Máy Tính Dưới Góc Nhìn Của Những Viên Bi Kì 2: Xác Suất
Bài viết kì trước: Máy Tính Dưới Góc Nhìn Của Những Viên Bi Kì 1: Cổ Điển Bài viết gửi bởi Miku Nakano trong mục Khoa học - Công...
Bài viết kì trước:
HỆ THỐNG XÁC ĐỊNH XÁC SUẤT
Trong cơ học lượng tử, luôn có sự bất định (không thể biết chính xác) về trạng thái vật lý của một đối tượng. Đó là các trạng thái luôn thay đổi theo quy luật xác suất. Để nắm bắt câu chuyện xác suất này, thay vì xét một loạt các viên bi như ví dụ trước, chúng ta sẽ chỉ nói chuyện với chỉ một viên bi.
Giả sử chúng ta đang có một viên bi và 3 vị trí cố định, nhưng không biết viên bi chính xác sẽ nằm ở vị trí nào tại thời điểm xác định t. Để dễ dàng, thông tin về trạng thái của viên bi sẽ là xác suất của viên bi ở trên mỗi vị trí (đỉnh). Một trạng thái cơ bản ví dụ như X = [1/5, 3/10, 1/2]. Tương ứng là sẽ có xác suất 1/5 viên bi nằm trên đỉnh 0, 1/3 nằm trên đỉnh 1 và một nửa trên đỉnh 2. Bởi vì viên bi phải ở đâu đó trên đồ thị, nên tổng của tất cả các xác suất là 1 (1/5 + 3/10 + 1/2 = 1) và chúng ta không thể biết chính xác viên bi luôn nằm ở đâu.
Cách mà viên bi di chuyển không đơn giản so với hệ thống trước. Thay vì chỉ có một vector đi ra mỗi đỉnh, giờ đây sẽ có nhiều vector hơn với trọng số là số thực giữa 0 và 1. Những trọng số này mô tả xác suất viên bi của chúng ta di chuyển như thế nào, hay đích đến sẽ có thể là đâu.
Đồ thị trong hệ thống xác suất luôn có trọng số đáp ứng hai điều kiện sau:
a) Tổng tất cả các trọng số của vector đi vào một đỉnh là 1.
b) Tổng tất cả các trọng số của vector đi ra một đỉnh cũng là 1.
Điều kiện này bắt buộc viên bi phải đi và đến từ đâu đó (có thể có vòng) chứ không bao giờ bất động.
Ma trận kề của đồ thị này là:
Chúng ta hãy xem trạng thái của viên bi thay đổi như thế nào. Giả sử chúng ta có một trạng thái X = [1/5, 3/10, 1/2] và đồ thị M.
Với cách giải thích này, chúng ta sẽ tính toán cách M áp dụng lên X:
Nếu vị trí của viên bi đang là
1/6 trên đỉnh 0,
1/6 trên đỉnh 1, và
2/3 trên đỉnh 2, thì
sau đó, vị trí của viên bi là
21/36 trên đỉnh 0, và
9/36 trên đỉnh 1, và
6/36 trên đỉnh 2.
Nếu chúng ta có X thể hiện xác suất vị trí của viên bi và M thể hiện cách viên bi di chuyển xung quanh, thì Y sẽ là thể hiện xác suất vị trí của viên bi sau đó. Nếu X là xác suất của viên bi tại thời điểm t, thì MX = Y là xác suất của viên bi tại thời điểm t + 1.
Ngoài ra, chúng ta có thể nhân vectơ không chỉ ở bên phải của một ma trận, mà còn ở bên trái (một vector hàng cũng có thể xem như là một trạng thái của một hệ thống). Lấy một vector hàng có tổng cột là 1 (W = [1/3, 0, 2/3]). Nhân nó ở bên trái của M. Sau đó chúng ta có:
Ta có chuyển vị của M là:
Một vài phép tính khác với hệ thống này, giả dụ như nhân ma trận M với chính nó, ta được:
ta có thể đi từ đỉnh j đến đỉnh 0 và đi đến đỉnh i hoặc
ta có thể đi từ đỉnh j đến đỉnh 1 và đi tới đỉnh i hoặc
.
.
.
ta có thể đi từ đỉnh j đến đỉnh n - 1 và đi đến đỉnh i. Chúng ta có thể biết M[i, j] ^ 2 là xác suất đi từ đỉnh i đến đỉnh j trong 2 operator.
Tổng quát, đối với một số nguyên dương tùy ý , chúng ta có M[i, j] ^ k là xác suất đi từ đỉnh i đến đỉnh j trong k operator và nếu M là ma trận ngẫu nhiên kép n x n và X là một vectơ cột n x 1 có tổng các phần tử là 1, thì X x M^k = Y biểu thị xác suất vị trí của viên bi sau k operator.
Ngoài ra, chúng ta cũng có thể nhân M với nhiều ma trận ngẫu nhiên kép khác cùng lúc. Cho M và N là hai ma trận ngẫu nhiên kép n x n tương ứng với các đồ thị n đỉnh có trọng số tương ứng là Gm và Gn. M x N sẽ tạo ra đồ thị n đỉnh mới có trọng số là:
Trước khi chuyển sang phần tiếp theo, có một ví dụ thú vị khác được gọi là xác suất kép.
Có hai khe hở trên tường. Người bắn tốt sẽ bắn lọt qua một trong hai khe. Có 50% khả năng viên đạn sẽ di chuyển qua khe trên cùng. Tương tự, có 50% cơ hội viên đạn sẽ di chuyển qua khe dưới cùng. Khi một viên đạn xuyên qua một khe, có ba bia ở bên phải của mỗi khe mà viên đạn có thể trúng với xác suất bằng nhau. Bia ở giữa có thể bị bắn theo một trong hai cách: từ khe trên xuống hoặc từ khe dưới lên.
Xác suất cho vị trí của viên đạn sau hai lần di chuyển sẽ là B x B.
Tóm tắt những gì ở phần này:
- Các vectơ đại diện cho các trạng thái của một hệ thống vật lý xác suất không xác định chính xác về trạng thái mà chỉ mang tính tương đối.
- Ma trận đại diện cho operator thể hiện sự bất định về cách hệ thống sẽ thay đổi theo thời gian. Ngoài ra, các phép tính trên ma trận cho biết thông tin từ trạng thái này sang trạng thái tiếp theo.
- Cách thức mô phỏng trạng thái bằng phép nhân ma trận giống như trong hệ thống xác định.
Tài liệu tham khảo: Quantum Computing for Computer Scientists (Noson S. Yanofsky, Mirco A Mannucci).
To be countinued ...
To be countinued ...
Khoa học - Công nghệ
/khoa-hoc-cong-nghe
Bài viết nổi bật khác
- Hot nhất
- Mới nhất