Nếu không tiện đọc bài viết, bạn có thể nghe bản audio tại đây:


Nhân tiện mấy ngày nay mọi người đề cập nhiều về vấn đề tự kỷ quá. Nên nay mình viết 1 bài để mọi người hiểu rõ hơn về vấn đề này.....

TỰ KỶ LÀ GÌ ?
Tự kỷ , còn được gọi là rối loạn phổ tự kỷ (ASD), là một tình trạng phức tạp bao gồm các vấn đề về giao tiếp và hành vi. Nó có thể liên quan đến một loạt các triệu chứng và kỹ năng. ASD có thể là một vấn đề nhỏ hoặc khuyết tật cần chăm sóc toàn thời gian trong một cơ sở đặc biệt.

Người mắc chứng tự kỷ gặp khó khăn khi giao tiếp. Họ gặp khó khăn trong việc hiểu những gì người khác nghĩ và cảm nhận. Điều này khiến họ khó thể hiện bản thân, bằng lời nói hoặc qua cử chỉ, nét mặt và xúc giác.
Những người mắc chứng tự kỷ có thể có vấn đề với việc học. Kỹ năng của họ có thể phát triển không đồng đều. Ví dụ, họ có thể gặp khó khăn trong giao tiếp nhưng lại giỏi về nghệ thuật, âm nhạc , toán học hoặc trí nhớ. Bởi vì điều này, họ có thể làm rất tốt trong các bài kiểm tra phân tích hoặc giải quyết vấn đề.
Ngày càng có nhiều trẻ em được chẩn đoán mắc chứng tự kỷ hơn bao giờ hết. Nhưng những con số mới nhất có thể cao hơn vì những thay đổi trong cách chẩn đoán, chứ không phải vì nhiều trẻ em bị rối loạn

Những điều lầm tưởng về tự kỷ phổ biến nhất:

1.Trẻ tự kỷ lầm lỳ không giao tiếp với ai

Đây là suy nghĩ phổ biến nhất, mà người ta vẫn thường đem ra "đùa cợt" với nhau trong cuộc sống. Sự thật là trẻ em mắc chứng tự kỷ không chơi và tương tác, giao tiếp với những đứa trẻ khác không phải vì chúng “không muốn”, mà vì chúng “không biết làm thế nào để chơi cùng”. Chúng chỉ hiểu trò chơi với mô hình cố định và các chuyển động lặp đi lặp lại. Những đứa trẻ khác phải mời đứa trẻ mắc chứng tự kỷ chơi cùng và hiểu thiếu sót của chúng, chứ không thể kỳ vọng vào sự thay đổi và tiếp thu từ ngày này qua ngày khác.

2.Tự kỷ là một bệnh lý

Tự kỷ là một "hội chứng",không phải là bệnh, không lây lan từ người này sang người khác. Tuy nhiên, hiện nay, vẫn có rất nhiều người gọi tự kỷ là bệnh. Cách hiểu này dẫn đến những sai lệch về quan niệm, cách điều trị cho trẻ tự kỷ. Nghiêm trọng hơn, do lầm tưởng tự kỷ là một bệnh nên việc xin giấy xác nhận khuyết tật và duyệt chính sách dành cho trẻ tự kỷ hiện nay gặp rất nhiều khó khăn.
Khi gọi tự kỷ là bệnh, mọi người sẽ ngầm hiểu rằng đã là bệnh thì sẽ có thuốc chữa và trẻ có thể bình phục hoàn toàn. Vì thế, nhiều bậc phụ huynh đã đưa con đi tìm thầy thuốc chạy chữa khắp nơi, cho con uống các loại “thuốc bổ quý hiếm” mà không quan tâm đến các phương pháp can thiệp hiệu quả đã được khoa học chứng minh. Điều này dẫn đến tình trạng tự kỷ ở trẻ ngày một nặng hơn.

3.Tự kỷ do Cha Mẹ không quan tâm con

Có nhiều bậc phụ huynh khi biết con mình mắc chứng tự kỷ đã vô cùng đau khổ. Họ thường có xu hướng đổ lỗi cho bản thân vì không biết cách chăm sóc, nuôi dưỡng, thiếu quan tâm đến con, dẫn đến việc con bị tự kỷ
Do vậy, quan niệm trẻ tự kỷ do cha mẹ ít quan tâm, gần gũi, không nói chuyện với trẻ là hoàn toàn sai lầm. Thực chất, đây chỉ là những yếu tố có thể làm cho tình trạng tự kỷ trở nên nặng hơn.

4.Trẻ tự kỷ có trí tuệ kém

Theo thống kê, có khoảng 70-80% trẻ em tự kỷ có chỉ số IQ dưới trung bình. Nhiều trẻ bị thiểu năng trí tuệ. Số còn lại có chỉ số IQ từ trung bình trở lên. Tuy nhiên, vẫn có những trẻ tự kỉ thiên tài (có khả năng nổi bật về một lĩnh vực nào đó) chiếm từ 1 đến 2%.
Điểm số IQ của trẻ em phổ tự kỷ có thể không phản ánh chính xác tiềm năng trí tuệ bẩm sinh của chúng.
Các bài kiểm tra IQ không khai thác khả năng nhận thức thực sự của nhiều trẻ em phổ tự kỷ , mà là cho biết thêm về những khó khăn trong giao tiếp và vận động của chúng.
Điều quan trọng cần nhớ là chỉ vì một người không thể nói chuyện không có nghĩa là họ không hiểu những gì đang diễn ra xung quanh họ, những gì họ đang nghe trong lớp hoặc đọc trong sách. Ngược lại, chỉ vì một người ngồi trong lớp và có thể lặp lại với bạn những gì đã nói, không có nghĩa là người đó đã tiếp thu và học nó
Nhà vật lý Isaac Newton (Anh), nhà vật lý Albert Einstein (Mỹ), nhà soạn nhạc Ludwig van Beethoven (Đức), nhà văn George Orwell (Anh), thiên tài âm nhạc Mozart (Áo), nhà văn Hans Christian Andersen (Đan Mạch) là những tài năng có một số biểu hiện của chứng tự kỉ.

5.Trẻ tự kỷ không thể giao tiếp

Khoảng từ 40 đến 50% trẻ em tự kỷ hầu như không hoặc không có ngôn ngữ; trường hợp này thường là thiểu năng trí tuệ nghiêm trọng. Tuy nhiên, nếu trẻ tự kỷ được phát hiện sớm và được trị liệu ngôn ngữ tập trung, thì có đến 3/4 trẻ tự kỷ sẽ nói được
Rất nhiều trẻ tự kỷ có giao tiếp mắt. Có thể là ít hơn hoặc khác so với những đứa trẻ bình thường, nhưng chúng có nhìn vào mắt những người đối diện, cười, và thể hiện rất nhiều những giao tiếp không lời khác.

6.Trẻ tự kỷ đều giống nhau

Một trẻ bị mắc rối loạn tự kỷ thường gặp khó khăn trong kỹ năng xã hội, giao tiếp, hành vi và sở thích bất thường. Có thể coi tự kỷ là một dạng khuyết tật về giao tiếp.
Theo Thạc sĩ Nguyễn Thị Nha Trang chuyên ngành giáo dục đặc biệt quản lý dự án Phát hiện sớm trẻ tự kỷ (Đại sứ quán Hoa Kỳ tài trợ), toàn bộ trẻ tự kỷ đều gặp ba vấn đề chính trên. Nhưng, các triệu chứng xuất hiện khác nhau với tính chất nghiêm trọng khác nhau ở từng đứa trẻ riêng biệt. Không có hai đứa trẻ tự kỷ nào biểu hiện giống hệt nhau.
Những biểu hiện của tự kỷ

• Thiếu hụt những kỹ năng tương tác xã hội là vấn đề cơ bản của tự kỷ như trẻ không biết chỉ tay, ít giao tiếp bằng mắt, kéo tay người khác khi cần, ít cử chỉ giao tiếp, không làm theo hướng dẫn, chơi một mình không chia sẻ, chỉ làm theo ý thích của mình, không khoe, không để ý đến thái độ và tình cảm của người khác... Một số trẻ chẳng biết lạ ai, đến nơi mới nào cũng không để ý đến sự đổi thay của môi trường, nhưng lại có những trẻ rất sợ người lạ sợ chỗ lạ. Trẻ thường gắn bó và để ý tới đồ vật nhiều hơn là để ý tới mọi người xung quanh.
• Bất thường về ngôn ngữ: chậm nói, hoặc đã nói được nhưng sau lại không nói, phát âm vô nghĩa. Dạy không nói theo. Nếu trẻ nói được thì lại nói nhại lời, nhại quảng cáo, chỉ nói khi đòi ăn, đòi đi... Ngôn ngữ thụ động, không biết đặt câu hỏi, hoặc hỏi lại nhiều lần một câu hỏi. Không biết đối đáp hội thoại, không biết kể chuyện lại những gì đã chứng kiến. Giọng nói khác thường như nói giọng lơ lớ, thiếu diễn cảm, nói nhanh, nói ríu lời, nói rất to... Trẻ không biết chơi giả vờ tưởng tượng mang tính xã hội, không biết trò chơi có luật. Chậm nói là lý do chủ yếu để các cha mẹ đưa con đi khám bệnh vì đó là dấu hiệu dễ nhận thấy nhất.
• Những bất thường về hành vi, thói quen và ý thích thu hẹp: hành vi định hình như đi kiễng gót, quay tròn người, ngắm nhìn tay, nhìn ngiêng, lắc lư người, nhảy chân sáo, chạy vòng quanh, nhảy lên... Những thói quen rập khuôn thường gặp là: đi về theo đúng một đường, ngồi đúng một chỗ, nằm đúng một vị trí, thích mặc đúng bộ quần áo đó, luôn làm một việc theo một trình tự...
• Những ý thích thu hẹp như: cách chơi đơn điệu kéo dài, cuốn hút nhiều giờ xem ti vi quảng cáo, băng hình, điện thoại, quay bánh xe, hay ngắm nhìn hoặc tay luôn cầm một thứ như bút, que, tăm, giấy, chai lọ, đồ chơi có mầu ưa thích hoặc có độ cứng mềm khác nhau... Nhiều trẻ ăn vạ khóc lăn ra nếu không vừa ý do trẻ không biết nói và do thiếu kiềm chế. Có khoảng trên 70% trẻ tự kỷ có biểu hiện tăng động, không phản ứng với nguy hiểm.
Trẻ bị cuốn hút nhiều giờ xem ti vi quảng cáo là biểu hiện của tự kỷ
Nhiều trẻ bị rối loạn cảm giác do thần kính quá nhạy cảm như: sợ khi nghe tiếng động to nên khóc thét hoặc bịt tai, che mắt hoặc chui vào góc do sợ ánh sáng, sợ một số mùi vị, thính tai với âm thanh quảng cáo nên chạy vào nhanh để nghe, sợ cắt tóc, sợ gội đầu, không thích ai sờ vào người, đi kiễng gót, ăn không nhai và kén ăn... Ngược lại trẻ kém nhạy cảm lại có những biểu hiện như: thích sờ đồ vật, thích được ôm giữ thật chặt, giảm cảm giác đau, quay tròn người, gõ hoặc ném các thứ tạo ra tiếng động, nhìn vật chuyển động hoặc phát sáng... Một số trẻ có khả năng đặc biệt như có một số khả năng và trí nhớ rất cao như nhớ số điện thoại, nhớ các loại xe ô tô, nhớ vị trí đồ vật hoặc nơi chốn, bấm trò chơi trên máy rất giỏi, thuộc lòng nhiều bài hát, đọc số chữ rất sớm, làm toán cộng nhẩm nhanh, bắt chước động tác nhanh... nên dễ nhầm tưởng là trẻ quá thông minh. Không phải chẩn đoán tự kỷ điển hình là cứ phải có đủ tất cả các dấu hiệu này, mà có thể chẩn đoán là tự kỷ khi trẻ có một số dấu hiệu xếp được đủ vào 3 lĩnh vưc trên. Cũng không phải là cứ thấy trẻ đi nhón gót hoặc cuốn hút say mê với tivi quảng cáo đã chẩn đoán là tự kỷ mà phải có các dấu hiệu khác cùng tồn tại trong 3 lĩnh vực trên.

Có 5 dấu hiệu chỉ báo nguy cơ của tự kỷ là:

• Khi 12 tháng trẻ không nói bập bẹ
• Khi 12 tháng trẻ vẫn chưa biết chỉ ngón tay hoặc không có những cử chỉ điệu bộ giao tiếp phù hợp
• 16 tháng chưa nói từ đơn
• Khi 24 tháng chưa nói được câu 2 từ hoặc nói chưa rõ
• Trẻ bị mất đi kỹ năng ngôn ngữ hoặc kỹ năng xã hội đã có ở bất kỳ lứa tuổi nào.
Diễn biến khi trẻ lớn lên thường đi học muộn, ít hòa nhập với bạn bè, khó khăn ngôn ngữ giao tiếp, không hiểu nghĩa bóng của từ ngữ, khó khăn về học tập nhất là những môn xã hội. Hành vi định hình hoặc ý thích thu hẹp có thể thay đổi từ thứ này sang thứ khác. Nhiều trẻ hung tính, tăng động và có một số lại thu mình. Hiện nay ở Việt nam đã có một số trẻ tự kỷ mức độ nhẹ - trung bình sau khi học ở các trung tâm đã ra học hòa nhập được ở các trường phổ thông. Những trẻ tự kỷ chức năng cao hoặc hội chứng Asperger vẫn đi học hòa nhập bình thường được. Những trẻ có ngôn ngữ giao tiếp và có trí tuệ sau này lớn lên có thể sống tự lập, có việc làm phù hợp với năng lực, tuy nhiên vẫn thường sống khép kín. Nhiều người tự kỷ nặng sống phụ thuộc vào gia đình. Có khoảng 50% trẻ tự kỷ thể điển hình có thể không nói được hoặc chỉ nói được rất ít ở tuổi trưởng thành..
Tiên lượng tốt nếu trẻ có trí tuệ cao, ngôn ngữ có chức năng, ít có những triệu chứng hành vi kỳ lạ và được can thiệp sớm. Khi lớn lên một số dấu hiệu tự kỷ có thể thay đổi, một số người có hành vi tự gây thương tích, ám ảnh, lo âu sợ hãi.
Hiện nay vẫn chưa có xét nghiệm sinh học đặc hiệu để chẩn đoán tự kỷ. Đi khám bác sĩ chuyên khoa trẻ được làm một số trắc nghiệm tâm lý để đánh giá phát triển tâm vận động cho trẻ dưới 6 tuổi và trí tuệ cho trẻ lớn hơn, trắc nghiệm về hành vi cảm xúc, thang sàng lọc tự kỷ M- CHAT, thang đo mức độ tự kỷ CARS.
Công cụ bảng đánh giá trẻ tự kỷ M – CHAT được thực hiện nhằm sàng lọc trẻ tự kỷ dưới 3 tuổi là một công cụ bao gồm 2 giai đoạn nhằm sàng lọc ý kiến của bạn để đánh giá nguy cơ Rối loạn phổ tự kỷ (Autism Spectrum Disorder – ASD).

Phân loại các loại hội chứng tự kỷ

Có 5 thể theo phân loại lâm sàng là
Tự kỷ điển hình (tự kỷ Kanner): bao gồm các dấu hiệu bất thường ở cả 3 lĩnh vực, khởi phát trước 3 tuổi.
Hội chứng Asperger (tự kỷ chức năng cao): kém tương tác xã hội, nói được nhưng giao tiếp bất thường, không chậm nhận thức, xuất hiện sau 3 tuổi.
Hội chứng Rett: trẻ gái bị mắc, sự thoái triển xảy ra khi trẻ 6 – 18 tháng, động tác định hình ở tay, vẹo cột sống, đầu nhỏ, chậm trí tuệ mức nặng.
Rối loạn phân rã tuổi ấu thơ: sự thoái lùi phát triển nặng xảy ra trước 10 tuổi.
Tự kỷ không điển hình: chỉ có bất thường một trong 3 lĩnh vực, là tự kỷ mức độ nhẹ.
Theo khả năng trí tuệ và phát triển ngôn ngữ lại chia ra
•Tự kỷ có trí thông minh cao và nói được
•Tự kỷ có trí thông minh cao nhưng không nói được
•Tự kỷ có trí tuệ thấp và nói được
•Tự kỷ có trí tuệ thấp và không nói được
Cần phân biệt tự kỷ với những vấn đề khác như chậm nói đơn thuần, câm điếc, chậm phát triển trí tuệ, rối loạn sự gắn bó, rối loạn tăng động giảm chú ý... Để phòng rối loạn tự kỷ, cha mẹ cần lưu ý đảm bảo thai sản an toàn cho người mẹ, hạn chế sinh con khi cao tuổi, tránh các yếu tố bất lợi của môi trường sống. Quan tâm tác động sớm tới trẻ trong chơi tương tác, vận động và phát triển giao tiếp.

Nguyên nhân gây tự kỷ ở trẻ em

Tổn thương não hoặc não bộ kém phát triển do:
− Đẻ non tháng dưới 37 tuần.
− Cân nặng khi sinh thấp dưới 2.500g.
− Ngạt hoặc thiếu ô xy não khi sinh.
− Chấn thương sọ não do can thiệp sản khoa.
− Vàng da nhân não sơ sinh.
− Chảy máu não-màng não sơ sinh.
− Nhiễm khuẩn thần kinh như viêm não, viêm màng não.
− Thiếu ôxy não do suy hô hấp nặng.
− Chấn thương sọ não.
− Nhiễm độc thuỷ ngân.
Yếu tố di truyền
− Bất thường về nhiễm sắc thể.
− Bệnh di truyền theo gen hoặc nhóm gen.
Yếu tố môi trường
− Môi trường sống ít có kích thích lên sự phát triển của trẻ trong 24 tháng đầu: chủ yếu cho trẻ xem vô tuyến truyền hình, quảng cáo, âm nhạc... thay cho sự quan tâm dạy dỗ của cha mẹ và gia đình. − Một số hoá chất, kim loại nặng có thể gây tổn thương não.
Hội chứng tự kỷ phổ biến gấp 4 lần ở bé trai so với bé gái. Nó có thể xảy ra ở mọi người thuộc mọi chủng tộc, sắc tộc hoặc nền tảng xã hội. Thu nhập gia đình, lối sống hoặc trình độ học vấn không ảnh hưởng đến nguy cơ tự kỷ của trẻ.
•Nếu một phụ nữ mang thai tiếp xúc với một số loại thuốc hoặc hóa chất, như rượu hoặc thuốc chống động kinh , con của cô ấy có nhiều khả năng bị tự kỷ. Các yếu tố nguy cơ khác bao gồm các điều kiện trao đổi chất của mẹ như bệnh tiểu đường và béo phì . Nghiên cứu cũng đã liên kết bệnh tự kỷ với phenylketon niệu không được điều trị (còn được gọi là PKU, một rối loạn chuyển hóa gây ra do không có enzyme) và rubella (sởi Đức).
•Không có bằng chứng cho thấy tiêm chủng gây ra hội chứng tự kỷ.
•Thai nhi tiếp xúc với thuốc valproic acid (Depakene) hoặc thalidomide (Thalomid)
Chẩn đoán rối loạn phổ tự kỷ (ASD) có thể khó khăn vì không có xét nghiệm y tế, như xét nghiệm máu, để chẩn đoán rối loạn. Các bác sĩ nhìn vào lịch sử phát triển và hành vi của trẻ để chẩn đoán.
ASD đôi khi có thể được phát hiện ở 18 tháng hoặc trẻ hơn. Đến 2 tuổi, chẩn đoán của một chuyên gia có kinh nghiệm có thể được coi là rất đáng tin cậy. Tuy nhiên, nhiều trẻ em không nhận được chẩn đoán cuối cùng cho đến khi nhiều tuổi hơn. Một số người không được chẩn đoán cho đến khi họ là thanh thiếu niên hoặc người trưởng thành. Sự chậm trễ này có nghĩa là trẻ em mắc ASD có thể không nhận được sự giúp đỡ sớm mà chúng cần.

Dấu hiệu ban đầu của ASD có thể bao gồm, nhưng không giới hạn ở

• Tránh giao tiếp bằng mắt,
• Ít quan tâm đến những đứa trẻ hoặc người chăm sóc khác,
• Hiển thị ngôn ngữ hạn chế (ví dụ: gặp khó khăn khi sử dụng từ để giao tiếp)
• Khó chịu bởi những thay đổi nhỏ trong thói quen
Theo dõi, sàng lọc, đánh giá và chẩn đoán trẻ mắc ASD càng sớm càng tốt là điều quan trọng để đảm bảo trẻ nhận được các dịch vụ và hỗ trợ cần thiết để đạt được tiềm năng đầy đủ của chúng . Có một số bước trong quy trình này.

Giám sát phát triển

• Giám sát phát triển quan sát cách con bạn lớn lên và thay đổi theo thời gian và liệu con bạn có đáp ứng các mốc phát triển điển hình trong chơi, học, nói, cư xử và di chuyển. Cha mẹ, ông bà, trường mầm non và những người chăm sóc khác có thể tham gia theo dõi phát triển. Bạn có thể sử dụng một danh sách kiểm tra ngắn gọn về các mốc quan trọng để xem con bạn đang phát triển như thế nào. Nếu bạn nhận thấy rằng con bạn không đạt được các mốc quan trọng, hãy nói chuyện với bác sĩ hoặc y tá về những lo lắng của bạn.
• Khi bạn đưa con đi khám, bác sĩ hoặc y tá của bạn cũng sẽ theo dõi sự phát triển. Bác sĩ hoặc y tá có thể hỏi bạn những câu hỏi về sự phát triển của con bạn hoặc sẽ nói chuyện và chơi với con bạn để xem bé có phát triển và đáp ứng các mốc quan trọng không. Một cột mốc bị bỏ lỡ có thể là một dấu hiệu của một vấn đề, vì vậy bác sĩ hoặc chuyên gia khác sẽ xem xét kỹ hơn bằng cách sử dụng một bài kiểm tra hoặc bài kiểm tra kỹ lưỡng hơn.
• Nhà trẻ cũng có thể là một nguồn thông tin có giá trị về cách con bạn phát triển

Sàng lọc phát triển

Sàng lọc phát triển sẽ xem xét kỹ hơn về cách con bạn đang phát triển. Con bạn sẽ có một bài kiểm tra ngắn, hoặc bạn sẽ hoàn thành một câu hỏi về con bạn. Các công cụ được sử dụng để sàng lọc phát triển và hành vi là các câu hỏi hoặc danh sách kiểm tra chính thức dựa trên nghiên cứu đặt câu hỏi về sự phát triển của trẻ, bao gồm ngôn ngữ, chuyển động, suy nghĩ, hành vi và cảm xúc. Sàng lọc phát triển có thể được thực hiện bởi bác sĩ hoặc y tá, mà còn bởi các chuyên gia khác trong lĩnh vực chăm sóc sức khỏe, cộng đồng hoặc trường học.
Học viện Nhi khoa Hoa Kỳ (AAP) khuyến nghị sàng lọc phát triển và hành vi cho tất cả trẻ em trong các lần khám trẻ thường xuyên ở các độ tuổi này:
• 9 tháng
• 18 tháng
• 30 tháng
Ngoài ra, AAP khuyến nghị tất cả trẻ em nên được kiểm tra cụ thể về ASD trong các lần khám bác sĩ chăm sóc sức khỏe trẻ em thường xuyên tại:
• 18 tháng
• 24 tháng
• Có thể cần sàng lọc bổ sung nếu trẻ có nguy cơ mắc ASD cao (ví dụ: có em gái, anh trai hoặc thành viên khác trong gia đình mắc ASD) hoặc nếu có các hành vi đôi khi liên quan đến ASD.
Nếu con bạn có nguy cơ cao mắc các vấn đề về phát triển do sinh non , nhẹ cân, rủi ro môi trường như phơi nhiễm chì hoặc các yếu tố khác, nhà cung cấp dịch vụ chăm sóc sức khỏe của bạn cũng có thể thảo luận về sàng lọc bổ sung. Nếu một đứa trẻ có một vấn đề sức khỏe kéo dài hoặc một tình trạng được chẩn đoán, đứa trẻ nên được theo dõi và sàng lọc phát triển trong tất cả các lĩnh vực phát triển, giống như những người không có nhu cầu chăm sóc sức khỏe đặc biệt.
Nếu nhà cung cấp dịch vụ chăm sóc sức khỏe của con bạn không kiểm tra định kỳ cho con bạn bằng xét nghiệm sàng lọc phát triển, bạn có thể yêu cầu thực hiện.

Đánh giá phát triển toàn diện

Một thử nghiệm ngắn bằng cách sử dụng một công cụ sàng lọc không cung cấp chẩn đoán, nhưng nó cho biết liệu một đứa trẻ đang đi đúng hướng phát triển hay nếu một chuyên gia nên xem xét kỹ hơn. Nếu công cụ sàng lọc xác định một lĩnh vực quan tâm, có thể cần đánh giá phát triển chính thức . Đánh giá chính thức này là một cái nhìn sâu hơn về sự phát triển của trẻ, thường được thực hiện bởi một chuyên gia được đào tạo, chẳng hạn như bác sĩ nhi khoa, nhà tâm lý học trẻ em, nhà nghiên cứu bệnh học về ngôn ngữ nói, nhà trị liệu nghề nghiệp hoặc chuyên gia khác. Chuyên gia có thể quan sát trẻ, cho trẻ làm bài kiểm tra có cấu trúc, hỏi cha mẹ hoặc người chăm sóc câu hỏi hoặc yêu cầu chúng điền vào bảng câu hỏi. Kết quả của đánh giá chính thức này xác định liệu một đứa trẻ cần điều trị đặc biệt hoặc dịch vụ can thiệp sớm hoặc cả hai.

Tự kỷ ảnh hưởng đến trẻ em như thế nào?

Trẻ tự kỷ có thể không đạt được các mốc phát triển giống như các bạn cùng tuổi, hoặc chúng có thể chứng tỏ mất các kỹ năng xã hội hoặc ngôn ngữ được phát triển trước đó.
Chẳng hạn, một đứa trẻ 2 tuổi không mắc chứng tự kỷ có thể thể hiện sự thích thú với những trò chơi đơn giản. Một đứa trẻ 4 tuổi không bị tự kỷ có thể thích tham gia các hoạt động với những đứa trẻ khác. Một đứa trẻ mắc chứng tự kỷ có thể gặp khó khăn khi tương tác với người khác hoặc không thích nó hoàn toàn.
Trẻ tự kỷ cũng có thể tham gia vào các hành vi lặp đi lặp lại, khó ngủ hoặc bắt buộc ăn các món không phải thực phẩm . Trẻ có thể thấy khó phát triển nếu không có môi trường có cấu trúc hoặc thói quen nhất quán.
Nếu con bạn bị tự kỷ, bạn có thể phải làm việc chặt chẽ với giáo viên của chúng để đảm bảo chúng thành công trong lớp học.

Tự kỷ ảnh hưởng đến người lớn như thế nào?

Các gia đình có người thân mắc ASD có thể lo lắng về cuộc sống của người tự kỷ trông như thế nào đối với người lớn.
Một số ít người trưởng thành mắc ASD có thể tiếp tục sống hoặc làm việc độc lập. Tuy nhiên, nhiều người lớn mắc ASD yêu cầu tiếp tục hỗ trợ hoặc can thiệp trong suốt cuộc đời của họ.
Giới thiệu các liệu pháp và các phương pháp điều trị khác sớm trong cuộc sống có thể giúp dẫn đến sự độc lập hơn và chất lượng cuộc sống tốt hơn.
Đôi khi, không được chẩn đoán cho đến tận cuối đời. Điều này một phần là do sự thiếu nhận thức trước đây của các học viên y tế.
Tìm kiếm sự giúp đỡ nếu bạn nghi ngờ mình mắc chứng tự kỷ trưởng thành . Vẫn chưa quá muộn để được chẩn đoán.

Tại sao nhận thức tự kỷ quan trọng?

Tháng tư là tháng tự kỷ thế giới . Nó cũng được coi là Tháng nhận thức về chứng tự kỷ quốc gia tại Hoa Kỳ. Tuy nhiên, nhiều người ủng hộ đã kêu gọi đúng đắn về nhu cầu tăng cường nhận thức về ASDs quanh năm, và không chỉ trong 30 ngày chọn lọc.
Nhận thức về tự kỷ cũng đòi hỏi sự đồng cảm và hiểu rằng ASD là khác nhau đối với mọi người.
Một số phương pháp điều trị và liệu pháp có thể áp dụng cho một số người nhưng không phải cho những người khác.

TÀI LIỆU THAM KHẢO:

1.https://www.cdc.gov/ncbddd/autism/facts.html
2.https://www.mayoclinic.org/diseases-conditions/autism-spectrum-disorder/symptoms-causes/syc-20352928
3.https://www.trungtamphuchoichucnang.com/uncategorized/tre-tu-ky.html
4.https://www.cdc.gov/ncbddd/autism/screening.html
5.https://www.vinmec.com/vi/tin-tuc/thong-tin-suc-khoe/roi-loan-tu-ky-o-tre/

Những bài viết nổi bật do mình viết:

+ Vấn đề về lạm dụng tình dục trẻ em nam. Xem để hiểu hơn :
+ Và một bài viết được đầu tư rất nhiều từ mình:

THANK YOU FOR READING !