Hơi khó hiểu nhưng kỳ thực trong một số trường hợp thì đúng như vậy đấy.
Dông dài một chút thì Uyên Linh, một ca sĩ từng nói đại khái muốn hát giỏi thì phải học hết, sau đó quên hết những gì mình đã học!. Tôi rất ấn tượng với câu nói đó, nghe nó giống kiểu một koan (công án) (tất nhiên câu này Uyên Linh cũng chỉ nhắc lại câu nói của một người khác).
Với truyện chưởng của Kim Dung, tôi cũng tìm thấy một tình tiết tương tự, khi Trương Vô Kỵ học tuyệt kỹ Thái cực kiếm trong cảnh thọ địch mà “lâm trận mới học võ”. Trả lời câu sư tổ hỏi: “con nhớ được bao nhiêu phần?”, Vô Kỵ lúc đầu đáp “con nhớ bẩy phần”, lát sau đáp “con nhớ ba phần”, và khi “con quên sạch rồi !” cũng là lúc sư tổ mừng rỡ vì võ công tâm pháp được truyền xong.
Vâng, dường như ở đây có một sự học hành và lĩnh hội vượt lên trên logic thông thường. Vậy điều gì vượt lên trên logic thông thường? Mô hình communication (giao tiếp) dưới đây có thể mang đến cho chúng ta câu trả lời.
mô hình giao tiếp mở rộng có tích hợp thực tại
mô hình giao tiếp mở rộng có tích hợp thực tại
(mô hình giao tiếp này sẽ được mô tả chi tiết hơn ở cuối bài)
Đầu tiên, trong quá trình học, Uyên Linh hay Vô Kỵ cũng như mọi người khác đều phải thực thi các bước:
3. Giải mã thông điệp,
4. Tái hiện thực tại cần học ở mức khái niệm và
5. Tổng hợp thực tại mới vào thực tại tương đối của bản thân.
Suy xét kỹ hơn các bước trên thì:
.Xét theo phân tầng ý thức, phi ý thức thì dễ thấy bước 3 hoàn toàn dựa vào tư duy ý thức, bước 4 chủ yếu dựa vào tư duy ý thức nhưng có một ít phi ý thức, còn bước 5 hoàn toàn dựa vào tư duy phi ý thức.
.Việc truyền tin và bước 3. giải mã thông điệp có thể chỉ diễn ra một lần, nhưng bước 4 và 5 có thể cần lặp lại nhiều hơn, đó là lúc đòi hỏi người học phải ôn bài và nhắc lại, làm theo nhiều lần. Thỉnh thoảng chúng ta quên và phải nhớ lại bài học, rồi nếu chúng ta nhớ hết, chúng ta coi rằng đã học xong. Điều này tương đương với bước 4 được phát triển thành thục: Người học có thể tự tái hiện lại điều được dậy ở mức khái niệm một cách đầy đủ.
Thực ra, đến đây (bước 4) ta và Uyên Linh hay Vô Kỵ vẫn giống nhau.
Cái khác biệt giữa ta và Uyên Linh hay Vô Kỵ, hai kẻ này học xong khi “quên hết” này thực chất nằm ở bước tiếp theo.
Với người thường, quá trình học hành được coi là kết thúc nếu hoàn thành bước 4., tức là toàn bộ thông tin được truyền tải có thể tái hiện lại được bằng tư duy ý thức. Nhưng với Uyên Linh và Vô Kỵ, họ đã tiến một bước sâu hơn, khi thực tại không những được tái hiện toàn bộ ở mức khái niệm mà còn được tổng hợp hoàn hảo vào thực tại tương đối của họ, tức là hoàn thành bước 5.
Nhờ hoàn thành bước 5., một bước vượt ra ngoài ý thức, họ dễ dàng truy xuất và sử dụng những kỹ năng mới tiếp nhận bằng một thứ tư duy có lẽ tương tự “hệ thần kinh thực vật”, ở đó mọi thứ “tự động diễn ra” cực kỳ nhanh chóng, trôi chẩy và không cần tới bất kỳ can thiệp nào của tư duy ý thức. So với thứ tư duy này thì tư duy ý thức chậm chạp và làm việc kiểu sequential (tuần tự) hơn nhiều. Có lẽ ai cũng công nhận rằng, với kiểu học “ngấm vào máu” như thế thì sự cần thiết phải tra lại sách vở, nhớ lại lời thầy dậy khi đang thực thi tác vụ là hầu như biến mất. Để thấy, cái quên của họ không phải kiểu “chữ thầy trả thầy”, mà là kiểu “hấp thụ hoàn hảo vào tiềm thức, do đó không còn phải dùng đến ý thức nữa”.
Nhìn rộng ra trong thực tế, ta thấy các bậc thầy trong lĩnh vực âm nhạc, văn thơ hay bất kỳ một lĩnh vực nào đó có lẽ đều ít nhiều đi theo con đường này. Mọi thứ họ thu nhận được, cuối cùng được hiểu và tái tạo trọn vẹn vào tầng tiềm thức, thậm chí tầng vô thức của họ, từ đó họ có khả năng tự do dậy lại cho người khác bằng “ngôn ngữ” của chính họ và sáng tạo ra các “khái niệm” mới từ nền tảng thực tại tương đối tuyệt đẹp của mình. Họ sở hữu một khả năng mà những kẻ vẫn còn loanh quanh với việc nghiên cứu/ tổ hợp mớ khái niệm bằng tư duy ý thức (loanh quanh ở bước 4.) không tài nào bắt chước được. Vì thế ta thấy với Beethoven điếc không phải là trở ngại, với Trịnh Công Sơn ở ca từ của ông luôn có một sự sáng tạo thần thánh. Để bắt kịp họ, người ta phải có khả năng huy động tư duy ở những tầng sâu hơn tầng ý thức, tôi nghĩ vậy.
— Disclaimer (Lưu ý) —-
Bài viết thể hiện quan điểm cá nhân, độc giả lưu ý khi đọc
———-
(Mô tả chi tiết về mô hình giao tiếp đề xuất)
Trải nhiều năm tháng làm việc với ngôn ngữ tự nhiên cũng như ngôn ngữ lập trình với các dự án thường xuyên phải communicate, ở đây tôi thử xem xét lại mô hình giao tiếp.
Để bắt đầu ta quay lại mô hình communication cổ điển trong sách giáo khoa như sau:
mô hình giao tiếp cổ điển
mô hình giao tiếp cổ điển
Ở đây, tôi sẽ thử phát triển mô hình nói trên bằng cách đưa vào một số yếu tố “ưa thích” của mình như: tư duy, não bộ, thực tại, ý thức và tiềm thức. Sau đó, tôi thử áp dụng mô hình này để quan sát kỹ hơn về việc học tập, ngoài ra để thuận tiện tôi sẽ thay Người gửi thành ông A và Người nhận thành ông B.
I. Mô hình giao tiếp đề xuất
Trong mô hình giáo khoa, người ta tập trung vào thông tin được truyền đi giữa ông A và ông B, còn trong mô hình đề xuất, tôi xuất phát từ thực tế là (cho dù có xẩy ra việc truyền tin hay không) ông A và ông B đã sống sẵn trong một biển thông tin. Vì thế, thực tại là yếu tố đầu tiên mà tôi thêm vào.
Cùng với đó, tôi cũng điều chỉnh định nghĩa mục đích của communication theo hướng khái quát hơn. Trong mô hình của tôi, communication có mục đích là tạo ra một thay đổi ở thực tại của ông B: có thể là
.nhằm làm cho ông B hiểu thêm về thực tại nào đó trong quá khứ,
.nhằm cho ông B thấy thực tại mà ông A mong muốn,
.nhằm giúp ông B thêm một số kỹ năng vào thực tại của ông B, v.v.
Từ phía ông A cũng vậy, communication ắt phải xuất phát từ một thực tại nào đó của ông A, có thể là thực tại quá khứ, thực tại cảm xúc, hoặc thực tại hình dung, hay thực tại mong muốn …. của ông A.
Communication vì thế xuất phát từ một phiên bản thực tại của ông A và nhắm đến một phiên bản thực tại của ông B.
Theo hướng này, mô hình communication có xét đến các thực tại trở nên đại loại như sau (để đơn giản tôi đã bỏ đi luồng feed back so với mô hình cổ điển)
mô hình giao tiếp mở rộng
mô hình giao tiếp mở rộng
II. Hai thực tại trong mô hình đề xuất
Trước khi dùng mô hình này để khảo sát communication trong học tập, tôi muốn làm rõ thêm về khái niệm thực tại được dùng ở đây cũng như một vài quan sát về thực tại.
Đầu tiên, thực tại tuyệt đối hay thực-tại-như-nó-là, thực tại rốt ráo tận cùng, là một thực tại mà con người luôn luôn và vẫn còn đang tiếp tục tìm kiếm. Thực tại tuyệt đối có 4 chiều hay 11 chiều, có tồn tại hay không vật chất nhỏ nhất, cấu tạo của ý thức là gì và làm thế nào vật chất tạo ra ý thức, thực sự chúng ta là ai hay tất thảy đều chỉ là pháp chân đế (paramattha dhamma) v.v… là những câu hỏi quan trọng (và hiện chưa có câu trả lời :) ) về thực tại tuyệt đối.
Còn thực tại tương đối thì dễ hiểu hơn, nó là thực tại được từng cá nhân cảm nhận, bao hàm cả mặt vật lý cũng như sinh học, cảm xúc …, chứa đựng cả các quá trình của ý thức hay quan niệm, tâm lý…. Thực tế với những cá nhân cụ thể khác nhau thực tại tương đối này có nhiều điểm chung về đại thể, nhưng đi sâu vào thì thiên sai vạn biệt. Chẳng hạn với Newton thì không thời gian tách biệt và tuyến tính, với Einstein thì không thời gian không tách rời, với Hawking mọi thứ trước BigBang là bất khả tri, với một bà cụ thì trái đất là phẳng và được đặt trên lưng những con rùa, với bạn thì cô gái ấy đẹp còn với tôi cô ấy là một người khó chịu :) v.v....
III. Quá trình giao tiếp với mô hình đề xuất
Và bây giờ, vì con người chưa sở hữu siêu năng lực cho phép communicate trực tiếp giữa tâm trí của người này và người kia, khi ông A muốn truyền đạt điều gì đó cho ông B thì:
1. ông A dùng ý thức để lấy một phần thực tại (quá khứ/ hình dung/ mong đợi/ biểu đạt …) của mình ra để tạo dựng nên những ngôn ngữ hay hình ảnh (mà ông B có thể hiểu được) để mô tả phần thực tại được lấy ra đó. Ở đây, công cụ mà ông A dùng là khái niệm hóa, vì bản thân từ ngữ hoặc âm thanh (được dùng để truyền tải) được dùng để mô tả thực tại chỉ là những cái trỏ đến thực tại, vì thế chúng là các khái niệm. Từ ngữ, âm thanh, hình ảnh là một sự mã hóa, một kiểu nén thông tin trong đó khối lượng lớn thông tin (được trỏ đến) được cô đọng lại thành một ít ký hiệu, biểu tượng hay nét vẽ.
2. Theo một phương cách được quy định (ví dụ như ngữ pháp …), thực tại được cô đọng thành từ ngữ/ hình ảnh và được đóng gói vào thông điệp,
3. sau đó được truyền đi dưới dạng tuần tự (text sequential hoặc 2D serial).,
4. đến lượt ông B, sau khi thu nhận được từ ngữ, âm thanh, hình ảnh đó, diễn giải chúng thành một dạng một hệ thống các khái niệm được hình dung trong đầu, sau đó
5. đầu óc của ông B sẽ tổng hợp hệ thống khái niệm mới thu nhận được vào thực tại tương đối sẵn có trong tâm trí ông B. Ở bước này của ông B ắt có một sự đối xứng với bước 1 của ông A: các khái niệm ở bước 4. được bung ngược ra để tạo nên một thực tại mới cho ông B.
.Note nhỏ về 2 thực tại
Theo tôi, việc tri nhận từ thực tại tuyệt đối ra thực tại tương đối trước tiên là nhờ các giác quan. Các giác quan nhận tín hiệu, xử lý sơ bộ và gửi lên não. Bộ não tổng hợp và đưa ra một “thực tại” trong tâm trí chúng ta. Nhưng đó chưa phải tất cả, thực tại được input từ các giác quan đó lại được tổng hợp với các kinh nghiệm từ những sự kiện trong quá khứ theo một cách thức nào đó, từ đó cho ra các cảm xúc và các đánh giá liên tục được cập nhật về thực tại (tương đối). Điều này khiến thực tại của em bé ví dụ vừa sinh ra và thực tại của một người lớn, hoặc một người sắp chết là hoàn toàn khác nhau và đôi khi phần đóng góp của các giác quan thực tế lại chiếm rất ít so với phần tham gia của kinh nghiệm, của hồi tưởng và các “khuôn mẫu” có sẵn trong não bộ.
Có thể nhận thấy trong những quá trình xây dựng thực tại tương đối, những quá trình nằm ngoài ý thức đóng vai trò chủ yếu. Tín hiệu từ tai, mắt, mũi, cơ thể được xử lý thế nào, tổng hợp ra sao, các kinh nghiệm và khuôn mẫu quá khứ được truy xuất thế nào đều là những lĩnh vực mà với một người, chúng tự động diễn ra. Một người chỉ biết chúng diễn ra nhờ suy đoán mà không thể “nhận thức” chúng diễn ra thế nào, không thể kiểm soát quá trình xử lý ấy, cũng không thể trả lời những câu hỏi: cái gì, ở đâu, vì sao v.v. cho những quá trình tương tác giữa giác quan và tâm trí. Khoa học cũng công nhận có rất nhiều điều về thực tại được hệ thần kinh thực vật ( thứ điều khiển hệ thần kinh, xương khớp, tuần hoàn… làm việc “tự động”, một hệ nằm ngoài ý thức) tạo ra. Người ta không thể chối bỏ việc hệ thần kinh này tham gia vào quá trình tạo nên thực tại tương đối ở mỗi người, cũng như không thể không công nhận bản thân hệ thần kinh này là một phần của thực tại.