần, thứ Ba ở Hà Nội và thứ Năm ở Sài Gòn, để được phổ biến rằng họ được phép đăng tin gì và không được đăng gì. Do những bài báo vi phạm của mình, Khê bị sa thải vào năm 2008.
Vào tháng 11 năm ngoái, Khê lại liều lĩnh khi thông qua tờ Thời báo New York kêu gọi chính phủ cho phép tự do báo chí. Ngồi trong văn phòng nơi anh quản lý một website, anh kể chi tiết hơn. Anh nhấn mạnh với tôi rằng tên anh phải được đăng rõ ra, anh nói thẳng điều mà người khác không dám nói: đó là lãnh đạo của Đảng Cộng Sản đã trở thành kẻ phản bội với chính những lý tưởng họ đặt ra.
"Lúc ban đầu, những người làm cách mạng tạo ra một chính phủ với ước muốn rất tốt là phát triển đất nước và đưa quốc gia này đến sự thịnh vượng bằng con đường công bằng, nhưng mọi thứ đã đi sai ở một thời điểm nào đó. Những người tham gia làm cách mạng thề rằng họ sẽ minh bạch - nhưng cuối cùng họ đã phản bội lại lời thề và lý tưởng."
Khê cũng từng là một phần của cuộc cách mạng. Khi còn là sinh viên trong những năm 1970, anh đã chọc giận người Mỹ và dành ba năm ngồi sau song sắt. Anh đã là đảng viên nhiều năm. Anh hiểu được tại sao chính quyền lại phải chọn chủ nghĩa tư bản để tái thiết nền kinh tế, nhưng anh đã hiểu được mặt đen tối của nó - sự tham nhũng và bất bình đẳng thu nhập.
Bạn có thể thấy rõ điều này trên hè phố. Mặc cho quá khứ tăm tối, Sài Gòn đã bùng nổ trở thành trung tâm của các hoạt động thương mại lớn. Nhưng cho dù thế, nó vẫn đang ở trong một quốc gia đang phát triển, và sự nghèo đói có thể thấy khắp nơi. Và rồi có một con phố tên là Đồng Khởi - một hòn đảo riêng của những người giàu nơi hộ có thể mua áo thun của Hermes với giá 500 đô la, đồng hồ Versace với giá 15000 đô la, hay là một bộ bàn ăn với bốn chiếc ghế được mạ vàng và nhồi lông ngỗng với giá là 65000 đô la. Và rồi ở góc đường là khách sạn Continental bán những bữa ăn có giá bằng tiền lương một tuần của người công nhân, một nhà hàng với cái tên như tát vào mặt (Thành phố) Hồ Chí Minh - Le Bourgeois.
Một góc đường Đồng Khởi, Thành phố Hồ Chí Minh
Khê ước tính rằng cứ mỗi 10 đô la cho vào các dự án công, thì khoảng 7 đô la là vào túi của ai đó. Thật vậy sao? Như vậy 70% ngân quỹ của Việt Nam bị ăn cắp hằng ngày? Đó thực sự là ăn cắp quy mô quá lớn. Chúng tôi nói chuyện với nhau qua một người phiên dịch. Anh ấy gật đầu, anh đưa một cánh tay lên để mô tả: "Từ khoảng 50 đến 70%."
Tổ Chức Minh Bạch quốc tế năm ngoái đưa ra báo cáo rằng Việt Nam được xem là một trong những quốc gia tham nhũng nhất thế giới, xếp dưới hơn 118 quốc gia khác và chỉ đạt được số điểm 31 trên 100 điểm trên thang điểm của họ. 
Không ai nói rằng tham nhũng là một hiện tượng mới. Có một truyền thống lâu đời ở Việt Nam về việc quan chức sẽ bán đặc ân và luôn ưu đãi cho người nhà. Nhưng các thống kê cho thấy vấn đề này đã lên đến một mức độ nghiêm trọng cao hơn dưới sự lãnh đạo của chính quyền mới. Người dân nói rằng vấn đề trở nghiêm nghiêm trọng bởi việc tư nhân hóa các tập đoàn nhà nước khổng lồ, nó tạo ra cơ hội cho các chính trị gia và lãnh đạo đưa họ vào các vị trí chủ chốt và rồi sau đó họ đưa người nhà vào. Nhà nghiên cứu người Anh, Martin Gansborough, một người đã dành nhiều năm ở Việt Nam để thực hiện công việc nghiên cứu về sự phát triển ở khu vực Đông Nam Á, viết rằng: "Thay vì được khích lệ bởi các lý tưởng cải cách, các quan chức chính phủ được thúc đẩy bởi các ham muốn suy đồi...Những thứ được gọi là "cải cách" mà chúng ta nghe hằng ngày thực chất chỉ là nỗ lực bởi các nhóm chính trị-doanh nghiệp khác nhau đang cố giành quyền kiểm soát các công cụ tài chính và tài nguyên."
Trong ba tháng gần đây, một trang web đã dám liều lĩnh đăng các tố cáo về hành vị của những người đầy quyền lực ở Việt Nam. Tên webstie là Chân Dung Quyền Lực và nó đưa ra các bằng chứng là tài liệu giấy, đoạn ghi âm và đoạn ghi hình. Những thông tin trên đó chưa bao giờ được kiểm chứng nhưng những nhà quan sát đoán rằng website này được chống lưng bởi một nhóm chính trị gia quyền lực đang cố gắng tiết lộ thông tin nội bộ để làm suy yếu đối thủ. Chủ nhân website này tuyên bố cho người ngoài thấy được những bí mật trong thế giới ngầm của lũ trộm cắp.
Trang web này tấn công mạnh mẽ cá nhân một lãnh đạo cấp cao, tuyên bố rằng một lãnh đạo địa phương đã phải đưa một vali chứa 1 triệu đô la tiền mặt đến nhà lãnh đạo này, để đổi lại lãnh đạo này sẽ đồng ý không thu thuế 150 triệu đô la từ một công ty bất động sản đang tham gia vào một dự án "phá triển khổng lồ". Website tiếp tục đưa ra cáo buộc về hai lãnh đạo chính trị lớn, tuyên bố rằng một trong hai người này đã chặn việc bắt giữ một lãnh đạo tham nhũng và đang được hưởng một món tiền khổng lồ, còn người thứ hai thì biển thú 1 tỷ đô la từ một công ty quốc doanh để gửi về tài khoản ngân hàng của chị ông ấy, người mà đang đứng sau 20 công ty ma khác nhau. Nó cũng cáo buộc một lãnh đạo quân đội lớn đang thông qua công ty của con trai mình để bán đất quân đội lấy tiền. Trong trường hợp này, website đưa ra lá thư từ một nhân viên ngân hàng, trong thư ghi rằng anh ta đang nằm trong một mạng lưới "tham nhũng quy mô vô cùng lớn", với nhiều tài khoản ngân hàng trị giá lên đến hàng triệu đô la.
Suốt ngày này qua ngày khác, chính quyền thừa nhận có sự tham nhũng và cố gắng tiêu diệt tham nhũng. Trong một phiên xử lớn vào cuối năm ngoái, bốn lãnh đạo lớn của một tập đoàn quốc doanh đã bị tuyên án tử hình vì tội đưa hối lộ và lừa đảo, hai người khác bị án tù chung thân. Khê không tin rằng những phiên xử này đang đi sâu vào việc giải quyết cốt lõi vấn đề. Anh nhún vai: "Chúng tôi đã đánh đổi hàng triệu mạng sống để mong có sự độc lập và công bằng. Khi tôi ở trong tù tôi tưởng tượng rằng đất nước sẽ sạch bóng tham nhũng sau chiến tranh, nhưng điều đó đã không xảy ra. Sự phát triển của đất nước phải được tiếp tục, vì thế chúng ta không thể cấm cản những người kiếm tiền hợp pháp. Nhưng chúng ta không được cho phép những kẻ kiếm tiền gian dối tiếp tục kiếm tiền gian dối và khiến người nghèo cứ mãi nghèo thêm."
Và nhận định của anh ấy đi thẳng vào cốt lõi của vấn đề. Trước đây đất nước là một điểm sáng cho việc phân bố của cải đồng đều, bây giờ Việt Nam không còn quan tâm đến người nghèo như trước nữa. Theo một báo cáo từ năm 2012 của Ngân hàng Thế Giới thì "sự bất bình đẳng thu nhập đang trở lại." Báo cáo cho thấy từ năm 2004 đến năm 2010, thu nhập của nhóm 10% người nghèo nhất giảm đi một phần năm, còn nhóm 5% giàu nhất thì tăng 25%.
Khu vực có khoảng cách giàu nghèo lớn nhất là vùng nông thôn. Hàng triệu người nông dân đã bị mất ruộng lúa để người ta xây nhà máy hoặc làm đường. Vào đầu những năm 1990, hầu hết người dân vùng nông thôn có ruộng đất của riêng mình (91.8%). Đến năm 2010, khoảng một phần tư trong số họ đã mất hết đất đai (22.5%). Dòng người nghèo để về thành thị như thác lũ, ở đó họ gặp phải hàng trăm ngàn người công nhân thất nghiệp sau khi các chủ tư nhân mới của các công ty nhà nước cũ sa thải họ. Làn sóng đàn ông, phụ nữ vô sản này cuộn lại tạo thành "nhóm kinh tế không chính thức" (informal sector) - họ giấu mình trong những xưởng làm việc nhỏ ở các hộ gia đình hay là bán hàng rong trên vỉa hè - hoặc là tràn vào làm việc trong các nhà máy ở các khu công nghiệp hay các cửa khẩu.
Những người trong nhóm kinh tế không chính thức này không được hưởng bất cứ sự bảo vệ nào hết. Ở trong các khu công nghiệp, sự bảo vệ còn yếu hơn nữa. Giáo sư Angie Ngọc Trần là một người chuyên nghiên cứu về thị trường lao động ở Việt Nam. Trong quyển sách của cô ấy tựa đề "Ties That Bind" (tạm dịch: Những Mối Gắn Kết), cô giải thích luật lao động của Việt Nam trước đây từng rất tiến bộ, bây giờ đã bị đi lùi dưới sự vận động hành lang của các nhóm lợi ích như Phòng Thương mại Hoa Kỳ (US Chamber of Commerce). Công đoàn nhà nước đã bị làm suy yếu và chưa bao giờ tổ chức đình công bảo vệ lợi ích công nhân. Trần kết luận: "Với việc dòng vốn chảy mạnh vào Việt Nam thông qua đầu tư nước ngoài và tư nhân hóa doanh nghiệp nhà nước, chính phủ ngày càng không còn là một chính phủ đại diện cho dân chúng nữa. Nhiều lúc, nhiều cơ quan và tổ chức nhà nước là đồng minh của các nhà tư bản."
Việt Nam đang ngày càng tham gia sâu vào hệ thống mạng lưới kinh tế tư bản toàn cầu. Hàn Quốc hiện giờ là một trong những đối tác kinh tế lớn nhất của đất nước.
Mỗi người công nhân đều được đảm bảo một mức lương tối thiểu. Ban đầu vào năm 1990, mức lương này được đặt ở mức bằng với "mức lương đủ sống" - tức nó đủ để áp ứng nhu cầu cơ bản của cuộc sống. Nhưng sau nhiều năm, do lo sợ dòng vốn bị đóng băng, chính phủ đã đồng ý cắt giảm mức lương tối thiểu, khiến nó không tăng và bị vượt mặt bởi lạm phát, và kết quả là vào tháng 4 năm 2013, chính đại diện công đoàn của chính phủ đã phản đối và nói rằng lương bây giờ chỉ đủ chi trả 50% chi phí sống cơ bản. Người đại diện nói rằng phần lớn người công nhân ở thành phố "vô cùng nghèo và suy yếu về mặt thể chất...Họ phải thuê những căn nhà trọ nhỏ chật hẹp và phải cắt giảm chi tiêu cuộc sống xuống mức tối thiểu...họ phải chịu đựng suy dinh dưỡng và các rủi ro sức khỏe khác."
Trong khi đó, y tế và giáo dục không còn miễn phí nữa. Ngân hàng Thế Giới nhận xét rằng "thu nhập ngày càng đóng vai trò quyết định trong việc tiếp cận được với các dịch vụ cơ bản", và chính phủ đang ngày càng xây nhiều bệnh viện cho người khá giả hơn là nâng cấp các dịch vụ y tế địa phương cho người nghèo.
Việt Nam tất nhiên không phải là một quốc gia thất bại. Sự hồi phục của quốc gia này gần như là một điều kì diệu, đặc biệt trong việc cắt giảm số người nghèo trong khi ở một số quốc gia phát triển khác như Anh Quốc, số người nghèo đang tăng lên. Nhưng quốc gia này đang phải đối diện với một thực tế đó là nó thừa hưởng những thứ tồi tệ nhất từ cả hai hệ thống: một nền chính trị chuyên chế xã hội chủ nghĩa và một nền kinh tế tư bản hoang dại, hai thứ này gộp lại với nhau làm cạn kiệt tiền bạc của người dân và khước từ họ những quyền công dân cơ bản trong khi làm đầy túi một nhóm nhỏ giàu có núp dưới danh nghĩa cách mạng. Và đó, đó là sự lừa dối lớn nhất. Chiến thắng trong chiến tranh, bại trận lúc hòa bình, những lời tuyên bố về việc xây dựng quốc gia xã hội của nghĩa bởi lãnh đạo Việt Nam hoàn toàn là sự tuyên truyền trống rỗng. Một người cựu binh du kích từng sẵn sàng hi sinh thân mình cho đất nước nói rằng: "Họ đều là tư bản đỏ."
Bài gốc:
Bài viết cùng tác giả:
Các bài đọc quan về chiến tranh Việt Nam và xã hội: