So sánh giá trị Chỉ số CCHC năm 2017 với năm 2016 cho thấy, có 09 đơn vị tăng điểm số so với Chỉ số CCHC năm 2016, bao gồm: Bộ Thông tin và Truyền thông; Bộ Tư pháp; Bộ Công Thương; Bộ Ngoại giao; Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn; Bộ Nội vụ; Bộ Tài nguyên và Môi trường; Bộ Giáo dục và Đào tạo; Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội, trong đó, Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội có giá trị điểm số tăng cao nhất là 8.09% (từ 71.91% năm 2016 lên 80% năm 2017). Ngân hàng Nhà nước Việt Nam vẫn tiếp tục đứng vị trí thứ nhất tại Chỉ số CCHC năm 2017, tuy nhiên, giảm 0.32% điểm số so với năm 2016. Trong số các đơn vị có sự sụt giảm về điểm số sovới năm 2016, Bộ Kế hoạch và Đầu tư và Bộ Y tế giảm mạnh nhất, lần lượt là 7.98% và 7.29%.

P1: PAR Index là gì?

P2: PAR Index 2017

1.1. Các chỉ số về chính quyền

PAR Index là chỉ số cải cách hành chính, là công  cụ quan trọng để theo dõi, đánh giá hoạt động cải cách hành chính  (CCHC) được Bộ Nội vụ ban hành tại Quyết định số 1294/QĐ-BNV ngày  03/12/2012 về phê duyệt Đề án "Xác định chỉ số cải cách hành chính của  các Bộ, cơ quan ngang Bộ, Ủy ban nhân dân các tỉnh, thành phố trực thuộc  Trung ương" với mục tiêu: Xác định Chỉ số CCHC để theo dõi, đánh giá  một cách thực chất, khác quan, công bằng kết quả CCHC hàng năm của các  Bộ, cơ quan ngang Bộ, UBND các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương  trong quá trình triển khai thực hiện Chương trình tổng thể CCHC nhà nước  giai đoạn 2011-2020.
PAR Index gồm đánh giá bên trong của cơ quan (có thẩm định của Hội  đồng Thẩm định Trung ương) và đánh giá bên ngoài của người dân. Nội dung  của Chỉ số được xác định trên 8 lĩnh vực, gồm: Công tác chỉ đạo điều  hành CCHC;Xây dựng và tổ chức thực hiện văn bản QPPL; Cải cách thủ tục  hành chính; Cải cách tổ chức bộ máy hành chính nhà nước; Xây dựng và  nâng cao chất lượng đội ngũ CBCCVC; Đổi mới cơ chế tài chính đối với cơ  quan HC và đơn vị sự nghiệp công lập; Hiện đại hóa nền hành chính;  Thực hiện cơ chế một cửa, cơ chế một cửa liên thông. Tổng điểm của PAR  Index là 100 điểm với phương pháp đánh giá như sau: thông qua kết quả tự  chấm điểm của địa phương (đánh giá bên trong) với số điểm tối đa là  62/100 điểm và kết quả điều tra xã hội học (đánh giá bên ngoài) với số  điểm tối đa là 38/100 điểm.
Tìm hiểu về PCI và PAPI VÀ PAR INDEX 
Ông Trần Khởi Nghiệp ở Đồng Hới: Hỏi Khi  xem Ti vi hay đọc báo, tôi thường nghe, thấy nói đến chỉ số  PCI, PAPI, PAR INDEX. Tuy nhiên tôi không hiểu rõ những chỉ số này  biểu thị điều gì và có  ý nghĩa như thế nào?

Trả lời:

PCI là chỉ số năng lực cạnh tranh cấp tỉnh, là chỉ số đánh  giá và xếp hạng chính quyền cấp tỉnh về chất lượng điều hành kinh tế  và xây dựng môi trường kinh doanh thuận lợi cho việc phát triển doanh  nghiệp dân soanh. PCI được xem là một công cụ chính sách, hướng tới thay  đổi thực tiễn. Có tất cả 10 chỉ số thành phần  111 chỉ tiêu, với thang  điểm 100) nhằm đánh giá và xếp hạng các tỉnh về chất lượng điều hành cấp  tỉnh. Những chỉ số đó là: Gia nhập thị trường; Tiếp cận đất đai và sự  ổn định trong sử dụng đất; Tính minh bạch; Chi phí thời gian; Chi phí  không chính thức; Tính năng động của lãnh đạo tỉnh; Dịch vụ hỗ trợ doanh  nghiệp; Đào tạo lao động; Thiết chế pháp lý; Cải cách hành chính ( bổ  sung từ năm 2012). Một địa phương được coi là có chất lượng điều hành  tốt khi có: chi phí gia nhập thị trường thấp; tiếp cận đất đai dễ dàng  và sử dụng đất ổn định; môi trường kinh doanh minh bạch và thông tin  kinh doanh công khai; chi phí không chính thức thấp; thời gian thanh  tra, kiểm tra và thực hiện các quy định, thủ tục hành chính nhanh chóng;  môi trường cạnh tranh bình đẳng; lãnh đạo năng động, sáng tạo trong  giải quyết vấn đề cho doanh nghiệp; dịch vụ hỗ trợ doanh nghiệp phát  triển, chất lượng cao; chính sách đào tạo lao động tốt và  thủ tục giải  quyết tranh chấp công bằng, hiệu quả.

PAPI là chỉ số hiệu quả quản trị và hành chính công cấp tỉnh,là  công cụ theo dõi thực thi chính sách, phản ánh chân thực tiếng nói của  người dân về mức độ hiệu quả điều hành, quản lý nhà nước, thực thi chính  sách và cung ứng dịch vụ công của chính quyền các cấp. Chỉ số PAPI  hướng tới cải thiện hiệu quả phục vụ nhân dân của chính quyền địa phương  nhằm đáp ứng tốt hơn yêu cầu ngày càng cao của nhân dân. PAPI đo lường  trải nghiệm của người dân với việc thực thi chính sách, pháp luật, quy  định của các cấp chính quyền địa phương ở sáu nội dung chính:
- Tham gia của người dân ở cơ sở: Tập trung  tìm hiểu mức độ hiệu quả của  chính quyền địa phương trong việc huy  động sự tham gia của người dân ở cấp cơ sở, qua đó đánh giá các cơ chế  tạo điều kiện cho người dân tham gia vào các quy trình quản trị và hành  chính công. Các vấn đề chính được đề cập ở đây là hiểu biết của người  dân về cơ hội tham gia của mình, kinh nghiệm trong bầu trưởng thôn/tổ  trưởng dân phố và mức độ hài lòng với chất lượng bầu cử vị trí trưởng  thôn/tổ trưởng dân phố và huy động đóng góp tự nguyện của người dân cho  các dự án công trình công cộng của xã/phường.
- Công khai, minh bạch: Đánh giá mức độ  công khai, minh bạch trong cung cấp thông tin của chính quyền địa phương  tới người dân. Đặc biệt, trục nội dung này tập trung vào vấn đề nhận  thức của người dân từ kết quả cung cấp thông tin của chính quyền cũng  như mức độ công khai thông tin về các chính sách xã hội cho người nghèo,  về các quy định pháp luật ảnh hưởng đến đời sống hàng ngày của người  dân, về thu chi ngân sách cấp xã/phường và về quy hoạch, kế hoạch sử  dụng đất và khung giá đền bù đất bị thu hồi.
Trách nhiệm giải trình với người dân: Về  trách nhiệm giải trình với người dân tập trung đánh giá hiệu quả giải  trình của cán bộ chính quyền về các hoạt động tại địa phương với cấp cơ  sở. Nội dung này xem xét mức độ và hiệu quả tiếp xúc của người dân với  các cá nhân và cơ quan có thẩm quyền để giải quyết các vấn đề cá nhân,  gia đình, hàng xóm, hoặc liên quan tới chính quyền địa phương; về khiếu  nại, tố cáo của người dân; chính quyền địa phương chịu trách nhiệm trước  các chương trình và dự án triển khai ở cấp xã/phường (như Ban Thanh tra  nhân dân và Ban Giám sát đầu tư cộng đồng).
Kiểm soát tham nhũng: Đánh giá mức độ tham  nhũng, vai trò, trách nhiệm của người dân trong việc phát hiện, phản ánh  các hành vi tham nhũng. Nhận thức của người dân về quy định của pháp  luật về phòng chống tham nhũng và hiệu quả của những nỗ lực chống tham  nhũng của các cơ quan nhà nước.
Thủ tục hành chính công: Đánh giá một số  dịch vụ và thủ tục hành chính công được lựa chọn. Nội dung này xem xét  việc thực hiện và hiệu quả của việc cung ứng dịch vụ và xử lý thủ tục  hành chính của các cơ quan hành chính địa phương dựa trên trải nghiệm  thực tế của người dân khi đi làm các thủ tục hành chính và mức độ hài  lòng của người dân khi sử dụng dịch vụ công.
Cung ứng dịch vụ công: Đề cập tới các dịch  vụ công được coi là đóng vai trò then chốt trong việc cải thiện điều  kiện sống của người dân như y tế, giáo dục, nước sạch và tình hình an  ninh, trật tự ở địa bàn khu dân cư.

1.2. Par Index

Ngày 28/12/2016, Bộ trưởng Bộ  trưởng Bộ Nội vụ đã ký Quyết định số 4361/QĐ-BNV phê duyệt Đề  án Xác định Chỉ số cải cách hành chính của các bộ, cơ quan  ngang bộ, Ủy ban nhân dân các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung  ương (thay thế Quyết định số 1294/QĐ-BNV ngày 03 tháng 12 năm 2012 của  Bộ trưởng Bộ Nội vụ). Để thực hiện Quyết định số 4361/QĐ-BNV nói  trên, ngày 06/01/2017, Bộ Nội vụ cũng đã có Công văn số  41/BNV-CCHC hướng dẫn tự đánh giá, chấm điểm để xác định Chỉ  số cải cách hành chính cấp Bộ và ngày 29/12/2016 đã ban hành  Quyết định số 4373/QĐ-BNV phê duyệt Kế hoạch triển khai xác  định Chỉ số cải cách hành chính năm 2016.
Quyết định số 4361/QĐ-BNV ngày 28/12/2016 của Bộ Nội  vụ về Phê duyệt Đề án “Xác định Chỉ số cải cách hành chính của các bộ,  cơ quan ngang bộ, Uỷ ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương”
 Xem toàn văn Quyết định số 4361/QĐ-BNV: Tại đây
Bảng Phụ lục Chỉ số Cải cách hành chính cấp bộ: Tại đây
Bảng Phụ lục Chỉ số Cải cách hành chính cấp tỉnh: Tại đây (link trên)

Bộ tiêu chí xác định Chỉ số CCHC cấp bộ được cấu trúc thành 2 nhóm:

- Nhóm I: Đánh giá kết quả thực hiện cải cách hành chính của bộ, gồm 7  lĩnh vực, 32 tiêu chí và 56 tiêu chí thành phần, cụ thể là:
+ Công tác chỉ đạo, điều hành cải cách hành chính: 6 tiêu chí và 9 tiêu chí thành phần;
+ Xây dựng và tổ chức thực hiện thể chế thuộc phạm vi quản lý nhà nước của bộ: 5 tiêu chí và 11 tiêu chí thành phần;
+ Cải cách thủ tục hành chính: 6 tiêu chí và 10 tiêu chí thành phần;
+ Cải cách tổ chức bộ máy hành chính: 3 tiêu chí và 5 tiêu chí thành phần;
+ Xây dựng và nâng cao chất lượng đội ngũ công chức, viên chức: 7 tiêu chí và 8 tiêu chí thành phần;
+ Cải cách tài chính công: 2 tiêu chí và 2 tiêu chí thành phần;
+ Hiện đại hoá hành chính: 3 tiêu chí và 11 tiêu chí thành phần;
- Nhóm II: Đánh giá tác động của cải cách hành chính, gồm 28 tiêu chí,  được phân loại theo 6 nội dung tác động của cải cách hành chính, cụ thể  là:
+ Tác động đến thể chế, cơ chế chính sách thuộc phạm vi quản lý nhà nước của bộ: 6 tiêu chí;
+ Tác động đến chất lượng quy định thủ tục hành chính: 4 tiêu chí;
+ Tác động đến tổ chức bộ máy hành chính: 4 tiêu chí;
+ Tác động đến đội ngũ công chức của bộ: 6 tiêu chí;
+ Tác động đến quản lý tài chính công: 3 tiêu chí;
+ Tác động đến hiện đại hóa hành chính: 5 tiêu chí.
Tại Hội thảo, các Bộ đã cùng Vụ Cải cách hành chính – Bộ  Nội vụ trao đổi, thảo luận, tháo gỡ những khó khăn, vướng mắc  khi thực hiện chấm điểm theo Bộ Chỉ số cải cách hành chính  mới. Đồng thời, Bộ Nội vụ đã quán triệt và yêu cầu các bộ,  cơ quan ngang bộ gửi báo cáo tự chấm điểm về Bộ Nội vụ trước  ngày 10/02/2017 để Bộ tổng hợp, hoàn thiện, tổ chức thẩm  định và điều tra xã hội học, đặt mục tiêu công bố Chỉ số cải  cách hành chính năm 2016 vào quý II năm 2017./.

P2: Par index 2017


Hội nghị công bố Chỉ số cải cách hành chính năm 2017 và Chỉ số hài lòng về sự phục vụ hành chính năm 2017
Sáng ngày 02/5,  tại trụ sở Bộ, Ban Chỉ đạo cải cách hành chính của Chính phủ, Ủy ban  Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và Trung ương Hội Cựu chiến binh  Việt Nam phối hợp tổ chức Hội nghị công bố Chỉ số cải cách hành chính  năm 2017 của các Bộ, cơ quan ngang Bộ, UBND các tỉnh, thành phố trực  thuộc Trung ương (PAR INDEX) và Chỉ số hài lòng về sự phục vụ hành chính  năm 2017 (SIPAS).

Đến dự và chủ trì Hội nghị có đồng chí Trương Hòa Bình, Ủy viên Bộ  Chính trị, Phó Thủ tướng thường trực Chính phủ, Trưởng ban Ban Chỉ đạo  cải cách hành chính của Chính phủ; đồng chí Trần Thanh Mẫn, Ủy viên BCH  Trung ương Đảng, Chủ tịch Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam;  đồng chí Lê Vĩnh Tân, Ủy viên BCH Trung ương Đảng, Bộ trưởng Bộ Nội vụ,  Phó Trưởng ban thường trực Ban Chỉ đạo cải cách hành chính của Chính  phủ; Trung tướng Nguyễn Song Phi, Phó Chủ tịch Hội Cựu chiến binh Việt  Nam; đồng chí Nguyễn Trọng Thừa, Thứ trưởng Bộ Nội vụ, Phó Trưởng ban  Ban Chỉ đạo cải cách hành chính của Chính phủ.


Đoàn Chủ tịch điều hành Hội nghị

Tham  dự Hội nghị còn có các thành viên Ban Chỉ đạo cải cách hành chính của  Chính phủ; đại diện lãnh đạo các Bộ, Ban, ngành ở Trung ương; đại diện  lãnh đạo UBND và Sở Nội vụ các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương;  đại diện lãnh đạo các cơ quan liên quan…


Bộ trưởng Bộ Nội vụ Lê Vĩnh Tân phát biểu tại Hội nghị

Phát  biểu khai mạc Hội nghị, Bộ trưởng Lê Vĩnh Tân cho biết, năm 2017, công  tác cải cách hành chính (CCHC) đã được Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ,  các Bộ, ngành, địa phương quan tâm triển khai thực hiện, với nhiều giải  pháp đồng bộ, hiệu quả, tạo sự chuyển biến mạnh mẽ trong hoạt động của  bộ máy hành chính các cấp từ Trung ương tới cơ sở. Nền hành chính đã có  chuyển biến tích cực theo hướng nền hành chính phục vụ, chuyên nghiệp,  hiện đại, năng động, trách nhiệm, đáp ứng ngày càng tốt hơn yêu cầu của  người dân và xã hội và phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. Kết quả  cải cách hành chính đạt được toàn diện trên các lĩnh vực đã đóng góp  quan trọng vào thành tựu chung phát triển kinh tế - xã hội, hội nhập  quốc tế của đất nước trong giai đoạn vừa qua.

Bên cạnh đó, việc  triển khai đo lường sự hài lòng của người dân, tổ chức đối với sự phục  vụ của cơ quan hành chính nhà nước chính tại 63 tỉnh, thành phố trực  thuộc Trung ương chính là thước đo đánh giá hiệu quả hoạt động của các  cơ quan hành chính nhà nước. Thông qua đó, giúp cơ quan hành chính nhà  nước xây dựng, cung ứng các dịch vụ hành chính công có chất lượng, đồng  thời, có cơ sở điều chỉnh mục tiêu, nhiệm vụ cải cách hành chính phù  hợp, đáp ứng yêu cầu, mong đợi của người dân, xã hội và sự phát triển  của đất nước.


Vụ trưởng Vụ Cải cách hành chính Phạm Minh Hùng công bố kết quả PAR INDEX và SIPAS năm 2017

Theo  Báo cáo kết quả PAR INDEX năm 2017 của các Bộ, cơ quan ngang Bộ, UBND  các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương được Chánh Văn phòng Ban Chỉ  đạo cải cách hành chính của Chính phủ, Vụ trưởng Vụ Cải cách hành chính,  Bộ Nội vụ Phạm Minh Hùng công bố tại Hội nghị, kết quả như sau:

Kết quả PAR INDEX năm 2017 của các Bộ, cơ quan ngang Bộ tập trung vào 2 nhóm điểm:
Nhóm  thứ nhất, đạt kết quả Chỉ số CCHC trên 80%, bao gồm 12 Bộ: Ngân hàng  Nhà nước Việt Nam; Bộ Thông tin và Truyền thông; Bộ Tài chính; Bộ Tư  pháp; Bộ Công Thương; Bộ Ngoại giao; Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông  thôn; Bộ Khoa học và Công nghệ; Bộ Nội vụ; Bộ Tài nguyên và Môi trường;  Bộ Giáo dục và Đào tạo; Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội.

Nhóm  thứ hai, đạt kết quả Chỉ số CCHC từ trên 70% đến dưới 80%, gồm 7 Bộ: Bộ  Văn hóa, Thể thao và Du lịch; Bộ Giao thông vận tải; Thanh tra Chính  phủ; Bộ Xây dựng; Bộ Kế hoạch và Đầu tư; Bộ Y Tế và Ủy ban Dân tộc.

Giá  trị trung bình Chỉ số CCHC của 19 Bộ, cơ quan ngang Bộ đạt được  là 79.92%. Không có Bộ nào có kết quả Chỉ số CCHC dưới 70%. Có 12 Bộ có  Chỉ số CCHC năm 2017 trên mức giá trị trung bình đạt được của 19 Bộ.  Ngân hàng Nhà nước Việt Nam đạt Chỉ số CCHC năm 2017 cao nhất với kết  quả là 92.36%. Ủy ban Dân tộc có kết quả Chỉ số CCHC thấp nhất với giá  trị 72.13%. Khoảng cách giữa Bộ đạt Chỉ số CCHC năm 2017 cao  nhất (Ngân hàng Nhà nước Việt Nam) với Bộ có kết quả Chỉ số  CCHC năm 2017 thấp nhất (Ủy ban Dân tộc) là 20.23%.


Kết quả PAR INDEX năm 2017 của các Bộ, cơ quan ngang Bộ

Kết quả PAR INDEX năm 2017 của các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương:
Chỉ  số CCHC năm 2017 của các tỉnh, thành phố có giá trị trung bình đạt  77.72%, cao hơn so với giá trị trung bình năm 2016 là 3.08% (năm 2016  đạt 74,64%), trong đó, 32/63 tỉnh, thành phố có kết quả Chỉ số đạt trên  giá trị trung bình; 60/63 đơn vị đạt kết quả Chỉ số trên 70%. Đáng chú  ý, trong năm 2017, chỉ có 03 đơn vị đạt kết quả Chỉ số dưới 70%, con số  này so với năm 2016 là 15 đơn vị. Điều này cho thấy, kết quả triển khai  nhiệm vụ CCHC của các tỉnh, thành phố trong năm 2017 đã có những chuyển  biến tích cực và đồng đều hơn so với năm 2016.

Trong năm 2017,  tỉnh Quảng Ninh đã xuất sắc vượt lên vị trí dẫn đầu bảng xếp hạng Chỉ số  CCHC của năm 2017 với kết quả điểm đạt được là 89.45/100, cao hơn so  với đơn vị đứng ở vị trí thứ 2 là thành phố Hà Nội tới 3.99 điểm, tiếp  theo là tỉnh Đồng Nai, thành phố Đà Nẵng, thành phố Hải Phòng...

Trong  nhóm 5 địa phương đứng cuối bảng xếp hạng, tỉnh Quảng Ngãi là đơn vị có  Chỉ số CCHC 2017 thấp nhất, với kết quả đạt 59,69 điểm. Đây cũng là đơn  vị duy nhất trên bảng xếp hạng có kết quả đạt được dưới 60 điểm. Qua  đánh giá cũng cho thấy, Chỉ số thành phần về “Công tác chỉ đạo, điều  hành CCHC” xếp vị trí thứ 63/63 tỉnh, thành phố. Như vậy có thể thấy,  mức độ quan tâm của lãnh đạo tỉnh đối với công tác CCHC còn chưa đáp ứng  được yêu cầu đề ra. Bên cạnh đó, kết quả các chỉ số quan trọng như đánh  giá về xây dựng thể chế, thủ tục hành chính, ứng dụng công nghệ thông  tin của tỉnh Quảng Ngãi đều đứng ở vị trí thứ 62/63.


Kết quả PAR INDEX năm 2017 của các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương
Chỉ số hài lòng về dịch vụ hành chính công (Satisfaction Index of Public Administration Services - SIPAS)
Chỉ số hài lòng về sự phục vụ hành chính  (tên viết tắt tiếng Anh là SIPAS) là kết quả mang tính định lượng của  việc đo lường sự hài lòng của người dân, tổ chức đối với sự phục vụ của  cơ quan hành chính nhà nước. Chỉ số SIPAS là thước đo mang tính khách  quan, phản ánh trung thực kết quả đánh giá của người dân, tổ chức về sự  phục vụ của cơ quan hành chính nhà nước thông qua việc cung cấp các dịch  vụ hành chính công cụ thể.  Chỉ số SIPAS được đo lường thông qua điều tra xã hội học đối với người  dân, tổ chức đã giải quyết thủ tục hành chính (đã hoàn thành và nhận kết  quả) ở các dịch vụ hành chính công được lựa chọn khảo sát. Thông tin  điều tra xã hội học được thu thập trên các Phiếu hỏi, được phát tới  người dân, tổ chức, gồm khoảng trên 20 câu hỏi khảo sát trên 04 tiêu  chí: (1) Tiếp cận dịch vụ, (2) Thủ tục hành chính, (3) Sự phục vụ của  công chức và (4) Kết quả giải quyết công việc của cơ quan hành chính nhà  nước. Với mỗi tiêu chí, người dân, tổ chức đưa ra đánh giá về sự hài  lòng và đánh giá chung về sự hài lòng đối với toàn bộ dịch vụ theo thang  đánh giá 5 mức: (1) Rất không hài lòng, (2) Không hài lòng, (3) Bình  thường, (4) Hài lòng và (5) Rất hài lòng. Chỉ số SIPAS được tính toán  dựa trên tỷ lệ phần trăm số người dân, tổ chức có câu trả lời ở mức hài  lòng và rất hài long đối với câu hỏi hài lòng chung về toàn bộ dịch vụ.  Bên cạnh đó, Phương pháp đo lường này cung cấp các chỉ số thành phần  theo từng tiêu chí của dịch vụ, các chỉ số đánh giá chất lượng phục vụ  của cơ quan hành chính nhà nước theo từng yếu tố của dịch vụ, giúp cơ  quan quản lý phân tích, xác định cụ thể mức độ hài lòng của người dân,  tổ chức đối với dịch vụ được tiến hành khảo sát.

Báo cáo kết quả SIPAS 2017,  Vụ trưởng Vụ Cải cách hành chính, Bộ Nội vụ Phạm Minh Hùng cho biết,  SIPAS 2017 được xác định trên cơ sở khảo sát sự hài lòng cùa người dân,  tổ chức đối với việc cung ứng dịch vụ hành chính công tại 63 tỉnh, thành  phố trực thuộc Trung ương, ở cả 3 cấp hành chính tại địa phương, với  tổng số mẫu khảo sát là 33.900 người. SIPAS 2017 được thực hiện với 5  yếu tố cơ bản của quá trình cung ứng dịch vụ hành chính công gồm: Tiếp  cận dịch vụ hành chính công của các cơ quan hành chính nhà nước; Thủ tục  hành chính; Công chức trực tiếp giải quyết thủ tục hành chính; Kết quả  cung ứng dịch vụ hành chính công; Việc tiếp nhận, giải quyết, góp ý phản  ánh, kiến nghị.

Theo kết quả khảo sát, Chỉ số hài lòng về sự  phục vụ hành chính của tỉnh cao nhất là 95,75% (tỉnh Vĩnh Phúc), tỉnh  thấp nhất là 67,70% (tỉnh Kon Tum) và giá trị trung vị là 79,76%. Nửa số  tỉnh trong cả nước có Chỉ số hài lòng về sự phục vụ hành chính nằm  trong khoảng 79,76 - 95,75% và nửa số tỉnh có chỉ số nằm trong khoảng  67,70 - 79,76%. Hơn nửa số tỉnh trong cả nước có Chỉ số hài lòng về sự  phục vụ hành chính thấp hơn chỉ số trung bình của cả nước.


Kết quả SIPAS 2017 của các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương


Phát  biểu chỉ đạo Hội nghị, Phó Thủ tướng thường trực Chính phủ Trương Hòa  Bình biểu dương sự cố gắng, nỗ lực của Bộ Nội vụ và các cơ quan liên  quan trong việc triển khai xác định Chỉ số cải cách hành chính và Chỉ số  hài lòng về sự phục vụ hành chính năm 2017.


Phó Thủ tướng thường trực Chính phủ Trương Hòa Bình phát biểu tại Hội nghị

Tuy  nhiên, Phó Thủ tướng cũng chỉ ra những hạn chế còn tồn tại, đó là: Công  tác chỉ đạo, điều hành CCHC của một số Bộ, ngành, địa phương chưa được  quan tâm đúng mức. Vai trò trách nhiệm người đứng đầu của các cơ quan  trong CCHC chưa cao, chưa quyết liệt trong triển khai CCHC; Công tác xây  dựng, tổ chức thực hiện thể chế còn hạn chế, vẫn còn tình trạng chậm  ban hành văn bản quy định chi tiết, chất lượng các dự án, dự thảo văn  bản quy phạm pháp luật chưa cao; Còn tình trạng Bộ, ngành, địa phương  ban hành các quy định thủ tục hành chính trái thẩm quyền; công bố, công  khai thủ tục hành chính còn chậm, chưa đúng quy định…; Tổ chức bộ máy  còn cồng kềnh, tầng nấc; hiệu quả hoạt động chưa cao; Một số nơi còn bổ  nhiệm các chức danh lãnh đạo, quản lý khi chưa đủ điều kiện, tiêu chuẩn  theo quy định; việc hoàn thiện Đề án xác định vị trí việc làm đối với  viên chức trong các đơn vị sự nghiệp còn chậm; Ứng dụng công nghệ thông  tin chưa đạt kết quả theo yêu cầu…

Để nâng cao chất lượng, hiệu  quả CCHC, khắc phục những tồn tại, bất cập của nền hành chính, vì mục  tiêu xây dựng nền hành chính hiện đại, kiến tạo phát triển, phục vụ nhân  dân, trên cơ sở kết quả PAR INDEX và SIPAS năm 2017, Phó Thủ tướng đề  nghị các Bộ, ngành, địa phương tập trung thực hiện một số nhiệm vụ sau:

Một là,  các Bộ, cơ quan ngang Bộ, UBND các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung  ương cần sử dụng hiệu quả kết quả PAR INDEX, SIPAS trong chỉ đạo, điều  hành CCHC tại Bộ, ngành, địa phương, đề ra các giải pháp phù hợp để khắc  phục các tồn tại, hạn chế, nâng cao chất lượng cung ứng dịch vụ hành  chính công cho người dân, tổ chức. Chỉ đạo làm rõ nguyên nhân của hạn  chế, yếu kém cũng như trách nhiệm của từng cá nhân, tổ chức trong triển  khai từng nhiệm vụ CCHC; đồng thời, đề ra các biện pháp cụ thể để khắc  phục, bảo đảm nhiệm vụ CCHC được triển khai đúng tiến độ, kế hoạch đề  ra.

Hai là, tiếp tục đẩy mạnh cải cách thể chế, trọng tâm  là rà soát, hoàn thiện thể chế về quản lý công chức, viên chức; thể chế  liên quan đến doanh nghiệp, bảo đảm nguyên tắc không làm tăng thêm các  điều kiện làm hạn chế cơ hội đầu tư, kinh doanh của doanh nghiệp trong  quá trình xây dựng và hoàn thiện thể chế; khắc phục triệt để tình trạng  nợ đọng việc ban hành các văn bản quy định chi tiết thi hành luật, pháp  lệnh; nâng cao chất lượng xây dựng văn bản quy phạm pháp luật, bảo đảm  tính hợp pháp, đồng bộ, thống nhất, khả thi của hệ thống văn bản.

Ba là,  tập trung rà soát, đơn giản hóa thủ tục hành chính, nhất là trên các  lĩnh vực trọng tâm theo quy định tại Nghị quyết số 35/NQ-CP, Nghị quyết  số 01/NQ-CP năm 2018 và Nghị quyết số 19-2018/NQ-CP của Chính phủ; tăng  tính liên thông trong giải quyết thủ tục hành chính cho người dân, doanh  nghiệp.

Bốn là, các Bộ, ngành, địa phương thực hiện  nghiêm túc và có hiệu quả Nghị quyết số 18-NQ/TW ngày 25/10/2017 của Hội  nghị lần thứ 6 Ban Chấp hành Trung ương Khoá XII một số vấn đề về tiếp  tục đổi mới, sắp xếp tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị tinh gọn,  hoạt động hiệu lực, hiệu quả; Nghị quyết số 10/NQ-CP ngày 03/02/2018 của  Chính phủ ban hành Chương trình hành động của Chính phủ thực hiện Nghị  quyết số 18-NQ/TW. Tăng cường kỷ luật, kỷ cương hành chính trong quá  trình thực hiện nhiệm vụ, công vụ của đội ngũ cán bộ, công chức, viên  chức; tiếp tục triển khai có hiệu quả các chính sách về tinh giản biên  chế theo quy định tại Nghị quyết số 39-NQ/TW của Bộ Chính trị và Nghị  định số 108/2014/NĐ-CP của Chính phủ.

Năm là, quán triệt  đầy đủ tinh thần, nội dung của Nghị quyết số 19-NQ/TW ngày 25/10/2017  Hội nghị lần thứ 6 Ban Chấp hành Trung ương Khoá XII về tiếp tục đổi mới  hệ thống tổ chức và quản lý, nâng cao chất lượng và hiệu quả hoạt động  của các đơn vị sự nghiệp công lập. Trên cơ sở đó, thực hiện nghiêm túc,  có hiệu quả Nghị quyết số 08/NQ-CP ngày 24/01/2018 của Chính phủ ban  hành Chương trình hành động thực hiện Nghị quyết số 19-NQ/TW.

Sáu là,  tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra việc thực hiện nhiệm vụ CCHC  với nội dung trọng tâm là: Công tác tuyển dụng, bổ nhiệm và sử dụng cán  bộ, công chức, viên chức; tình hình chấp hành kỷ luật, kỷ cương hành  chính; tình hình tổ chức giải quyết thủ tục hành chính cho người dân,  doanh nghiệp.

Bảy là, các Bộ, ngành, địa phương hoàn thiện  việc ban hành Kiến trúc Chính phủ điện tử cấp Bộ, cấp tỉnh theo quy  định; đẩy mạnh việc xây dựng và sử dụng các phần mềm dùng chung, bảo đảm  tính tương thích, đồng bộ và thông suốt để nâng cao hiệu quả chỉ đạo,  điều hành của người đứng đầu cơ quan hành chính nhà nước các cấp trong  quá trình xử lý công việc; tăng tỷ lệ sử dụng văn bản điện tử trao đổi  giữa các cơ quan nhà nước; nâng cao hiệu quả cung cấp dịch vụ công trực  tuyến ở mức độ 3, 4.
Dịch vụ công trực tuyến là dịch vụ hành chính công và các dịch vụ khác của cơ quan nhà nước được cung cấp cho các tổ chức, cá nhân trên môi trường mạng.
a) Dịch vụ công trực tuyến mức độ 1: là dịch vụ bảo đảm cung cấp đầy đủ các thông tin về thủ tục hành chính và các văn bản có liên quan quy định về thủ tục hành chính đó.
b) Dịch vụ công trực tuyến mức độ 2: là dịch vụ công trực tuyến mức độ 1 và cho phép người sử dụng tải về các mẫu văn bản và khai báo để hoàn thiện hồ sơ theo yêu cầu. Hồ sơ sau khi hoàn thiện được gửi trực tiếp hoặc qua đường bưu điện đến cơ quan, tổ chức cung cấp dịch vụ.
c) Dịch vụ công trực tuyến mức độ 3: là dịch vụ công trực tuyến mức độ 2 và cho phép người sử dụng điền và gửi trực tuyến các mẫu văn bản đến cơ quan, tổ chức cung cấp dịch vụ. Các giao dịch trong quá trình xử lý hồ sơ và cung cấp dịch vụ được thực hiện trên môi trường mạng. Việc thanh toán lệ phí (nếu có) và nhận kết quả được thực hiện trực tiếp tại cơ quan, tổ chức cung cấp dịch vụ.
d) Dịch vụ công trực tuyến mức độ 4: là dịch vụ công trực tuyến mức độ 3 và cho phép người sử dụng thanh toán lệ phí (nếu có) được thực hiện trực tuyến. Việc trả kết quả có thể được thực hiện trực tuyến, gửi trực tiếp hoặc qua đường bưu điện đến người sử dụng.

Tám là, Bộ Nội vụ tiếp tục nghiên  cứu, hoàn thiện nội dung, phương pháp đo lường sự hài lòng của người  dân, tổ chức đối với sự phục vụ của cơ quan hành chính nhà nước; tiếp  tục nghiên cứu, hoàn thiện các tiêu chí đánh giá CCHC, bảo đảm đánh giá  chính xác, khách quan và công bằng kết quả triển khai CCHC tại các bộ,  các tỉnh. Trên cơ sở đó, tiếp tục phối hợp chặt chẽ với Ban Thường trực  Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và Trung ương Hội Cựu Chiến  binh Việt Nam và các cơ quan liên quan trong triển khai đánh giá kết quả  CCHC hàng năm và đo lường sự hài lòng của người dân, tổ chức đối với sự  phục vụ của cơ quan hành chính nhà nước bảo đảm chất lượng, hiệu quả./.


Quang cảnh Hội nghị

Tin, ảnh: Thanh Tuấn