Ban đầu vốn tôi định chỉ đăng thành một bài duy nhất, nhưng vì toàn văn dài đến hơn 60,000 từ; nên cuối cùng phải chia thành hai phần Thượng và Hạ. Phần Thượng sẽ gồm thâu những sự kiện từ kỷ Hồng Bàng cho đến hết cuộc nội chiến Nam - Bắc triều giữa nhà Lê và nhà Mạc.
Ngô vương Quyền, tranh dân gian Đông Hồ
Ngô vương Quyền, tranh dân gian Đông Hồ

Hùng Vương và An Dương Vương

Nói về giai đoạn sơ khai trong lịch sử Việt Nam, hẳn là ai cũng thuộc nằm lòng: Quốc tổ của Việt Nam là Lạc Long Quân và Âu Cơ. Từ dòng dõi của hai vị sinh ra Hùng Vương, cai trị nhà nước Văn Lang của người Lạc Việt. Người Lạc Việt cũng từng liên minh với người Âu Việt đánh bại quân Tần xâm lược. Đến cuối đời Hùng Vương thì mất nước vào tay Thục Phán. Thục Phán lên ngôi, dựng thành Cổ Loa, xưng là An Dương Vương, đổi tên nước thành Âu Lạc. An Dương Vương về sau mất nước vào tay Triệu Đà vốn là tướng cũ của nhà Tần, sau ly khai lập ra nước Nam Việt. Cũng từ sau khi Âu Lạc bị Triệu Đà thôn tính thì nước ta bắt đầu bước vào giai đoạn Bắc thuộc.
Nói ngắn gọn thì là như vậy, nhưng nếu tìm hiểu sâu hơn, chúng ta sẽ thấy rằng vấn đề tuyệt đối chẳng hề đơn giản. Ngay từ vấn đề có công nhận nước Nam Việt và nhà Triệu là một triều đại chính thống của Việt Nam hay không cũng đã có sự khác biệt giữa quan điểm thời xưa và thời nay. Giai đoạn về kỷ Hồng Bàng trước và suốt thời Hùng Vương cũng là một vấn đề cần nghiên cứu kỹ; và cả chuyện An Dương Vương ở ngôi bao nhiêu năm cũng là vấn đề không thống nhất giữa các ghi chép.
Trên thực tế, phải đến thời Hậu Lê, khi Ngô Sĩ Liên biên soạn bộ "Đại Việt sử ký toàn thư" thì kỷ Hồng Bàng, Hùng Vương và nhà Thục của An Dương Vương mới được chính thức đưa vào chính sử của triều đình. Vì bộ chính sử trước đó của triều đình là "Đại Việt sử ký" do Lê Văn Hưu biên soạn thời Trần chỉ chép lịch sử Đại Việt bắt đầu từ kỷ nhà Triệu của Triệu Đà mà thôi.
Theo "Đại Việt sử ký toàn thư" thì thời cổ đã có nước Xích Quỷ của các tộc người Bách Việt ở vùng Lĩnh Nam, trải dài đến miền Bắc của Việt Nam. Kinh Dương Vương là vua nước Xích Quỷ, con cháu họ Thần Nông. Kinh Dương Vương sinh ra Lạc Long Quân, Lạc Long Quân lấy con gái của Đế Lai là Âu Cơ, sinh ra trăm con trai (theo truyền thuyết là bọc trăm trứng). Sau đó có chuyện chia 50 người con theo cha về miền nam, 50 người con theo mẹ về núi; trong đó người con trưởng nối ngôi vua, xưng là Hùng Vương. Các đời Hùng Vương truyền nhau nối ngôi kéo dài 2622 năm thì mất nước vào tay Thục Phán.
Các nội dung về Kinh Dương Vương, Lạc Long Quân và Hùng Vương hầu như đều được Ngô Sĩ Liên lấy từ các tác phẩm mang tính truyền thuyết như "Lĩnh Nam chích quái" hay "Việt điện u linh tập", có sửa đổi ít nhiều để nghe thực tế hơn. Nguyên nhân Ngô Sĩ Liên làm vậy, chính là làm theo mong muốn của Lê Thánh tông là tạo một lịch sử dài lâu cho Đại Việt để sánh ngang với Trung Quốc. Ở thời điểm bộ "Đại Việt sử ký toàn thư" ra đời là năm 1479, Đại Việt ở thời Lê Thánh tông đã đạt đến đỉnh cao quyền lực. Thời điểm ấy, Đại Việt đích thị là nước có vị thế rất lớn trong khu vực. Lê Thánh tông là vị vua có hùng tâm tráng chí, muốn đưa vị thế của nước mình lên ngang hàng với nhà Minh của Trung Quốc. Việc soạn sách sử cũng là một hành động mang ý nghĩa như vậy.
Cụ thể hơn, sách sử Trung Quốc từng chép rằng vào đời Chu Thành vương - tức đầu thời Tây Chu, thế kỷ 11 TCN - có sứ giả của Việt Thường thị đi bằng ba con voi trắng đến cống chim trĩ cho thiên tử nhà Chu. Bộ "Việt sử lược" biên soạn khoảng cuối thời nhà Trần chép rằng vào thời Chu Trang vương - khoảng từ năm 692 TCN đến năm 682 TCN - thì có dị nhân dùng ảo thuật quy phục các bộ lạc ở vùng Giao Chỉ, tự xưng là Hùng Vương và lập nước Văn Lang. Những người cai trị Văn Lang truyền được 18 đời đều xưng là Hùng Vương, cuối cùng mất nước vào tay Thục Phán.
Lãnh thổ nước Văn Lang và đất của người Âu Việt (phỏng đoán)
Lãnh thổ nước Văn Lang và đất của người Âu Việt (phỏng đoán)
Như vậy, nếu xét các ghi chép ở các bộ sử của cả Trung Quốc và Việt Nam trước khi Toàn thư ra đời, thì nhà nước Văn Lang thực chất chỉ kéo dài khoảng 500 năm. Rõ ràng lịch sử như vậy quá thua thiệt so với Trung Quốc - một đất nước tự xưng có lịch sử bắt đầu từ tận thời Tam Hoàng, Ngũ Đế rồi đến Hạ, Thương, Chu mấy nghìn năm liên tục. Chính vì thế mà khi biên soạn "Đại Việt sử ký toàn thư", Ngô Sĩ Liên đã đẩy thời kỳ mở nước lên xa hơn, lấy Lạc Long Quân làm thủy tổ các tộc người Việt, lấy Hùng Vương làm những vị vua mở nước đầu tiên, tách biệt hẳn với Trung Quốc. Ngoài ra, Ngô Sĩ Liên cũng không ghi cụ thể có bao nhiêu đời Hùng Vương, vì ông biết nếu vẫn giữ nguyên con số 18 đời trong "Lĩnh Nam chích quái" thì sẽ rất vô lý khi thời kỳ này kéo dài đến 2622 năm. Quả thực là Ngô Sĩ Liên đã dụng tâm hết sức để kiến tạo một giai đoạn lịch sử cổ đại dài lâu cho Đại Việt, nêu lên tham vọng muốn sánh ngang với Trung Quốc của Lê Thánh tông.
Nhiều văn bản của Trung Quốc cũng ghi nhận sự tồn tại của Hùng Vương; tuy nhiên có khác biệt về tên gọi. Có sách ghi là "Hùng Vương", có sách ghi là "Lạc Vương". Lý do cho sự khác biệt này khả năng cao vì Hán tự của hai chữ "Hùng" 雄 và "Lạc" 雒 viết gần giống nhau nên có thể đã có sự nhầm lẫn khi ghi chép.
Tóm lại, chúng ta có thể tạm kết luận rằng thực tế đã tồn tại một dạng nhà nước sơ khai ở miền bắc Việt Nam, tạm gọi là Văn Lang theo sử Việt Nam. Hình thái nhà nước này cụ thể ra sao, chúng ta không được biết rõ; nhưng theo nhiều sử gia thì rất có thể Văn Lang mới chỉ tồn tại ở dạng một liên minh các bộ tộc và làng mạc, chưa phải một nhà nước tập quyền thật sự. Những người cai trị Văn Lang được gọi là Hùng Vương, hoặc Lạc Vương tùy theo ghi chép. Nhà nước này có lẽ kéo dài khoảng hơn 500 năm, truyền được 18 đời theo ghi chép của "Việt sử lược". Thế nhưng khi biên soạn "Đại Việt sử ký toàn thư", Ngô Sĩ Liên đã kéo dài thời kỳ các Hùng Vương lên đến 2622 năm, và bỏ đi số lượng các đời vua. Mục đích là kiến tạo một lịch sử dài lâu cho nước Việt, tỏ rõ ý chí không kém gì Trung Quốc.
Hầu như mọi ghi chép liên quan đến thời kỳ này của nước Việt đều thống nhất một điểm: đó là cuối thời Hùng Vương, nước Văn Lang bị mất vào tay Thục Phán, tức là An Dương Vương. Nhưng cụ thể thì An Dương Vương Thục Phán là ai? Ông là người một bộ tộc Việt khác hay là người ở đất Thục của Trung Quốc? Đây lại là một vấn đề nữa cần phân tích kỹ lưỡng.
Về thân thế của Thục Phán, Toàn thư chép rằng ông gốc là người vùng Ba Thục ở Trung Quốc, ở ngôi được 50 năm và đóng đô ở Phong Khê, cho xây thành Cổ Loa. "Việt sử lược" chỉ chép rằng ông là con vua Thục, tên Phán; không nói rõ Thục là chỉ vùng đất hay tên của vua. Nhưng bộ "Đại Việt sử ký tiền biên" soạn dưới thời Tây Sơn bác bỏ nhận định của Toàn thư, cho rằng Thục Phán không phải người vùng Ba Thục. "Khâm định Việt sử thông giám cương mục" soạn thời nhà Nguyễn lý luận rõ hơn, cho rằng nước Thục cũ đã bị nước Tần diệt từ năm 316 TCN rồi, làm sao còn có vua được. Hơn nữa từ đất Thục sang lãnh thổ Văn Lang xa đến mấy nghìn dặm đường, qua nhiều vùng đất khác nhau. Vì vậy cho rằng Thục Phán gốc là người nước Thục, đem quân đánh chiếm Văn Lang thì thật thiếu cơ sở. Nhưng vì không có thông tin nào khác rõ ràng, nên Cương mục chỉ tạm đặt ra nghi vấn rằng có lẽ hồi đó ở vùng tây bắc Văn Lang còn có họ Thục khác không liên quan đến nước Thục cũ ở Trung Quốc. Nhiều quan điểm hiện đại cho rằng Thục Phán là người của tộc Âu Việt, vốn đã có qua lại với người Lạc Việt từ trước.
Quãng thời gian An Dương Vương cai trị cũng có sự không thống nhất. Toàn thư cho rằng An Dương Vương cai trị từ năm 257 TCN đến năm 208 TCN; thế nhưng các sử gia hiện đại sau khi đối chiếu ghi chép với Sử ký của Tư Mã Thiên thì cho rằng mốc thời gian trên chưa hợp lý. Đặc biệt khi xét cuộc xung đột giữa các tộc người Việt với quân Tần, rồi việc Triệu Đà lập nước Nam Việt rồi đánh Âu Lạc thì mốc thời gian do Toàn thư đưa ra có vẻ không khớp. Thay vào đó, mốc thời gian được các sử gia hiện đại cho rằng chính xác hơn là An Dương Vương cai trị từ năm 208 TCN đến năm 179 TCN thì mất nước vào tay Triệu Đà.

Nước Nam Việt và tính chính thống của nhà Triệu

Nhìn chung trong lịch sử Việt Nam có hai quan điểm chủ lưu về giai đoạn Bắc thuộc. Quan điểm thời phong kiến thì phần đa xác định giai đoạn Bắc thuộc khi nước Nam Việt bị nhà Hán đánh bại và diệt vong năm 111 TCN. Lý do vì quan điểm thời xưa coi nước Nam Việt và nhà Triệu là một giai đoạn chính thống của nước Việt. Sử quan các triều thường coi Triệu Đà là một vị vua chính thống, coi như Hoàng đế đầu tiên của nước Việt. Quan điểm thời hiện đại thì bác bỏ tính chính thống của Triệu Đà và nhà Triệu, coi đây là một triều đại của người phương bắc đã xâm chiếm nước Việt. Theo quan điểm hiện đại thì giai đoạn Bắc thuộc bắt đầu từ lúc nước Âu Lạc của An Dương Vương bị thôn tính.
Về Triệu Đà thì đây vốn là một viên tướng của nhà Tần. Sau khi Tần Thủy Hoàng thống nhất Trung Nguyên, liền bắt đầu việc bình định phía nam, cử Đồ Thư đem quân đánh chiếm vùng Lĩnh Nam. Đồ Thư chiếm được nhiều đất đai, nhà Tần đặt ra thêm mấy quận mới là Quế Lâm, Nam Hải và Tượng Quận. Thế nhưng quân Tần không chiếm được các vùng lãnh thổ của người Lạc Việt và Âu Việt, mà tướng Đồ Thư cũng bỏ mạng. Cuộc bình định phía nam của nhà Tần tạm dừng ở đó. Triệu Đà cũng thuộc lực lượng này, sau được cử làm quan Lệnh ở huyện Long Xuyên thuộc quận Nam Hải mới thành lập, dưới quyền Quận úy Nhâm Ngao. Đến sau khi Tần Thủy Hoàng mất, nhà Tần bắt đầu loạn, các cuộc khởi nghĩa bùng nổ khắp nơi. Khoảng năm 208 TCN, Nhâm Ngao mất, Triệu Đà thay chức Quận úy Nam Hải, bèn bắt đầu ly khai nhà Tần. Triệu Đà cho giết hết quan lại nhà Tần ở vùng Lĩnh Nam, đưa người của mình lên thay.
Một thời gian ngắn sau, Triệu Đà chính thức ly khai khỏi Trung Quốc, lập nước Nam Việt, đóng đô ở thành Phiên Ngung. Rồi sau đó bắt đầu cuộc xâm lược nước Âu Lạc của An Dương Vương. Các bộ sử thời xưa đều chép rằng Triệu Đà đánh An Dương Vương trước khi lập nước, chiếm được Âu Lạc rồi mới xưng vương. Mốc thời gian được các sử gia hiện đại đưa ra thì thiên về hướng Triệu Đà lập nước Nam Việt trước, một thời gian dài sau mới bắt đầu tấn công Âu Lạc và đánh bại An Dương Vương khoảng năm 179 TCN.
Các vùng đất từng thuộc vào lãnh thổ nước Nam Việt
Các vùng đất từng thuộc vào lãnh thổ nước Nam Việt
Về việc Nam Việt thôn tính Âu Lạc, thì nhìn chung các ghi chép khá tương đồng. Triệu Đà đem quân đánh Âu Lạc nhiều lần không được, do An Dương Vương có nỏ thần bắn một phát giết cả vạn người. Tất nhiên trên thực tế hẳn là do khả năng phòng thủ của Âu Lạc nhờ thành Cổ Loa kiên cố, còn nỏ thần trong truyền thuyết có lẽ dùng để chỉ chung các loại vũ khí cung nỏ của quân đội Âu Lạc. Triệu Đà bèn tạm rút, giả vờ cầu hòa và cho con trai Trọng Thủy sang làm con rể An Dương Vương, mục đích để đánh cắp bí mật quân sự và tìm hiểu điểm yếu của Âu Lạc. An Dương Vương chủ quan nên không đề phòng, cuối cùng khi quân Nam Việt sang đánh một lần nữa thì bị bất ngờ, lại không còn lợi thế, cuối cùng mất nước. Âu Lạc diệt vong, bị Nam Việt thôn tính.
Về vấn đề tính chính thống của Triệu Đà và nhà Triệu, có sự khác biệt lớn giữa quan điểm thời xưa và thời nay. Thời xưa, quan niệm chủ yếu về tính chính thống nằm ở thiên mệnh, không quá quan trọng xuất thân, do thời điểm đó ý thức về dân tộc vẫn còn yếu hoặc thậm chí chưa thành hình. Vì thế hầu hết các bộ sử thời trung đại của Việt Nam đều xếp nhà Triệu riêng thành một triều đại chính thống. Lý do vì Triệu Đà ly khai nhà Tần, tự lập nước, thậm chí còn xưng là Hoàng đế. Các sử gia trung đại Việt Nam đánh giá cao thành quả này, vì thế họ coi nhà Triệu là một triều đại chính thống.
Nhưng quan điểm này về sau đã thay đổi, khi ý thức dân tộc được thành hình. Xét tính chính thống của Triệu Đà thì không nên sa đà vào chuyện xuất thân của họ Triệu là người phương bắc. Bởi vì như đã nói ở trên, An Dương Vương thực chất cũng là người ngoài nước Văn Lang chiếm được đất đai của Hùng Vương. Nhưng điểm khác biệt giữa An Dương Vương và Triệu Đà nằm ở chỗ: An Dương Vương kế tục nước Văn Lang của Hùng Vương, đóng đô ở đất Việt. Còn Triệu Đà thì lại đóng đô ở thành Phiên Ngung thuộc đất Trung Quốc. Nam Việt mặc dù trên danh nghĩa gồm cả đất Âu Lạc; nhưng nếu chiếu theo các ghi chép trong sách sử thì trên thực tế các vùng này chỉ thần phục Nam Việt trên danh nghĩa, cùng lắm cũng chỉ coi là một dạng phiên quốc. Hay nói cách khác thì Nam Việt không kiểm soát được hoàn toàn các vùng đất cũ của Âu Lạc, và triều đình nhà Triệu cũng không quá coi trọng những nơi xa xôi này. Vì thế nên quan điểm hiện đại mới không coi nhà Triệu là chính thống, và việc Nam Việt diệt Âu Lạc được coi là điểm khởi đầu cho giai đoạn Bắc thuộc.

Giai đoạn Bắc thuộc và những cuộc khởi nghĩa

Nhà Hán sau khi chiếm Nam Việt đã chia lãnh thổ nước này thành 7 quận. Toàn bộ 7 quận từ năm 106 TCN hợp lại thành Giao Châu; đứng đầu châu trên danh nghĩa là Thứ sử, đứng đầu quận là các Thái thú. Vùng lãnh thổ ngày nay là miền bắc và một phần miền trung Việt Nam gồm 3 quận Giao Chỉ, Cửu Chân và Nhật Nam.
Lúc đầu, nhà Hán giữ nguyên các thể chế địa phương, người bản địa vẫn được giữ chức vụ ở các huyện trong quận. Có nghĩa là trên thực tế, chính quyền cai trị của nhà Hán ban đầu cũng chỉ vươn đến cấp quận và giống một dạng bảo hộ hơn là cai trị trực tiếp. Chính sách này gần như không khác gì nhiều với chính sách của nước Nam Việt với các vùng đất cũ của Âu Lạc.
Nhưng sang đến thế kỷ 1 Công nguyên, chính sách này dần thay đổi. Lúc này nhà Hán bắt đầu tổ chức các cuộc di dân quy mô lớn về phía nam. Những người này chủ yếu là lệ nông, người buôn bán, một lượng lớn tù nhân và người bị lưu đày. Thái thú Giao Chỉ là Tích Quang dần bắt đầu thực hiện các chính sách phổ biến nền văn hóa Trung Hoa. Quá trình này đặc biệt được đẩy mạnh sau sự kiện Vương Mãng cướp ngôi nhà Hán. Bấy giờ nhiều quan lại và sĩ phu không chịu phục tùng đã chạy sang Giao Châu. Tầng lớp trí thức này đã đóng góp rất tích cực vào chính sách đồng hóa. Tích Quang cũng cho mở trường học, dạy dân sử dụng cày sắt và súc vật kéo; đồng thời ép buộc người dân phải học theo lễ nghi Trung Hoa trong hôn nhân, đổi sang đi giày và đội mũ vải. Thái thú Cửu Chân là Nhâm Diên cũng cho thực hiện các chính sách tương tự.
Những chính sách đồng hóa này đã phần nào ảnh hưởng đến nhiều phong tục truyền thống của người bản địa, và nhất là ảnh hưởng đến quyền lợi của hàng ngũ quý tộc cũ của Âu Lạc. Chế độ cai trị dạng bảo hộ dần bị thay thế bởi các chính sách cai trị trực tiếp của Thái thú, nhằm khai thác kinh tế và củng cố quyền lực chính trị một cách vững vàng hơn. Cộng thêm việc số lượng người di cư từ Trung Quốc sang ngày càng nhiều, nên vô hình trung mâu thuẫn của tầng lớp cai trị người Hán với người Việt bản địa.
Các quận của Đông Hán
Các quận của Đông Hán
Mâu thuẫn càng được đẩy lên khi Tô Định nhậm chức Thái thú Giao Chỉ đã tìm cách đẩy mạnh hơn nữa chính sách này. Sức ép ngày càng nặng nề khiến ngày càng có nhiều quý tộc cũ và các thế lực bản địa chống đối ra mặt. Tô Định nhìn thấy rõ điều này, vì muốn nhanh chóng đập tan mầm mống nổi loạn nên đã khinh suất cho người ám sát Thi Sách, con trai Lạc tướng huyện Chu Diên. Chính hành động này đã góp phần trực tiếp dẫn tới cuộc khởi nghĩa của Hai Bà Trưng.
Năm 40, vợ của Thi Sách là bà Trưng Trắc, con gái Lạc tướng huyện Mê Linh đã cùng em là Trưng Nhị đứng lên kêu gọi làm phản chống lại nhà Hán. Cuộc khởi nghĩa bùng phát ở Giao Chỉ, nhanh chóng lan đến các quận Cửu Chân, Hợp Phố và Nhật Nam; mà theo sử ghi lại là "65 thành đều theo lời kêu gọi". Khởi nghĩa nhanh chóng thành công khi Tô Định phải tìm cách bỏ trốn về quận Nam Hải. Hai Bà Trưng sau đó xưng vương, đóng đô ở Mê Linh.
Nhưng sự chiếm đóng kéo dài đến gần 200 năm của các thế lực phương bắc đã có tác động tai hại đến bộ khung chính trị và xã hội của người Việt. Nền tảng quyền lực của hàng ngũ quý tộc Âu Lạc cũ thực chất không còn vững vàng và đã bị xói mòn nghiêm trọng. Trên danh nghĩa thì cuộc khởi nghĩa của Hai Bà Trưng lan rộng đến mấy quận. Nhưng trên thực tế quyền lực mà hai bà trực tiếp nắm giữ hầu như chỉ nằm ở khu vực miền bắc nước Việt, có lẽ còn chưa kiểm soát được hoàn toàn quận Giao Chỉ. Chính quyền của hai bà hầu như không thể nào huy động được một nguồn lực đủ lớn để đối đầu với lực lượng chính quy của nhà Hán. Vì vậy nên khi Mã Viện đem quân sang bình định vào năm 42 - 43, lực lượng của hai bà nhanh chóng thất bại, nhà Hán nhanh chóng tái lập được quyền cai trị ở các quận nổi loạn.
Cuộc khởi nghĩa của Hai Bà Trưng tuy cuối cùng thất bại, nhưng vẫn mang ý nghĩa sâu sắc. Đây là cột mốc đầu tiên đánh dấu sự phản kháng quyết liệt của người Việt với các thế lực cai trị ngoại bang. Và chính cuộc khởi nghĩa này đã mở màn cho một loạt các cuộc khởi nghĩa tương tự khác xảy ra suốt mấy trăm năm sau này.
Sau khi dẹp tan cuộc khởi nghĩa của Hai Bà Trưng và bình định các quận nổi loạn; Mã Viện tiến hành việc xây dựng thành quách, cắt đặt binh lính đồn trú, chỉnh sửa lại địa giới và bộ máy hành chính đúng như ở Trung Quốc. Hàng ngũ quý tộc bản địa cũ sau việc này càng suy yếu và lệ thuộc vào chính quyền do người Hán thiết lập. Việc di dân và lan truyền văn hóa Trung Hoa tiếp tục được tiến hành. Từ giai đoạn này trở đi, ảnh hưởng của Trung Quốc với Việt Nam mới thực sự được đẩy mạnh, và nền văn hóa bản địa người Việt dần bị ảnh hưởng bởi văn hóa Trung Hoa - nhưng vẫn giữ được tiếng nói và nhiều nét bản sắc của riêng mình.
Chế độ cai trị trực tiếp của Trung Quốc dần trở nên khắt khe hơn. Vì ở xa triều đình, lại chẳng có thế lực bản địa đối trọng, nên các quan lại cai trị ở Giao Châu thường thỏa sức làm theo ý mình. Phần nhiều các quan Thái thú đều tham lam vơ vét và cai trị rất khắc nghiệt. Ngoài thuế má và lao dịch, người dân còn bị bắt đi khai thác các mỏ vàng bạc nơi rừng núi, lặn dưới biển để mò ngọc trai quý hiếm. Bởi vậy trong thế kỷ 2, có nhiều cuộc khởi nghĩa nổ ra vì không chịu nổi cuộc sống khổ cực. Nhưng các cuộc khởi nghĩa này đều nhỏ lẻ, tự phát và không gây ra quá nhiều sóng gió, đều nhanh chóng bị dẹp tan. Tuy nhiên cá biệt có cuộc nổi dậy của Khu Liên ở quận Nhật Nam nổ ra năm 192 đã thành công, nhờ đó mà nước Lâm Ấp được thành lập và tồn tại tới tận thế kỷ 7.
Trong khi đó, công cuộc giáo dục lại không được chú trọng. Nhà Hán muốn đồng hóa người Việt triệt để, nhưng lại không muốn tạo ra một tầng lớp ưu tú có học và có khả năng cạnh tranh với chính quyền Trung Quốc. Ngay cả một số ít người có cơ hội được học hành bài bản và có năng lực, từng được sang Trung Quốc tiếp tục việc học và tham gia thi cử cũng không được trọng dụng. Thi thoảng mới có người bản địa được cất nhắc giữ một số chức vụ nhỏ, và phải mãi đến năm 187 mới có Lý Tiến là người bản địa đầu tiên được bổ nhiệm làm Thứ sử.
Sĩ Nhiếp, người có công lớn trong việc giữ đất Giao Châu yên bình trong thời loạn Tam quốc (tạo hình trong game Total War: Three Kingdoms)
Sĩ Nhiếp, người có công lớn trong việc giữ đất Giao Châu yên bình trong thời loạn Tam quốc (tạo hình trong game Total War: Three Kingdoms)
Việc này cho thấy công cuộc Hán hóa có những bước tiến triển. Thế nhưng đồng thời giai đoạn này cũng trùng khớp với việc nhà Hán suy yếu nghiêm trọng, đặc biệt sau khởi nghĩa Khăn Vàng nổ ra năm 184. Từ giai đoạn này trở đi, triều đình trung ương nhà Hán dần đánh mất quyền kiểm soát với địa phương, loạn lạc xảy ra khắp nơi khi các thế lực quân phiệt tranh giành tầm ảnh hưởng. Tuy vậy, Giao Chỉ ở giai đoạn này khá yên ổn nhờ quyền uy của Thái thú Sĩ Nhiếp. Ba người anh em khác của ông cũng được triều đình chấp thuận bổ nhiệm làm Thái thú ở các quận Hợp Phố, Nam Hải và Cửu Chân. Tuy chỉ là Thái thú của quận Giao Chỉ, nhưng nhìn chung trên thực tế thì Sĩ Nhiếp gần như nắm trọn quyền hành ở phần lớn Giao Châu. Ông đã khôn ngoan tránh xa các cuộc binh đao loạn lạc xảy ra cuối thời Hán, tập trung giữ yên khu vực.
Sĩ Nhiếp cầm quyền trong gần 40 năm, và giai đoạn này về sau được các sử gia Việt Nam đánh giá rất cao. Sĩ Nhiếp đã cho phát triển giáo dục và phổ biến kỹ thuật, tiến cử và cất nhắc những người có tài. Ngoài ra, có nhiều sĩ phu vì để tránh loạn lạc ở Trung Nguyên cũng tìm cách lánh nạn ở chỗ ông, góp phần truyền bá rộng rãi hơn cả Nho giáo và Đạo giáo. Sau khi Sĩ Nhiếp qua đời năm 226, gia tộc Sĩ dần suy tàn và mất đi quyền lực. Giao Châu cuối cùng bị kiểm soát hoàn toàn bởi Đông Ngô.
Chính quyền Đông Ngô tái sử dụng nền cai trị trực tiếp giống nhà Hán, thay vì một bộ máy hành chính cởi mở hơn và dựa vào các hào trưởng địa phương như Sĩ Nhiếp. Tất nhiên là các thế lực bản địa không chấp nhận để quyền lợi của mình bị ảnh hưởng. Vào năm 248, khởi nghĩa Bà Triệu nổ ra ở Giao Chỉ và Cửu Chân. Triều đình Đông Ngô đã phải cử Lục Dận sang đánh dẹp. Lực lượng của Bà Triệu đã cố gắng chống đỡ, nhưng cuối cùng vẫn thất bại.
Năm 264, Đông Ngô vì thấy đất Giao Châu quá rộng, nên đã cho tách thành hai vùng để giảm bớt quyền lực của quan lại và để dễ bề kiểm soát hơn. Ba quận phía bắc là Nam Hải, Thương Ngô và Uất Lâm hợp thành Quảng Châu; còn các quận Giao Chỉ, Cửu Chân và Hợp Phố vẫn là Giao Châu và trị sở đặt tại thành Long Biên. Sau khi Đông Ngô bị nhà Tấn tiêu diệt, địa giới hành chính này vẫn được giữ nguyên.
Trung Quốc chỉ yên ổn được một thời gian ngắn sau khi nhà Tấn thống nhất, rồi nhanh chóng rơi vào nội chiến và loạn lạc bởi các tộc người Hồ ngoài biên ải. Sau khi Tây Tấn diệt vong và toàn bộ phía bắc Trung Quốc rơi vào tay các tộc người Hồ; nhà Đông Tấn được tái lập nhưng chỉ còn kiểm soát được vùng phía nam. Sự chia cắt này kéo dài trong hàng trăm năm, sử sách gọi là các thời kỳ Ngũ Hồ thập lục quốc và Nam - Bắc triều. Giao Châu thuộc quyền kiểm soát của các triều đại phía nam; lần lượt là Đông Tấn, Lưu Tống, Tề, Lương và Trần. Phải mãi đến năm 589, sau khi nhà Tùy ở phía bắc diệt được nhà Trần thì Trung Quốc mới thống nhất trở lại.
Trong giai đoạn rối ren này, quan lại ở Giao Châu có quyền hành tương đối độc lập; vừa do khoảng cách xa xôi, vừa do triều đình phải tập trung vào những vấn đề khác. Điều này đã cho phép các thế lực bản địa cơ hội giành lấy quyền lực. Năm 468, khi Thứ sử Giao Châu là Lý Mục chết thì người bản địa là Lý Trường Nhân đã nổi dậy, giết bộ hạ của Lý Mục và tự xưng Thứ sử. Sau khi Lý Trường Nhân mất, một người em họ của ông là Lý Thúc Hiến lên thay chức, được dân chúng ủng hộ mà chống cự được với những người mà triều đình Lưu Tống cử tới. Đến năm 479 khi Lưu Tống bị diệt vong, nhà Tề lên thay đã thừa nhận chức vị của Lý Thúc Hiến. Mãi đến năm 485, nhà Tề mới cử quân sang đánh dẹp và thu hồi quyền kiểm soát Giao Châu.
Giao Châu ở dưới quyền các triều đại phía nam thực chất không có quá nhiều khác biệt so với trước đó. Các loại thuế má lao dịch vẫn nhiều và nặng nề khiến cuộc sống người dân bản địa nhìn chung rất vất vả. Các hào trưởng địa phương vẫn tiếp tục bất mãn khi con đường thăng tiến qua học vấn bị thu hẹp. Đến cuối năm 541, nền cai trị hà khắc của Thứ sử Giao Châu Tiêu Tư đã khiến Lý Bí nổi dậy chống lại.
Tổ tiên của Lý Bí vốn là người Trung Quốc, cuối thời Tây Hán vì để tránh loạn Vương Mãng liền chuyển xuống Giao Châu. Tính đến thời điểm này đã sống ở Giao Châu gần 600 năm, đã thành người bản địa từ lâu. Nhờ liên kết được với các vùng lân cận nên lực lượng của Lý Bí rất mạnh, Tiêu Tư không chống nổi phải chạy về Quảng Châu. Triều đình phía nam Trung Quốc bấy giờ là nhà Lương cử quân sang đánh dẹp nhưng không được. Năm 543, Lý Bí tiếp tục đẩy lui quân Lâm Ấp xâm phạm, làm chủ toàn bộ Giao Châu. Đến năm 544, Lý Bí tự xưng Nam Việt đế, lấy niên hiệu là Thiên Đức, đặt tên nước là Vạn Xuân, đặt kinh đô ở cửa sông Tô Lịch.
Lãnh thổ nước Vạn Xuân
Lãnh thổ nước Vạn Xuân
Năm 545, nhà Lương cất quân sang đánh dẹp, phong Dương Phiêu làm Thứ sử Giao Châu và cử Trần Bá Tiên làm tư mã. Nam Việt đế bèn đem 3 vạn quân ra chống cự nhưng liên tiếp thua ở Chu Diên và cửa sông Tô Lịch, phải rút lui về thành Gia Ninh ở Phong Châu. Sang đầu năm 546, quân Lương tiếp tục đánh hạ được thành Gia Ninh, quân Vạn Xuân phải lui tiếp về Lạo Trung. Sau một thời gian củng cố lực lượng, Nam Việt đế đem 2 vạn quân ra đóng ở hồ Điển Triệt, thuyền bè đậu chật kín. Quân Lương ban đầu thấy thế lo lắng không dám tiến vào, Trần Bá Tiên phải lên tiếng cổ vũ sĩ khí. Thế rồi đến đêm, nước sông dâng cao tràn cả vào hồ, Trần Bá Tiên bèn thuận thế đem quân tiến thẳng vào. Quân của Nam Việt đế không phòng bị nên thất bại nặng nề, hầu hết đều tan rã cả, ông phải cùng tàn quân rút chạy vào động Khuất Lão. Anh trai của ông là Lý Thiên Bảo sau cũng tập hợp quân vây đánh Ái Châu, nhưng rồi vẫn bị Trần Bá Tiên đánh tan phải rút chạy.
Theo Toàn thư thì khi Nam Việt đế rút vào trong động Khuất Lão có ủy thác việc lớn cho tướng Triệu Quang Phục. Triệu Quang Phục sau đó cầm quân chống cự với Trần Bá Tiên, nhưng vì thấy quân Lương đông đảo, nên phải lui về giữ đầm Dạ Trạch. Đầm này địa thế hiểm trở mà lại rộng, người ngựa khó đi mà chỉ có thể đi thuyền độc mộc nhỏ, nếu không biết đường chắc chắn sẽ lạc. Quân Lương vì thế gặp rất nhiều khó khăn trong việc đánh dẹp Triệu Quang Phục. Đến năm 548, Nam Việt đế Lý Bí mất ở động Khuất Lão. Về cái chết của ông, sử Việt chép là do vua nhiễm lam chướng lâu ngày nên bệnh mất; nhưng sử Trung Quốc lại chép là vua bị giết, thậm chí còn đưa được thủ cấp của ông về kinh đô nhà Lương ở Kiến Khang.
Sau cái chết của Nam Việt đế, Triệu Quang Phục xưng vương, tiếp tục chống trả quân Lương, sử gọi ông là Triệu Việt vương. Trần Bá Tiên biết khó mà đánh bại ông ngay được, bèn mưu tính cầm cự lâu ngày để làm cho quân của Triệu Việt vương mệt mỏi, phải đầu hàng khi hết lương. Thế nhưng vào năm 550, nhà Lương xảy ra loạn Hầu Cảnh, Trần Bá Tiên phải quay trở về đánh dẹp. Lợi dụng điều đó, Triệu Việt vương đem quân bất thần đánh ra, đánh bại quân Lương. Thắng trận rồi, Triệu Việt vương làm chủ nước Vạn Xuân, đóng đô ở thành Long Biên. 
Lại nói chuyện người anh của Lý Nam Đế là Lý Thiên Bảo sau khi thua trận rút lui vào đất của người Di Lạo bèn tự xưng là Đào Lang vương, lập nước Dã Năng. Đến năm 555 thì Lý Thiên Bảo mất, vì không có con nên quần thần tôn người cháu là Lý Phật Tử lên nối ngôi. Năm 557, Lý Phật Tử đem quân đến đánh Triệu Việt vương để giành quyền, hai bên đánh nhau nhiều lần bất phân thắng bại, nhưng quân Lý Phật Tử có phần núng thế hơn nên xin giảng hòa. Triệu Việt vương vì nghĩ rằng Lý Phật Tử là người trong họ Nam Việt đế Lý Bí, không nỡ từ chối nên đồng ý. Hai bên sau đó phân chia địa giới cai trị. Về sau, Lý Phật Tử cho con trai đến xin ở rể của Triệu Việt vương, được đồng ý. Vì Triệu Việt vương rất quý con trai Lý Phật Tử nên dần không phòng bị nữa. Đến năm 571, Lý Phật Tử bất thần đem quân đánh Triệu Việt vương. Ông chống không nổi, phải đem con gái bỏ chạy. Nhưng đến cửa biển Đại Nha thì cùng đường, Triệu Việt vương bèn nhảy xuống biển tự vẫn. Lý Phật Tử thu được toàn bộ lãnh thổ Vạn Xuân, rồi cũng xưng Nam Việt đế.
Ở Trung Quốc thì sau khi nhà Tùy thống nhất đã yêu cầu Lý Phật Tử sang chầu, nhưng ông từ chối. Vì thế năm 602, nhà Tùy cử Lưu Phương đem đại quân sang đánh dẹp. Sau khi đánh bại quân tiên phong nước Vạn Xuân, quân Tùy kéo đến sát nơi đóng quân của Lý Phật Tử. Sợ hãi trước sức mạnh của quân Tùy, Lý Phật Tử đầu hàng rồi bị giải về kinh đô nhà Tùy ở Trường An.
Giai đoạn nước Vạn Xuân quật khởi này có những tình tiết rất đáng xem xét. Đó chính là những chi tiết liên quan đến Triệu Quang Phục. Điều đáng nói ở đây là nhân vật Triệu Quang Phục vốn ban đầu chỉ xuất hiện trong hai tác phẩm truyền kỳ là "Lĩnh Nam chích quái""Việt điện u linh tập" - đều có niên đại ở gần cuối thời nhà Trần. Thậm chí chuyện về Triệu Quang Phục có tình tiết gần như giống y hệt chuyện về An Dương Vương. Ngoài ra thì sử Trung Quốc và các bộ sử Việt trước Toàn thư như "Việt sử lược" hay "An Nam chí lược" đều không nhắc đến Triệu Quang Phục. Các ghi chép đó đều chỉ nhắc đến Lý Bí và mãi về sau là Lý Phật Tử. Phải đến khi có Toàn thư, Triệu Quang Phục mới được đưa vào chính sử.
Do đó, có ý kiến cho rằng Triệu Quang Phục là nhân vật không có thật trong sử Việt. Ông vốn là nhân vật từ truyện truyền kỳ được đưa vào để kéo dài quãng thời gian độc lập của nước Vạn Xuân. Lý do là vì các ghi chép trong chính sử thời trước về nước Vạn Xuân đều kết thúc bằng việc Nam Việt đế Lý Bí qua đời, Trần Bá Tiên dẹp yên được Giao Chỉ. Rồi phải đến năm 602 mới tiếp tục có Lý Phật Tử nổi lên làm loạn, chiếm thành Cổ Loa rồi bị đánh dẹp. Cá biệt có "An Nam chí lược" nhắc thêm nhân vật Lý Xuân khởi binh nổi dậy năm 590 rồi bị Dương Tố đánh dẹp. Nhưng không có sách nào khác chép về Lý Xuân, nên không rõ đây là ai và có quan hệ gì với Lý Bí. Tựu trung, trước Toàn thư, Triệu Quang Phục vắng bóng hoàn toàn trong các bộ sử, chỉ xuất hiện trong các tác phẩm truyền kỳ. Do đó, sự tồn tại của ông vẫn còn tạm để tồn nghi.
Sau khi dẹp yên Lý Phật Tử năm 602, nước Việt lại trở thành Giao Châu như cũ và bị nhà Tùy đô hộ. Năm 607, nhà Tùy đổi trị sở của Giao Châu từ Long Biên tới Tống Bình. Năm 618, nhà Tùy sụp đổ, Trung Quốc hỗn loạn trong một thời gian ngắn rồi sau đó được nhà Đường thống nhất. Năm 622, nhà Đường lập Giao Châu Tổng quản phủ, năm 624 đổi thành Giao Châu Đô đốc phủ và cuối cùng đến năm 679 thì đổi thành An Nam đô hộ phủ. Tên gọi "An Nam" quen thuộc về sau trong lịch sử bang giao giữa hai nước xuất hiện từ đây.
Các châu, quận nhà Đường (thời Đường Cao tông)
Các châu, quận nhà Đường (thời Đường Cao tông)
Giai đoạn bình ổn và thịnh trị trong khoảng 100 năm đầu thời Đường cũng đã khiến kinh tế và văn hóa của An Nam có cơ hội phát triển. Tầng lớp trí thức bản địa người Việt dần trở nên đông đảo nhờ giáo dục phát triển. Mặc dù vẫn bị chính quyền trung ương Trung Quốc hạn chế thi cử, nhưng giai đoạn này cũng chứng kiến sự lan truyền của Phật giáo vào An Nam. Phật giáo ở An Nam ngày càng hưng thịnh, nhiều chùa chiền được lập, và sự thịnh vượng này kéo dài đến tận những triều đại độc lập sau này. Trên thực tế, chính các nhà sư sau này sẽ là người có vai trò lớn trong việc giúp đỡ các triều đại tự chủ đầu tiên cai trị, chứ không phải các nho sinh.
Dù sự thịnh vượng của nhà Đường có một số tác động tích cực với An Nam, nhưng đó chỉ là bề nổi. Thực tế thì sự áp bức về cả chính trị lẫn kinh tế mà An Nam phải gánh chịu đã lại tiếp tục thổi bùng lên những ngọn lửa kháng cự của người Việt chống lại sự đô hộ của Trung Quốc. Nhà Đường bóc lột còn có phần nặng nề hơn các triều đại trước. Cống vật hàng năm phải gửi tới triều đình gồm rất nhiều sản vật quý hiếm từ mọi miền, ngoài ra còn có hàng loạt thứ thuế càng khiến gánh nặng của dân chúng trở nên lớn hơn. Quan lại cai trị phần lớn đều nhũng nhiễu hạch sách, và thường lo vơ vét hơn là chú tâm cai trị. Những năm được mùa và thời tiết ổn định thì còn đỡ, nhưng đến lúc lũ lụt hạn hán thì dân chúng khổ không kể xiết.
Năm 687, Lý Tự Tiên định khởi nghĩa chống nhà Đường nhưng mưu kế bại lộ, bị An Nam Đô đốc là Lưu Diên Hựu bắt giết. Thuộc hạ của Lý Tự Tiên là Đinh Kiến vì thế khởi binh làm phản, giết Lưu Diên Hựu rồi chiếm được phủ thành Tống Bình, nhà Đường phải cử quân xuống đánh dẹp.
Năm 722, tiếp tục xảy ra khởi nghĩa Mai Thúc Loan. Ông quy tụ nông dân và các hào trưởng thuộc các châu Hoan, Ái và Diên; đồng thời liên minh với Lâm Ấp và Lục Chân Lạp, đánh đuổi quân Đường và dựng thành lũy. Mai Thúc Loan sau đó xưng đế, tiến quân đánh chiếm Tống Bình, sử về sau gọi là Mai Hắc Đế do ông có nước da ngăm đen. Một lần nữa nhà Đường phải cất quân đánh dẹp. Mai Hắc Đế chống không nổi quân Đường, phải rút vào rừng núi rồi mất ở đó.
Toàn thư còn chép thêm về khởi nghĩa Phùng Hưng diễn ra năm 791, khi ông chiếm được phủ thành nhưng chưa cai trị được bao lâu thì mất. Con là Phùng An lên nối, suy tôn Phùng Hưng làm Bố Cái Đại Vương, về sau nhà Đường cho người sang chiêu dụ thì Phùng An đầu hàng. Nguyên bản câu chuyện về Phùng Hưng cũng chỉ thấy xuất hiện trong "Việt điện u linh tập", có lẽ về sau được Ngô Sĩ Liên đưa vào Toàn thư. Các bộ sử trước đó không thấy ghi chép gì về Phùng Hưng và Phùng An.
Từ nửa sau thế kỷ 8, chính quyền trung ương nhà Đường bắt đầu suy yếu. Loạn An - Sử kéo dài 8 năm đã phá hủy hoàn toàn bộ khung quyền lực của nhà Đường, khiến trung ương không còn đủ sức kiềm chế các Tiết độ sứ ở khu vực biên giới nữa, và cũng khó lòng duy trì được quyền lực ở địa phương. Giai đoạn này, An Nam từng bị Nam Chiếu xâm phạm và chiếm đóng, nhà Đường phải cử Cao Biền đem quân lấy lại. Sau khi lấy lại được An Nam, nhà Đường thăng An Nam đô hộ phủ lên làm Tĩnh Hải quân và cho Cao Biền làm Tiết độ sứ. Cũng trong khoảng thời gian này, các quan nhà Đường cai trị An Nam cho xây thành Đại La. Thành được đắp thêm, mở rộng nhiều lần; trong đó nổi tiếng nhất là lần Cao Biền cho xây dựng với quy mô lớn vào năm 866, sau khi đánh đuổi Nam Chiếu.
Loạn Hoàng Sào và các thế lực quân sự cát cứ cuối thời Đường
Loạn Hoàng Sào và các thế lực quân sự cát cứ cuối thời Đường
Năm 874, ở Trung Quốc xảy ra khởi nghĩa Hoàng Sào, nhà Đường phải mất đến 10 năm mới dẹp yên được. Đến lúc này, chính quyền trung ương nhà Đường đã suy yếu trầm trọng, hầu như chẳng còn quyền lực gì và thực tế đã không thể kìm hãm các thế lực địa phương nữa. Trung Quốc dần phân mảnh, và từ đầu thế kỷ 10, miền nam nhà Đường bắt đầu bị chia tách thành nhiều chính quyền khác nhau. Và cuối cùng khi quyền thần Chu Ôn soán ngôi nhà Đường năm 907, Trung Quốc bước vào giai đoạn hỗn loạn mang tên Ngũ đại thập quốc - 5 triều đại lần lượt thay nhau cai trị Trung Nguyên, còn ở phía nam là sự xuất hiện lần lượt của 10 quốc gia nhỏ.
Đến đây, lịch sử Việt Nam có bước ngoặt cực kỳ quan trọng.

Thời kỳ tự chủ giai đoạn đầu và các triều đại đầu tiên

Đầu thế kỷ 10, nhà Đường rơi vào khủng hoảng nghiêm trọng, không còn sức khống chế địa phương. Năm 906, dân chúng ở Tĩnh Hải quân nổi lên đánh đuổi Tiết độ sứ người Trung Quốc, lập một hào trưởng rất được kính trọng là Khúc Thừa Dụ. Khúc Thừa Dụ tự xưng làm Tiết độ sứ, và nhà Đường buộc phải thừa nhận chức vị của ông vì cũng chẳng có cách nào ngăn cản.
Khúc Thừa Dụ mất năm 907, trao lại quyền lực cho con là Khúc Hạo. Khúc Hạo đã từng bước thiết lập một nền hành chính ổn định, chia lãnh thổ Tĩnh Hải quân thành các lộ, phủ, châu, xã; đặt quan cai trị; quân bình hóa thuế đất; bãi bỏ lao dịch; thiết lập sổ hộ. Và để tránh rắc rối không cần thiết khi nền cai trị chưa vững vàng, Khúc Hạo không hề tuyên bố độc lập. 
Bấy giờ triều đại kế tục nhà Đường là nhà Hậu Lương không thừa nhận chức vị Tiết độ sứ của họ Khúc. Thực tế là năm 908, nhà Hậu Lương đã phong cho Thanh Hải quân Tiết độ sứ Lưu Ẩn kiêm nhiệm luôn chức Tĩnh Hải quân Tiết độ sứ và An Nam Đô hộ. Tất nhiên chức vị này chỉ là trên danh nghĩa, vì thực tế họ Khúc vẫn cai trị ở Giao Châu. Nhưng nó vẫn là một mối đe dọa tiềm tàng. Năm 911, Lưu Ẩn mất, em trai là Lưu Nghiễm kế chức. Đến năm 917, Lưu Nghiễm ly khai xưng đế, ban đầu đặt quốc hiệu là Đại Việt, nhưng sang năm sau đổi thành Đại Hán; sử về sau gọi đây là nước Nam Hán. Vì đã công khai phản lại nhà Hậu Lương, nên chức vị Tĩnh Hải quân Tiết độ sứ được ban cho Lưu Nghiễm trở nên vô giá trị. Trên danh nghĩa, Giao Châu khi đó vô chủ vì không ai được công nhận là người cai trị.
Lãnh thổ Tĩnh Hải quân và Nam Hán
Lãnh thổ Tĩnh Hải quân và Nam Hán
Lúc này đây, Khúc Hạo có cơ hội để một lần nữa chính thức hóa chức vị Tiết độ sứ của mình. Nhưng ông phải lựa chọn thần phục nhà Hậu Lương hay nước Nam Hán - nhà Hậu Lương trên danh nghĩa là triều đại chính thống của toàn Trung Quốc, còn Nam Hán thì lại là nước ngay kế bên. Vì vậy nên cùng năm Lưu Nghiễm xưng đế, Khúc Hạo sai con là Khúc Thừa Mỹ sang thăm để kết mối hòa hiếu, nhưng thực tế là dò xét tình hình. Đến khi Khúc Thừa Mỹ trở về thì Khúc Hạo đã mất, và khi lên cai trị, ông đã quyết định thần phục nhà Hậu Lương. Năm 919, Khúc Thừa Mỹ sai sứ sang nhà Hậu Lương cầu phong, được công nhận làm Tiết độ sứ. Việc này đã khiến Nam Hán phật ý, nhưng tạm thời Lưu Nghiễm chưa rảnh tay để lo đến Giao Châu vì còn nhiều vấn đề phải giải quyết trước. Ngoài việc lo đối phó với nhà Hậu Lương và triều đại kế tục sau đó là Hậu Đường, Nam Hán còn xung đột với nước Sở năm 928. Sau khi đánh bại quân Sở, còn nhà Hậu Đường bắt đầu suy yếu, Nam Hán mới có thể nhìn xuống Giao Châu.
Năm 930, Nam Hán cất quân sang đánh Giao Châu, Khúc Thừa Mỹ không chống nổi, bị bắt đem về. Nhưng ngay sang năm 931, tướng cũ của họ Khúc là Dương Đình Nghệ nổi dậy, đánh đuổi quân Nam Hán và tự xưng làm Tiết độ sứ. Ông cai trị đến năm 937 thì bị Kiểu Công Tiễn giết hại. Kiểu Công Tiễn sau đó cử người sang Nam Hán xin thần phục để có chỗ dựa. Lưu Nghiễm biết tin, bèn phong con trai Lưu Hoằng Tháo làm Giao vương, đem quân sang giúp. Nhưng ngay sau khi biết tin Dương Đình Nghệ bị hại, con rể ông là Ngô Quyền vội đem quân từ châu Ái ra bắc báo thù. Quân Nam Hán còn chưa kịp sang thì Kiểu Công Tiễn đã bị bắt giết.
Ngô Quyền sau khi giết được Kiểu Công Tiễn, bèn lập tức chuẩn bị đón đánh quân Nam Hán. Biết rằng quân Nam Hán đi thuyền chiến sẽ phải đi vào cửa sông Bạch Đằng, nên Ngô Quyền bày trận mai phục ở đó. Ông cho đóng các cọc lớn bằng gỗ có đầu bọc sắt, rồi phái thuyền nhỏ ra khiêu chiến để dẫn địch vài bãi cọc. Lưu Hoằng Tháo khinh suất đuổi theo, đến khi thủy triều xuống, cọc lộ ra khiến thuyền chiến quân Nam Hán mắc kẹt. Ngô Quyền bèn cho quân quay lại đánh mạnh, khiến quân Nam Hán tổn thất quá nửa, bản thân Lưu Hoằng Tháo cũng bỏ mạng. Lưu Nghiễm thấy bại trận, buộc phải rút quân về.
Sau khi đánh bại quân Nam Hán, Ngô Quyền xương vương vào đầu năm 939, đánh dấu một cột mốc mới. Lúc này, người Việt đã đủ sức giành lại độc lập và bảo vệ đất nước trước những nỗ lực xâm phạm của phương bắc. Vì vậy, Ngô Quyền không còn xưng làm Tiết độ sứ nữa mà trực tiếp xưng vương, tỏ ý ly khai hoàn toàn. Ngô Vương thiết lập triều đình, đặt ra các quan, đóng đô ở Cổ Loa.
Lãnh thổ nhà Ngô
Lãnh thổ nhà Ngô
Một đặc điểm chung của các triều đại đầu tiên sau khi độc lập của Việt Nam là ở chỗ chưa hẳn là những triều đại tập quyền. Triều đình trung ương chưa thực sự có được quyền lực tối cao và khả năng khống chế các thế lực địa phương chỉ ở một chừng mực nào đó thôi. Tình trạng này không chỉ riêng nhà Ngô mới có, mà còn kéo dài qua cả các triều đại Đinh, Tiền Lê và cả nhà Lý nữa. Về cuối thời nhà Lý thì sự tập quyền đã bắt đầu rõ nét hơn và thực sự thành hình ở thời nhà Trần sau này.
Tình trạng này đặc biệt rõ nét sau khi Ngô Quyền xưng vương. Dù trên danh nghĩa ông là người cai trị Giao Châu; nhưng thực tế triều đình nhà Ngô có rất ít quyền lực ở các vùng miền núi, ở những vùng còn lại thì gần như luôn phải đối phó với các thế lực địa phương lâu đời. Phần lớn thời gian cai trị của mình, Ngô Vương tìm cách xây dựng một triều đình thống nhất, nhưng ông chỉ thành công một phần. Ngô Vương mất năm 944 khi công việc còn dang dở, và lập tức triều đình nhà Ngô rơi vào đấu đá, mở đường cho các thế lực địa phương cát cứ.
Trước khi qua đời, Ngô Vương có ủy thác việc lớn cho Dương Tam Kha - con trai của Dương Đình Nghệ. Thế nhưng sau đó Dương Tam Kha tự lên ngôi, xưng là Dương Bình vương. Con trai lớn của Ngô Quyền là Ngô Xương Ngập sợ bị hại nên bỏ trốn về vùng Nam Sách. Dương Bình vương sau đó nhận con thứ của Ngô Quyền là Ngô Xương Văn làm con nuôi. Ông nhiều lần cho quân đi bắt Ngô Xương Ngập mà không được, vì hào trưởng vùng này nhất quyết che chở. Một ví dụ rõ nét cho thực tế phân quyền ở Giao Châu khi ấy - triều đình Cổ Loa không có quá nhiều quyền kiểm soát với các thế lực địa phương.
Năm 950, Dương Bình vương sai Ngô Xương Văn đem quân đi dẹp loạn ở Thái Bình. Nhưng nửa đường, Ngô Xương Văn thuyết phục hai tướng đi cùng đem quân quay về lật đổ Dương Bình Vương. Ngô Xương Văn lên ngôi, xưng là Nam Tấn vương và giáng Dương Tam Kha xuống làm Chương Dương công. Đến năm 951, Ngô Xương Văn cho mời anh trai Ngô Xương Ngập về để cùng cai trị. Ngô Xương Ngập bèn xưng là Thiên Sách vương.
Lúc này đây, quyền lực của triều đình Cổ Loa đã suy yếu hẳn đi. Không còn cái uy của Ngô Quyền khiến các hào trưởng e sợ, lại thêm việc đấu đá nội bộ khiến triều đình suy yếu. Hai vua Ngô bắt đầu việc củng cố quyền lực triều đình bằng việc tiến đánh để bình định các thế lực địa phương không tuân phục.
Trong giai đoạn này, Ngô Xương Ngập dần chuyên quyền, lấn át Ngô Xương Văn khiến triều đình nhà Ngô chia rẽ. Đến năm 954, Ngô Xương Ngập bệnh mất, nhà Ngô chỉ còn một vua là Ngô Xương Văn. Năm 965, khi đi đánh dẹp các thế lực địa phương ở Thái Bình thì trúng phục binh, bị nỏ bắn chết. Con trai ông là Ngô Xương Xí lên thay, nhưng lúc này nhà Ngô đã hoàn toàn không còn đủ sức mạnh để trấn áp địa phương nữa. Các thế lực nổi lên cát cứ khắp nơi, tranh giành quyền lực, bản thân Ngô Xương Xí cũng không giữ nổi Cổ Loa mà phải rút về Bình Kiều. Giai đoạn loạn lạc cát cứ bắt đầu, về sau được gọi là Loạn 12 sứ quân.
Trong giai đoạn cát cứ, thế lực Đinh Bộ Lĩnh dần nổi lên, lần lượt đánh hạ, chiêu dụ các sứ quân khác. Sau 3 năm, Đinh Bộ Lĩnh dẹp yên tất cả các sứ quân, thống nhất toàn bộ đất nước, được tôn xưng là Vạn Thắng Vương. Năm 968, Đinh Bộ Lĩnh xưng đế, đóng đô ở Hoa Lư và cải quốc hiệu thành Đại Cồ Việt, quần thần dâng tôn hiệu là Đại Thắng Minh Hoàng đế. Ông cho xây cung điện, đắp thành lũy, thiết lập triều đình và định phẩm hàm cho các quan văn võ. Đến năm 970, ông đặt niên hiệu Thái Bình, tỏ rõ ý muốn hoàn toàn độc lập khỏi triều đình phương bắc. Nhưng để giữ yên nền hòa bình nên vào năm 972, ông sai Đinh Liễn làm sứ giả đem các loại đồ quý sang cống với nhà Tống và xin thần phục. Để đáp lại, nhà Tống phong cho họ Đinh làm Kiểm hiệu Thái sư, Tĩnh Hải quân Tiết độ sứ và An Nam Đô hộ. Đến năm 975 tiếp tục phong làm Giao Chỉ Quận vương. Như vậy là lúc này, triều đình phương bắc cơ bản đã công nhận nền độc lập trên thực tế của Việt Nam.
Tiền "Thái Bình hưng bảo" của nhà Đinh
Tiền "Thái Bình hưng bảo" của nhà Đinh
Tuy nhiên, cả Đinh Bộ Lĩnh và Đinh Liễn đều bị ám sát vào năm 979 bởi quan nội thị Đỗ Thích. Triều đình tôn người con thứ của vua mới 6 tuổi là Đinh Toàn lên ngôi, nhưng quyền lực nằm cả trong tay Thập đạo tướng quân Lê Hoàn. Vì việc này mà nhiều khai quốc công thần trong triều như Đinh Đặc, Nguyễn Bặc và Phạm Hạp không vừa lòng. Họ cho rằng Lê Hoàn có âm mưu soán ngôi nên dấy binh chống lại, nhưng đều bị đánh bại cả. Và lúc này, thấy tình hình có khả năng thuận lợi để chiếm lại Giao Chỉ, nhà Tống bắt đầu tập trung binh lực để đánh xuống phía nam.
Trước tình hình đó, những người trung thành với Lê Hoàn đã đồng loạt tôn ông làm vua. Bấy giờ những người chống đối đều đã bị đánh bại, nên cuộc chuyển giao quyền lực hết sức êm thấm. Năm 980, Lê Hoàn tiếp nhận ngôi vị từ Dương thái hậu, mở ra triều Lê, sử về sau gọi là Tiền Lê. Sau khi lên ngôi, Lê Hoàn đã đánh bại được cuộc xâm lược của nhà Tống vào năm 981, giết được tướng địch Hầu Nhân Bảo, giữ yên được bờ cõi. Sang năm sau lại tiến quân đánh Chiêm Thành do nước này từng đem quân định xâm phạm Đại Cồ Việt. Quân Đại Cồ Việt đại thắng, đốt phá kinh đô Chiêm Thành và bắt về rất nhiều người.
Sau khi giải quyết xong xuôi vấn đề Chiêm Thành, Lê Hoàn sai sứ sang tạ tội với nhà Tống và xin thần phục. Lê Hoàn qua đời năm 1005, nhưng sau đó triều đình xảy ra tranh đấu giữa các con của ông. Đúng ra thì thái tử Lê Long Việt sẽ nối ngôi, nhưng các anh em không phục nên xảy ra tranh chấp, 8 tháng liền trong nước không có ai làm chủ. Mãi đến tháng 12, binh biến mới được dẹp yên và Lê Long Việt lên ngôi. Nhưng chỉ 3 ngày sau, Lê Long Việt bị em là Lê Long Đĩnh giết chết và cướp ngôi. Lê Long Đĩnh bị đánh giá là một vị vua tàn bạo, khắc nghiệt, lại bị bệnh không ngồi được nên phải nằm mà thiết triều - do đó về sau bị gọi là Lê Ngọa Triều. Năm 1009, Lê Long Đĩnh mất mà con trai còn nhỏ, vì vậy triều đình tôn Tả thân vệ Điện tiền chỉ huy sứ Lý Công Uẩn lên ngôi. Nhà Tiền Lê chấm dứt và nhà Lý bắt đầu.
Một đặc trưng tiêu biểu đáng chú ý ở những triều đại ban đầu của Việt Nam chính là sự nổi trội của Phật giáo và các vị sư đức cao vọng trọng, thậm chí có vai trò quan trọng trong triều đình. Vai trò của các nho sĩ giai đoạn này không hề cao. Các triều Đinh và Tiền Lê đều có những hành động tỏ rõ sự coi trọng với Phật giáo, đặc biệt Lê Hoàn còn mời các vị sư làm cố vấn, trong đó nổi tiếng nhất chính là sư Vạn Hạnh. Lê Long Đĩnh sau khi lên ngôi cũng đã sai sứ giả sang nhà Tống xin thỉnh một số bộ kinh Phật về.
Tầm ảnh hưởng của Phật giáo trong chính trị thể hiện rõ nhất chính qua sự kiện Lý Công Uẩn đoạt được ngôi vị từ họ Lê. Trên thực tế, thầy dạy của Lý Công Uẩn chính là sư Vạn Hạnh. Các câu sấm truyền, tin đồn, bài đồng dao nói về thiên mệnh họ Lý thay họ Lê, thực chất đều bắt nguồn từ sư Vạn Hạnh - thế mới thấy ảnh hưởng của Phật giáo giai đoạn này lớn ra sao. Và kết quả là năm 1009, Lý Công Uẩn được triều đình ủng hộ đã lên ngôi, mở ra triều đại dài lâu đầu tiên trong lịch sử Việt Nam.

Nhà Lý và công cuộc phát triển Đại Việt

Nhà Lý bắt đầu khi Thái tổ Lý Công Uẩn tiếp nhận ngôi vị từ tay nhà Tiền Lê năm 1009, kéo dài hơn 200 năm, là triều đại lớn thực sự đầu tiên của Việt Nam. Triều đại này đã đem lại cho nền quân chủ Việt Nam bộ khung chính trị, hành chính và quân sự vững chắc hơn hẳn các triều đại tiền nhiệm. Nhà Lý chính là triều đại đánh dấu sự chuyển tiếp của Việt Nam từ một quốc gia còn nhỏ yếu dần biến thành một nước mạnh mẽ trong khu vực, đủ sức khiến Trung Quốc phải dè chừng.
Một trong những việc quan trọng đầu tiên mà Lý Thái tổ làm sau khi lên ngôi chính là dời đô. Kinh đô Hoa Lư của hai triều đại Đinh và Tiền Lê nằm trong khu vực đồi núi hùng vĩ hiểm trở. Nơi này tuy phù hợp cho mục đích phòng thủ quân sự khi có biến cố, nhưng việc đi lại khó khăn vì nằm xa các trục giao thông chính, không có điều kiện trở thành trung tâm kinh tế lớn. Vì vậy năm 1010, Lý Thái tổ đã cho dời đô về thành Đại La, vì địa thế nơi này phù hợp cho việc phát triển kinh tế, địa thế lại rộng rãi bằng phẳng, thích hợp phòng thủ vựa lúa quan trọng của đất nước ở đồng bằng sông Hồng. Sau khi dời đô, Lý Thái tổ cho đổi tên thành là Thăng Long, do tương truyền khi thuyền ngự của vua đi đến gần Đại La thì ông trông thấy có rồng vàng bay lên. Thăng Long trở thành trung tâm chính trị, kinh tế và văn hóa quan trọng của Việt Nam trong hàng trăm năm về sau.
Thành quả lớn nhất trong giai đoạn đầu của nhà Lý là thiết lập một nền móng vương quyền vững chắc. Để làm được như vậy thì cần gia tăng quyền lực và uy thế của triều đình trung ương, đồng thời tiêu diệt những thế lực của thủ lĩnh quân phiệt địa phương. Đích thân Lý Thái tổ phải nhiều lần cầm quân đánh dẹp; các hoàng tử về sau được phong vương cũng phải nhiều lần đem quân tham gia công việc bình định. Đây là một công cuộc dài lâu không thể hoàn thành trong ngày một ngày hai và kéo dài suốt trong nhiều đời vua đầu tiên của nhà Lý. Dấu ấn của các thế lực địa phương vẫn rõ nét, sự tập quyền của triều đình trung ương bắt đầu hình thành nhưng còn non trẻ và chưa thật vững. Các thế lực này không phải lúc nào cũng công khai ra mặt chống đối triều đình, nên những cuộc bình định đánh dẹp này diễn ra khá ngắt quãng và trải dài trong rất nhiều năm. Song song với việc dùng vũ lực quân sự, nhà Lý ban thưởng rất hậu với những thế lực chịu quy thuận triều đình. Bằng cách sử dụng xen kẽ cả hai chiến lược tiếp cận này mà đến đời vua thứ 3 là Lý Thánh tông, đại bộ phận các thế lực địa phương đã yên phận, triều đình từ đó về sau không còn phải thường xuyên đem quân đánh dẹp nữa.
Năm 1028, Lý Thái tổ qua đời và thái tử Lý Phật Mã (tức Lý Thái tông) lên kế vị sau khi dẹp yên một cuộc nổi loạn ngắn của ba hoàng tử khác. Cũng vì thế mà sau khi lên ngôi, Lý Thái tông đã đặt ra lệ hằng năm cứ vào tháng 4, các quan phải tới đền Đồng Cổ cùng đọc lời thề rằng: "Làm con phải hiếu, làm tôi phải trung, ai bất hiếu bất trung, xin quỷ thần trị tội." Lệ này còn tiếp tục mãi đến tận thời nhà Trần.
Một việc quan trọng được Lý Thái tông thực hiện là thiết lập sổ đinh bạ để theo dõi số lượng nam giới có thể nhập ngũ trong cả nước khi có việc binh. Vì sử dụng chính sách "ngụ binh ư nông" - binh lính thay phiên nhau làm nhiệm vụ và canh tác nông nghiệp - nên số lượng quân đội nhà Lý không cố định. Mỗi khi có chiến tranh, triều đình sẽ huy động tráng đinh nhập ngũ theo số cần thiết, hết thời chiến thì hầu hết binh lính đều quay về làm nông. Chính sách này là xương sống của nhà Lý và các triều đại về sau, nhằm giảm bớt chi phí quân sự thường trực, duy trì được khả năng sản xuất. Ngoài ra, Lý Thái tông còn cho sửa sang lại luật pháp, định rõ các mức hình phạt, ban hành bộ luật chính thức mang tên "Hình thư", được coi là bộ luật thành văn đầu tiên của Việt Nam. Luật lệ nhà Lý nhìn chung đã bớt khắc nghiệt hơn hai triều Đinh và Tiền Lê nhiều, do ảnh hưởng sâu rộng của Phật giáo.
Một sự kiện đáng chú ý khác là năm 1054, Lý Thái tông qua đời, thái tử Lý Nhật Tôn kế vị, tức vua Lý Thánh tông. Ông đã cho đổi quốc hiệu thành Đại Việt, và đây là quốc hiệu chính thức gần như xuyên suốt được các triều đại sử dụng trong hơn 700 năm về sau, trừ một vài lúc gián đoạn ngắn.
Nền quân chủ của nhà Lý là một tiến bộ rõ nét so với các triều đại trước, nhưng hệ thống này vẫn tương đối hạn hẹp và hầu như thường chỉ giới hạn trong tầng lớp quý tộc. Dù vậy càng về sau, bộ máy cai trị dần hoàn thiện và phức tạp hơn đã dẫn đến nhu cầu phải phát triển giáo dục, hệ thống thi cử cũng theo đó xuất hiện. Năm 1070, Lý Thánh tông cho lập Văn miếu ở cửa nam thành Thăng Long để thờ Khổng Tử và Tứ Phối cùng 72 vị tiên hiền. Đến năm 1076, vua Lý Nhân tông cho lập thêm trường Quốc Tử Giám bên cạnh Văn miếu làm nơi dạy học cho các hoàng tử và con cái quan lại xuất chúng.
Khoa thi đầu tiên của Đại Việt được tổ chức năm 1075, và từ đó cho đến cuối thời nhà Lý, có thêm 6 kỳ thi khác nữa. Có thể thấy rằng các khoa thi không được tổ chức theo thời gian nhất định hay có chương trình được định rõ, mà tùy theo nhu cầu của triều đình. Ngoài ra, khoa thi do triều đình tổ chức cũng không dành riêng cho nho sinh, mà cả những người theo học của đạo Phật hay đạo Giáo cũng tham gia. Nhìn chung Nho học thời này chưa có cơ hội phát triển mạnh, tầm ảnh hưởng chưa rộng và phải san sẻ với cả đạo Giáo và đạo Phật. Đây là một đặc điểm cho thấy rõ tư tưởng thời ấy là Tam giáo đồng nguyên, không độc tôn một hệ tư tưởng nào. Tuy vậy, nhà Lý có phần sủng ái Phật giáo hơn hẳn.
Lý do cho hiện tượng này nhìn chung đến từ việc Phật giáo đã hậu thuẫn cho Lý Thái tổ lên ngôi khi xưa. Và sau đó, Lý Thái tổ nói riêng và nhà Lý nói chung đã làm nhiều việc để đáp lại sự hậu thuẫn đó. Thực tế là chỉ trong vòng 2 năm sau khi lên ngôi, ông đã cho xây thêm 8 chùa mới ở phủ Thiên Đức. Việc xây dựng chùa chiền, đúc tượng được thực hiện thường xuyên trong nhiều đời vua, đều rất công phu; đến mức sử gia Lê Văn Hưu thời Trần còn nhận xét là nhiều chùa còn to đẹp hơn cả cung điện. Hoàng tộc nhà Lý và nhiều quan lại cũng rất sùng đạo Phật, và xu hướng này mãi đến gần hậu kỳ nhà Lý mới giảm bớt. Số lượng nhà sư cũng rất đông đảo, và họ được hưởng nhiều đặc quyền như không phải đóng thuế hay đi lính. Các vị cao tăng vẫn được tham dự việc triều chính, nhưng ảnh hưởng không còn lớn như thời Đinh và Tiền Lê nữa, mà chỉ gói gọn trong việc giáo hóa hoặc giảng kinh. Dù vậy, các vị này vẫn rất được triều đình tôn trọng.
Về sau, ở giai đoạn trung kỳ và hậu kỳ nhà Lý, Phật giáo bình dân bắt đầu có xu hướng biến tướng do ảnh hưởng ngày càng nhiều của Đạo giáo. Các nhà sư bắt đầu được dân chúng và thậm chí vua quan nhìn nhận có những khả năng siêu nhiên. Ảnh hưởng của Phật giáo bắt đầu có những điểm không tốt dẫn đến việc triều đình phải hạn chế và thậm chí cưỡng ép số đông các nhà sư hoàn tục. Tuy vậy, không thể phủ nhận được rằng Phật giáo có ảnh hưởng rất tích cực với nền chính trị giai đoạn đầu của nhà Lý. Nhà Lý cai trị tương đối khoan hòa, không quá khắc nghiệt, các vua thường có những hành động ban ân và giúp đỡ mỗi khi dân chúng đói khổ. Vì vậy nên quãng thời gian thịnh trị của nhà Lý có điều kiện kéo dài đến hơn 100 năm.
Ở trên chúng ta đã nói về một trong những vấn đề giai đoạn đầu của nhà Lý là sự quấy nhiễu và chống đối của các thế lực địa phương - đặc biệt ở các vùng miền núi giáp biên giới phương bắc. Thực tế hầu như các cuộc nổi loạn này thường đều được triều đình kiểm soát thành công, nhưng cá biệt có trường hợp nổi dậy của Nùng Trí Cao thậm chí còn lan đến cả Trung Quốc. Cuộc nổi dậy của Nùng Trí Cao kéo dài đến hơn 10 năm, liên tục quấy phá các vùng phía nam, khiến nhà Tống rất vất vả mới đánh dẹp được.
Cuộc nổi dậy của Nùng Trí Cao đã bộc lộ phần nào sự yếu kém của nhà Tống trong việc kiểm soát các vùng lãnh thổ phía nam. Cộng với việc Đại Việt mạnh dần lên, một số tù trưởng địa phương thậm chí còn chuyển sang thần phục nhà Lý. Vì vậy chỉ mấy năm sau khi loạn Nùng Trí Cao bị dẹp yên, Tri châu Ung Châu lúc đó là Tiêu Chú đã đề xuất ý kiến đánh Đại Việt, nhưng bị triều đình nhà Tống gạt bỏ.
Đến năm 1069, Đại Việt xảy ra chiến tranh với Chiêm Thành và giành được thắng lợi lớn, khiến các nước bên cạnh dè chừng. Lúc này ở Trung Quốc, nhà Tống đang gặp khó khăn nhiều mặt; bên ngoài thì bị nước Tây Hạ mới nổi lên ở tây bắc uy hiếp, bên trong thì mâu thuẫn xảy ra do những cải cách của Vương An Thạch. Do đó, nhiều người trong triều đình nhà Tống chủ trương gây chiến với Đại Việt, chuyển dịch mâu thuẫn ra bên ngoài và hy vọng nếu thành công thì có thể gây dựng được uy thế để khiến Tây Hạ phải chùn chân. Liên tục từ năm 1070 trở đi, nhà Tống bắt đầu có những động thái chuẩn bị chiến tranh, khiến căng thẳng biên giới với Đại Việt tăng cao. Một số quan viên địa phương như Tô Giám - Tri châu Ung Châu - đã lên tiếng can gián, nhưng bị các quan viên phái chủ chiến gạt bỏ.
Ở Đại Việt thì sau khi Lý Thánh tông qua đời năm 1072, thái tử Lý Càn Đức (tức vua Lý Nhân tông) mới 7 tuổi nối ngôi, việc triều chính do các đại thần như Lý Thường Kiệt và Lý Đạo Thành chủ trương. Thái độ của nhà Tống đã khiến Đại Việt cảm thấy nguy cơ xảy ra chiến tranh. Căng thẳng leo thang trong nhiều năm liên tục cộng với những sự chuẩn bị của nhà Tống cho một cuộc chiến đã cho Đại Việt cái cớ hoàn hảo để tấn công phủ đầu trước. Nhà Lý huy động một lực lượng lớn, do Lý Thường Kiệt làm tổng chỉ huy, chia làm hai đạo đánh vào Ung Châu. Sau khi nhanh chóng đánh phá một loạt cứ điểm, quân Đại Việt bắt đầu vây hãm thành Ung Châu vào đầu năm 1076.
Quân giữ thành Ung Châu tuy ít, nhưng Tô Giám kiên quyết tử thủ chờ viện binh. Nhà Tống cử viện binh tới cứu cũng bị Lý Thường Kiệt chặn đường đánh tan. Tuy vậy, vì quân Đại Việt không giỏi đánh thành, cộng thêm Tô Giám nhất định không hàng nên mất tới 42 ngày mới hạ được Ung Châu. Tô Giám không giữ nổi thành, đã giết cả nhà rồi tự vẫn, kể tội những người chủ trương gây hấn trong triều. Quân Đại Việt sau khi hạ thành Ung Châu đã giết đến 58,000 người, sau đó rút về mang theo nhiều chiến lợi phẩm.
Ngay từ khi Đại Việt bắt đầu tấn công, nhà Tống đã chuẩn bị cho một chiến dịch xâm lược. Rồi sau khi Ung Châu bị hạ, Tống Thần tông ra chiếu đánh Đại Việt, mục tiêu vẫn giữ nguyên: tạo dựng uy thế cho nhà Tống trong cuộc tranh chấp với hai nước Tây Hạ và Liêu. Nhà Tống huy động khoảng 10 vạn quân cho chiến dịch, cử Quách Quỳ làm chủ soái, lĩnh chức Chiêu thảo sứ An Nam, Triệu Tiết làm phó. Đầu năm 1077, quân Tống bắt đầu xâm nhập vào lãnh thổ Đại Việt, tiến thẳng về phía Thăng Long. Các lực lượng phòng thủ của Đại Việt đã đánh trả quyết liệt, nhưng cuối cùng đều rút lui vì chênh lệch số lượng quá lớn. Đại quân Tống vì thế tiến được đến bờ sông Như Nguyệt thì gặp phải phòng tuyến vững chắc đã được Lý Thường Kiệt cho xây dựng từ trước để chuẩn bị.
Nhà Tống và các quốc gia xung quanh: Tây Hạ, Liêu, Đại Lí và Đại Việt
Nhà Tống và các quốc gia xung quanh: Tây Hạ, Liêu, Đại Lí và Đại Việt
Kế hoạch của Quách Quỳ và Triệu Tiết là đợi đội thủy quân đến phối hợp và cung cấp lương thảo. Tuy nhiên kế hoạch này đổ bể vì thủy quân Tống đã bị chặn đánh dữ dội ngay từ khi tiến vào và cuối cùng bị đánh tan. Chờ mãi không thấy thủy quân, Quách Quỳ và Triệu Tiết buộc phải liều vượt sông, nhưng mấy lần đều không thành công. Sau 2 tháng, thấy quân Tống bắt đầu mệt mỏi vì bệnh tật và thiếu lương, Lý Thường Kiệt tổ chức phản công. Tuy nhiên cuộc đột kích vào đạo quân của Quách Quỳ đã thất bại và quân Đại Việt chịu thiệt hại khá nặng. Vì thế sau đó Lý Thường Kiệt chuyển mục tiêu sang đánh vào đạo quân của Triệu Tiết và giành thắng lợi, thừa thế quay sang đánh úp tiếp cả đạo quân của Quách Quỳ.
Sau khi giành được lợi thế, Lý Thường Kiệt thay mặt nhà Lý chủ động giảng hòa với Quách Quỳ. Quân Tống đã thiệt hại hơn nửa, rệu rã vì bệnh tật và thiếu lương, nên đành chấp nhận giảng hòa và rút về nước. Chiến dịch này thiệt hại của nhà Tống lên tới hơn 10 vạn người cả lính cả phu, tổn thất hơn 5 triệu lượng vàng mà không thu được kết quả gì đáng kể. Sau cuộc chiến 1075 - 1077, bang giao giữa hai nước dần trở lại quan hệ bình thường như trước.
Sang đến thế kỷ 12 và 13, nhà Lý bắt đầu rơi vào suy yếu. Các vua sau Lý Nhân tông đều lên ngôi khi còn trẻ và không được thọ. Tuy nhiên, đà suy yếu của nhà Lý vẫn tạm thời được kìm hãm nhờ những quan đại thần có năng lực được phó thác triều chính. Thế nhưng đến thời Lý Cao tông, sau khi phụ chính đại thần là Thái úy Tô Hiến Thành mất, triều đình không còn ai đủ khả năng gánh vác nữa. Sự thịnh vượng của nhà Lý được vun đắp qua nhiều đời vua cuối cùng đã biến mất, Đại Việt bắt đầu rơi vào hỗn loạn. Việc triều chính bị bỏ bê, đói kém mất mùa liên tục, nạn mua quan bán tước tràn lan mà Lý Cao tông còn dung túng để làm giàu, các thế lực địa phương lợi dụng việc triều đình suy yếu, bắt đầu tính đến việc nổi loạn cát cứ. Chính những rối loạn cuối thời Lý đã mở đường cho các dòng họ khác nổi lên nắm quyền trong triều. Và trong số đó, phe cánh chiến thắng sau cùng chính là họ Trần.
Sự kiện đánh dấu thời điểm họ Trần có cơ hội tiến vào triều đình chính là Loạn Quách Bốc diễn ra cuối thời Lý Cao tông. Những tranh đấu trong triều đình cộng thêm cách giải quyết chưa tính kỹ đến thế lực các phe cánh đã tạo cơ hội để một bộ tướng tên là Quách Bốc đem quân đánh thẳng vào Thăng Long sau khi chủ của y bị Lý Cao tông bắt giữ. Biến cố xảy ra khiến vua và thái tử phải bỏ kinh thành, mỗi người chạy một ngả. Thái tử Lý Sảm chạy đến Hải Ấp, nương nhờ thế lực họ Trần ở đây. Việc này đã cho họ Trần cơ hội tham gia triều đình, đầu tiên là gả con gái cho Lý Sảm, sau đó là đem lực lượng riêng của mình giúp dẹp loạn. Cuối cùng sau khi Lý Cao tông qua đời cuối năm 1210 và thái tử lên ngôi - tức là Lý Huệ tông; họ Trần chính thức trở thành ngoại thích, bắt đầu cuộc tranh đấu khốc liệt ở triều đình. Dần dần, sau khi đánh bại các phe cánh khác, họ Trần trở thành phe nắm giữ quyền lực lớn nhất trong triều. Đến sau khi giúp nhà Lý trấn áp các thế lực cát cứ địa phương, đã không còn ai đủ khả năng kiềm chế họ Trần nữa. Người họ Trần nắm giữ hầu hết các vị trí quan trọng trong triều đình, nắm giữ cả cấm quân.
Tháng 10 năm 1224, dưới sức ép của họ Trần, Lý Huệ tông lập công chúa thứ hai là Chiêu Thánh làm người kế vị. Vua vốn không có con trai, công chúa lớn là Thuận Thiên thì đã được hứa gả cho con trai lớn của Trần Thừa là Trần Liễu. Không lâu sau đó, Lý Huệ tông nhường ngôi rồi xuất gia đi tu ở chùa Chân Giáo ngay trong đại nội. Chiêu Thánh lên ngôi, lấy hiệu là Chiêu hoàng. Đến cuối năm 1225, Chiêu hoàng lấy con trai thứ hai của Trần Thừa là Trần Cảnh làm chồng. Và đến đầu tháng 12 năm 1225, Chiêu hoàng nhường ngôi cho chồng, nhà Lý chấm dứt ở đây.

Nhà Trần và ba lần chiến thắng Đế quốc Mông - Nguyên

Cuối năm 1225, Lý Chiêu hoàng nhường ngôi cho chồng là Trần Cảnh, nhà Lý kéo dài hơn 200 năm chính thức cáo chung. Trần Cảnh lên ngôi, tức là vua Trần Thái tông; vì bấy giờ mới 8 tuổi nên Trần Thừa là người phụ trách mọi việc trong nước, có Trần Thủ Độ giúp đỡ. Tháng 9 năm 1226 thì Lý Huệ tông bị ép tự vẫn, ngay tháng sau Trần Thừa được tôn làm Thái thượng hoàng, là để hợp thức hóa việc cai trị thay mặt cho vua còn nhỏ tuổi. Đầu năm 1227, nhà Trần cho tổ chức hội thề ở đền Đồng Cổ giống thời Lý để ràng buộc lòng trung thành của bá quan trong triều.
Nhà Trần lấy được ngôi vị, nhưng còn những thế lực chống đối như Đoàn Thượng và Nguyễn Nộn. Họ phải mất công đánh dẹp và chiêu dụ mãi đến năm 1229 mới xong. Ngay sau khi yên ổn tình hình trong nước, nhà Trần cho sứ sang cầu phong với nhà Tống. Năm 1230, nhà Tống phong Trần Thái tông làm An Nam Quốc vương, chính thức công nhận họ Trần làm vua Đại Việt. Năm 1232, nhà Trần viện cớ kỵ húy mà bắt đổi gọi nhà Lý thành nhà Nguyễn để tuyệt lòng dân hướng về nhà Lý; Trần Thủ Độ thậm chí còn ra tay diệt trừ rất nhiều các tôn thất nhà Lý. Nền cai trị của nhà Trần từng bước vững chắc, không thể xô đổ được nữa.
Về cơ bản, nhà Trần giữ lại tổ chức của nhà Lý có sẵn, nhưng hoàn thiện hóa các thể chế và đa dạng hóa nền hành chính, đồng thời tiếp tục đẩy mạnh quá trình tập quyền. Một nét độc đáo của nhà Trần so với các triều đại khác của Việt Nam là tục lệ vua truyền ngôi sớm cho thái tử, trở thành Thái thượng hoàng. Mục đích là để cho thái tử có cơ hội tập quen với công việc cai trị, đồng thời tránh những đấu đá trong triều; nhưng Thái thượng hoàng vẫn nắm những quyết sách quan trọng. Đại Việt thời Trần được cai trị từ cả Thăng Long là nơi vua ở và Thiên Trường là nơi Thái thượng hoàng ở.
Lệ này bắt đầu chính từ quá trình chuyển tiếp ngôi vị từ nhà Lý sang nhà Trần, khi Thái thượng hoàng Trần Thừa mới là người cai trị trực tiếp. Về sau Trần Thái tông cũng làm theo, và lệ này kéo dài đến tận khi nhà Trần diệt vong. Trong khoảng hơn 100 năm đầu tiên, cơ chế này đã giúp triều đình ổn định, không có chuyện rối loạn lúc nhà vua qua đời, quá trình chuyển giao quyền lực giữa các đời rất êm thấm. Nhưng đến giai đoạn cuối, mặt trái của chế độ Thái thượng hoàng xuất hiện, khi bản thân Thái thượng hoàng quá tham quyền lực mà không chịu chia sẻ với vua như giai đoạn đầu. Mặt trái đó là một phần lý do dẫn đến sự suy yếu của nhà Trần, để rồi cuối cùng triều đình rơi vào hỗn loạn, tạo cơ hội cho ngoại thích nắm quyền.
Cũng rút ra bài học từ việc nhà Lý mất ngôi, nhà Trần hầu như chỉ giao các chức vụ quan trọng nhất trong triều cho người hoàng tộc. Thậm chí nhà Trần còn đặt ra chế độ hôn nhân giữa người trong tộc để tránh không cho quyền lực thoát ra ngoài. Tư tưởng vương quyền là của riêng dòng họ còn mạnh đến mức nhà Trần cho phép các thành viên trong hoàng tộc được phong vương có quyền lập thái ấp, điền trang và sở hữu quân riêng. Nhà Trần cũng tiếp tục áp dụng chính sách "ngụ binh ư nông", nhờ vậy mà Đại Việt luôn sở hữu một lực lượng thường trực khá lớn, kết hợp giữa quân cấm vệ kinh thành, quân đồn trú ở địa phương và các đội quân riêng đến từ thái ấp của các thành viên trong hoàng tộc.
Dưới thời Trần, Nho giáo bắt đầu hưng thịnh trong khi Phật giáo tiếp tục đà suy thoái vốn đã xuất hiện từ cuối thời Lý. Dù vậy, vị trí của Phật giáo trong xã hội Đại Việt vẫn tương đối cao. Triều đình vì thế vẫn có những chính sách ưu ái Phật giáo như bỏ tiền dựng chùa mới, tu sửa chùa cũ, đúc chuông và tượng. Những tăng nhân lỗi lạc và được kính trọng cũng có một số đặc ân khá lớn như được cấp ruộng đất và cả nông nô. Nội bộ hoàng tộc nhà Trần cũng có rất nhiều người sùng đạo, có nhiều vị vương xuất gia, thậm chí cả một số nhà vua cũng làm tương tự - tiêu biểu nhất chính là Trần Nhân tông, người sáng lập thiền phái Trúc Lâm.
Vua Trần Anh tông nghênh đón Thái thượng hoàng Trần Nhân tông, một phần của bức "Trúc Lâm đại sĩ xuất sơn đồ"
Vua Trần Anh tông nghênh đón Thái thượng hoàng Trần Nhân tông, một phần của bức "Trúc Lâm đại sĩ xuất sơn đồ"
Dù vậy, đà suy thoái của Phật giáo không hoàn toàn biến mất, mà dần nhường vị trí cho Nho giáo ngày càng phát triển từ giai đoạn hậu kỳ nhà Trần. Điều này diễn ra như một lẽ tự nhiên, khi nền chính trị ngày càng có xu hướng tập quyền, cơ chế hành chính phức tạp và hoàn thiện hơn; và để phục vụ mục đích cai trị đất nước một cách hiệu quả thì Nho giáo là tư tưởng và phương pháp thích hợp hơn nhiều so với Phật giáo hay Đạo giáo. Nền giáo dục Nho học theo đó mà phát triển và mở rộng, triều đình cho đổi Quốc Tử Giám thành Quốc Học Viện năm 1253, cho phép cả những người xuất thân bình thường vào học nếu đủ giỏi, các ngôi trường tư cũng dần nở rộ.
Chuỗi sự kiện nổi tiếng nhất thời Trần là ba cuộc chiến tranh với đế quốc Mông - Nguyên, lần lượt diễn ra vào các năm 1257 - 1258, 1285 và 1287 - 1288. Đây được coi là công trạng lớn bậc nhất của nhà Trần trong công cuộc bảo vệ nền độc lập của Đại Việt.
Quay ngược thời gian vào năm 1225 khi nhà Trần lên ngôi thì lúc đó, Mông Cổ đã trở thành một thế lực hùng mạnh và đáng gờm. Từ những bộ tộc đơn lẻ trên thảo nguyên, Mông Cổ đã thống nhất dưới quyền Thành Cát Tư Hãn và gây chiến với các thế lực xung quanh. Họ đã nhiều lần đánh bại nước Kim - triều đại từng chiếm mất phần phía bắc lãnh thổ nhà Tống vào thế kỷ 12. Năm 1215, Mông Cổ chiếm được Trung Đô của nước Kim; năm 1227 họ tiêu diệt được Tây Hạ; năm 1234 thì hoàn tất việc tiêu diệt nước Kim, chiếm lấy toàn bộ phía bắc Trung Quốc. Từ giai đoạn đó, Mông Cổ bắt đầu cuộc chiến tranh kéo dài nhiều năm với nhà Tống ở phía nam.
Năm 1253, Mông Cổ diệt nước Đại Lý và chiếm toàn bộ vùng Vân Nam. Họ bắt đầu xây dựng căn cứ ở đây để chuẩn bị cho một chiến dịch tấn công nhà Tống từ nhiều phía. Cuối năm 1257, quân trinh sát của tướng Ngột Lương Hợp Thai bắt đầu thăm dò biên giới Đại Việt. Sau đó, Mông Cổ cử sứ giả đến yêu cầu nhà Trần đầu hàng và thần phục. Nhìn chung, Mông Cổ vào thời điểm này muốn biến Đại Việt thành một nước phụ thuộc hoàn toàn; trở thành căn cứ cung cấp lương thảo, vật tư và sức người cho các chiến dịch đánh Tống. Thế nhưng nhà Trần cương quyết từ chối, cho bắt giam sứ giả Mông Cổ. Đây được xem như hành động khiêu khích và tuyên chiến, nên quân Mông Cổ bắt đầu chuẩn bị tấn công Đại Việt. Lực lượng của Mông Cổ trong cuộc chiến này không quá nhiều, chỉ khoảng gần 1 vạn kỵ binh Mông Cổ và 2 vạn hàng quân người Đại Lý.
Dù vậy, sức mạnh của quân Mông Cổ vẫn cực kỳ đáng gờm. Họ nhanh chóng đánh lui được các lực lượng trấn giữ biên giới và tiến thẳng về Thăng Long. Nhà Trần ban đầu chưa lường được hết sức mạnh của quân Mông Cổ, đã huy động đại quân bày trận ở Bình Lệ Nguyên đón địch, đích thân Trần Thái tông ra trận. Tuy nhiên địa thế bằng phẳng đã cho phép kỵ binh Mông Cổ phát huy sở trường; quân nhà Trần tuy đông hơn nhưng không tinh nhuệ bằng. Quân Đại Việt thua nặng trong trận Bình Lệ Nguyên, nhưng vua tôi nhà Trần vẫn rút lui thành công. Quân Mông Cổ sau đó tiếp tục đánh thắng thêm một trận nữa và tiến thẳng về Thăng Long. Trước tình thế nguy cấp, triều đình phải gấp gáp bỏ kinh thành rút lui, không kịp di tản toàn bộ. Quân Mông Cổ vì thế chiếm được thành, cho giết hại dân chúng để trả thù cho việc bắt giam sứ giả. 
Tình thế bấy giờ rất nguy cấp, đến mức cả Thái úy triều đình là Trần Nhật Kiểu cũng ngầm xui vua bỏ nước để chạy sang tị nạn bên nhà Tống. Nhưng Thái sư Trần Thủ Độ vẫn trấn an vua Trần Thái tông rằng: "Đầu thần chưa rơi xuống đất, bệ hạ đừng lo gì khác." Nghĩa là cương quyết chiến đấu đến cùng.
Thực ra Mông Cổ vẫn có điểm yếu là lương thảo chưa chuẩn bị kịp. Nhà Trần tuy bỏ kinh thành một cách gấp gáp, nhưng vẫn sơ tán được vật tư - nên mới có chuyện Mông Cổ không kiếm được lương. Vì vậy nên chỉ mấy ngày sau, Ngột Lương Hợp Thai đã cho chủ lực Mông Cổ rút lui trước. Hậu quân chủ yếu là người Đại Lý rút sau, bị quân Đại Việt phản công đánh bại trong trận Đông Bộ Đầu, sau đó còn tiếp tục bị lực lượng các tộc người thiểu số ở vùng Quy Hóa tập kích.
Các cuộc tấn công của Mông Cổ vào Nam Tống; cuộc chiến năm 1257 với Đại Việt là một trong những hướng tấn công của Mông Cổ để đánh thọc lên Nam Tống từ phía nam
Các cuộc tấn công của Mông Cổ vào Nam Tống; cuộc chiến năm 1257 với Đại Việt là một trong những hướng tấn công của Mông Cổ để đánh thọc lên Nam Tống từ phía nam
Cuộc chiến kết thúc và quân Mông Cổ không đạt được mục đích chính, lại tổn thất binh mã. Nhà Trần sau đó cũng nhận ra sức mạnh đáng sợ của quân Mông Cổ, nên ngay đầu năm 1258 đã sai sứ sang bàn chuyện quy thuận để tránh chiến tranh. Tuy vậy, chuyện quy thuận cũng chỉ trên danh nghĩa là chính, vì hầu hết các điều kiện khắt khe mà Mông Cổ đưa ra, Đại Việt đều tìm cách khước từ. Còn về phía Mông Cổ, họ tạm thời không thể tiếp tục động binh ngay vì Đại Việt chưa phải mục tiêu chính lúc này. Mục tiêu chủ chốt của Mông Cổ vẫn là tiêu diệt được hoàn toàn nhà Tống - và đến năm 1279 việc này mới hoàn tất. Đó là còn chưa kể đến hai chiến dịch đánh Nhật Bản năm 1274 và 1281 đều hứng chịu thất bại nặng nề. Vì vậy mà Đại Việt tạm thời có một khoảng thời gian yên bình quý giá khá dài để chuẩn bị.
Sau cuộc chiến lần thứ nhất, quan hệ giữa nhà Trần với Mông Cổ có khá nhiều căng thẳng. Vì đã quy thuận trên danh nghĩa, nên những năm sau đó Mông Cổ liên tục gia tăng yêu sách, đòi cống hiến đủ thứ, đặc biệt là yêu cầu góp lương và người cho đạo quân Vân Nam để đánh nhà Tống. Dù nhà Trần đã tìm cách khước từ, nhưng Mông Cổ vẫn liên tục chất vấn và thúc giục, đồng thời nhiều lần tìm cách gây khó dễ cho triều đình nhà Trần. Năm 1271, Đại hãn Mông Cổ là Hốt Tất Liệt đổi tên nước thành Đại Nguyên, đẩy mạnh các chiến dịch quân sự, đồng thời liên tục yêu cầu vua Trần phải sang chầu.
Không chỉ đưa ra những yêu sách không ngừng về chuyện triều cống và góp quân lương, nhà Nguyên còn bắt đầu hạch sách về vấn đề biên giới. Yêu sách đưa ra ngày càng nhiều, và nhà Nguyên liên tục tìm cớ để gây hấn; đỉnh điểm là khi nhà Trần đưa Quốc thúc Trần Di Ái sang chầu thay vua năm 1281 thì nhà Nguyên lập tức lấy cớ vua Trần chưa được lệnh đã lên ngôi mà phong Trần Di Ái làm An Nam Quốc vương rồi cử người hộ tống về nước để lên ngôi.
Tất nhiên đây chỉ là âm mưu của nhà Nguyên khi muốn lợi dụng Trần Di Ái để có cớ xâm lược Đại Việt. Thế nhưng âm mưu này không hoàn toàn thành công. Đại Việt cho người chặn phái đoàn của nhà Nguyên lại, chỉ cho sứ giả Sài Thung và tùy tùng đến Thăng Long. Sau đó tiếp tục ngầm cho người tập kích lực lượng hộ tống, khiến Trần Di Ái phải bỏ chạy. Đến năm sau, Trần Di Ái trở về đầu thú ở Thăng Long và bị xử tội. Âm mưu không thành, nhưng nhà Nguyên vẫn có cớ để gây xung đột.
Tháng 8 năm 1282, nhà Nguyên cử Toa Đô đem đại quân đi đánh Chiêm Thành, có lẽ cùng mục đích tạo bàn đạp để sau này đánh Đại Việt từ cả 2 phía. Tháng 10 năm 1282, nhà Trần cho triệu vương hầu và bá quan ở Bình Than, bàn kế sách công thủ và chia nhau đóng giữ những nơi hiểm yếu, đồng thời thăng Chiêu Minh vương Trần Quang Khải lên làm Thượng tướng Thái sư. Đến năm sau, lại có tin nhà Nguyên rục rịch động binh ở biên giới. Nhà Trần lập tức sai vương hầu điều các quân thủy bộ để tập trận, phong Hưng Đạo vương Trần Quốc Tuấn làm Quốc công Tiết chế, thống lĩnh binh mã cả nước.
Trong khoảng thời gian này, nhà Nguyên hai lần sai sứ sang Đại Việt yêu cầu giúp binh lương để đánh Chiêm Thành; nhưng nhà Trần tìm lý do từ chối cả hai lần. Trong khi đó ở Chiêm Thành, Toa Đô sau khi đánh thắng quân chính quy và chiếm được kinh đô nước này thì không thu được thêm thành quả gì. Người Chiêm Thành trốn cả vào núi, tiến hành chiến tranh du kích khiến quân Nguyên gặp rất nhiều khó khăn. Đến tháng 3 năm 1284, Toa Đô buộc phải đốt cả doanh trại và rút quân, không thể duy trì việc đồn trú. Chiêm Thành mặc dù xin hàng, nhưng chỉ trên danh nghĩa. Chiến dịch đánh Chiêm Thành của nhà Nguyên vậy là thất bại.
Đến cuối năm 1284 thì chiến tranh đã trở thành chuyện sớm muộn. Vào tháng 7 năm đó, sau thất bại ở Chiêm Thành; Nguyên Thế tổ Hốt Tất Liệt lệnh cho Trấn Nam vương Thoát Hoan cùng Tả thừa Lý Hằng hợp với quân Toa Đô đánh Chiêm Thành. Lấy cớ vì Đại Việt đồng mưu với Chiêm Thành, lệnh cho quân mượn đường đi qua và trưng thu lương thảo cấp cho quân. Ngay tháng 8, Hưng Đạo vương đã cho duyệt binh ở Đông Bộ Đầu để chuẩn bị, sau đó chia quân đóng giữ các nơi. Trong những nỗ lực cuối cùng, nhà Trần tìm cách xin nhà Nguyên hoãn binh để có thêm thời gian chuẩn bị, nhưng không thành. Đến tháng 12, triều đình cho triệu tập phụ lão trong nước tới điện Diên Hồng, ban yến và hỏi kế hòa hay đánh. Phụ lão đều đồng thanh xin đánh.
Giữa tháng 12 năm 1284, đại quân nhà Nguyên tiến sát biên giới Đại Việt, bắt đầu chia đường tiến đánh. Giai đoạn ban đầu, quân Nguyên tiến ồ ạt, liên tục đánh bại quân Đại Việt ở các ải Nội Bàng và Chi Lăng, thu được rất nhiều thuyền chiến. Đến đầu năm 1285, hai bên đánh lớn ở Vạn Kiếp, quân Trần tiếp tục thua lớn phải rút lui. Quân Nguyên bắt đầu vượt sông Hồng và tiến về Thăng Long. Triều đình nhà Trần phải gấp rút di tản, chấp nhận bỏ lại kinh thành. Tình hình càng lúc càng nguy cấp khi hai vua Trần bị quân Nguyên truy đuổi gắt gao; hai vùng Nghệ An và Thanh Hóa thì bị quân của Toa Đô từ Chiêm Thành đánh lên chiếm lấy. Một loạt quan tướng sợ hãi đầu hàng, thậm chí có nhiều tông thất nhà Trần như Văn Nghĩa hầu Trần Tú Hoãn, Chương Hiến hầu Trần Kiện, Chương Hoài hầu Trần Văn Lộng,... cũng đem thuộc hạ và gia đình ra hàng. Thế nhưng nghiêm trọng nhất là sự đầu hàng của Chiêu Quốc vương Trần Ích Tắc - em trai Thái thượng hoàng Trần Thánh tông. Tình cảnh nguy nan đến mức nhà Trần phải liên tục cử sứ sang xin hòa và thậm chí dâng cả công chúa An Tư cho Thoát Hoan.
Lược đồ cuộc chiến lần thứ hai
Lược đồ cuộc chiến lần thứ hai
Bị ép từ cả hai phía, hai vua Trần đánh liều rút sang phía đông, tìm cách dùng nghi binh dụ quân Nguyên đuổi theo rồi bất ngờ vòng xuống chiếm lại vùng Thanh Hóa và Nghệ An. Sau khi tạm yên rồi, nhà Trần bắt đầu củng cố lại lực lượng. Dần dần tình thế xoay chuyển khi quân Nguyên bắt đầu thiếu lương ăn, dịch bệnh hoành hành do trời chớm vào hè, khí hậu nóng nực làm quân Nguyên không chịu được. Không còn cách nào khác, Thoát Hoan bắt đầu tính đến chuyện rút quân.
Đầu tháng 4, quân Nguyên bắt đầu đưa những kẻ đầu hàng về trước. Đám Trần Kiện và Trần Tú Hoãn đến ải Chi Lăng thì bị thổ hào Nguyễn Thế Lộc cùng gia binh của Hưng Đạo vương phục kích. Trần Kiện bị bắn chết, Trần Tú Hoãn chạy được nhưng người trong nhà đều chết trong loạn quân.
Tình trạng thiếu lương và bệnh tật hoành hành trong quân Nguyên càng lúc càng cấp bách, Thoát Hoan không ở lại Thăng Long nữa mà cho quân sang bờ bắc sông Hồng để chuẩn bị rút lui. Nhà Trần sau đó lập tức tiến hành tổng phản công trên mọi mặt trận, đánh thắng những trận lớn ở Hàm Tử Quan, Chương Dương Độ và Tây Kết; chém được Toa Đô và suýt bắt được Ô Mã Nhi. Lực lượng của Thoát Hoan dọc đường rút chạy cũng liên tục bị chặn đánh và phục kích mãi đến tận biên giới, tổn thất rất nhiều. Quân Nguyên liều chết mới rút về được qua biên giới, Thoát Hoan phải chui vào đồ bằng đồng để tránh tên, Lý Hằng ở lại chặn hậu thì bị bắn chết. Cuộc chiến vậy là kết thúc với thắng lợi thuộc về Đại Việt.
Thất bại ở Đại Việt khiến nhà Nguyên khó nuốt trôi được, và họ ráo riết chuẩn bị một chiến dịch khác. Lần này, nhà Nguyên quyết tâm chuẩn bị kỹ lưỡng và sẽ trực tiếp đánh Đại Việt luôn chứ không lòng vòng chia quân đánh từ Chiêm Thành lên nữa. Tháng 2 năm 1286, nhà Nguyên phong cho Trần Ích Tắc làm An Nam Quốc vương, chọn các tướng lĩnh sẽ dẫn binh chinh phạt, đồng thời bắt đầu huy động binh lính và dân phu. Tuy vậy, những khó khăn của việc chuẩn bị cho đại quân đè nặng đã khiến nhà Nguyên không thể lập tức phát động chiến tranh trong năm 1286. Thực tế là việc chuẩn bị phải tạm ngừng đến mãi cuối năm mới tiếp tục. Đến cuối năm 1287 thì đại quân Nguyên mới bắt đầu tiến quân sang Đại Việt, vẫn do Thoát Hoan làm tổng chỉ huy. Và lần này để khắc phục vấn đề lương thảo, nhà Nguyên đặt riêng một hạm đội thủy quân gồm hơn 500 chiến thuyền và 70 thuyền vận lương.
Ngay giai đoạn đầu cuộc chiến, nhà Trần đã cử người phục kích thủy quân địch ở Đa Mỗ, mục đích là tấn công những thuyền lương đi theo hạm đội của Ô Mã Nhi. Thủy quân của Ô Mã Nhi tiến được vào cửa biển Vân Đồn mà không tổn hại gì, nhưng số thuyền lương đi theo thì bị mất sạch. Ở trên bộ thì cũng như lần trước, quân Nguyên ban đầu tiến rất nhanh, đánh thắng nhiều trận và chiếm được cả Vạn Kiếp, buộc quân Trần phải rút lui liên tục.
Lúc này thì thủy quân của Ô Mã Nhi cũng đánh vào Vân Đồn, Nhân Huệ vương Trần Khánh Dư đem quân chặn đánh nhưng thua. Thái thượng hoàng cử trung sứ tới định bắt về kinh trị tội, nhưng Nhân Huệ vương biết đoàn thuyền vận lương chính của Trương Văn Hổ sắp đi qua, nên cố gắng xin khất vài ngày để lập công chuộc tội. Quả nhiên sau đó đoàn thuyền lương của quân Nguyên tới, trúng kế phục binh của quân Trần. Trương Văn Hổ chỉ có ít quân hộ tống nên không đánh lại được, bèn cho đánh chìm toàn bộ 17 vạn thạch lương rồi chạy trốn về Quỳnh Châu. Việc mất toàn bộ lương thực có thể coi là đòn giáng nặng nề nhất vào quân Nguyên.
Không có lương thảo vận đến, Thoát Hoan phải ra lệnh cho quân lính đi khắp nơi cướp bóc. Việc 17 vạn thạch lương bị mất lúc này đại quân Nguyên còn chưa biết, nên họ vẫn tiếp tục tiến quân để chờ Trương Văn Hổ tới. Đầu năm 1288, Thoát Hoan ra lệnh chia quân cùng tiến về Thăng Long, đánh lui các đạo phục binh nhà Trần. Một lần nữa, quân Nguyên vượt sông Hồng áp sát Thăng Long; hai vua tiếp tục chấp nhận bỏ kinh thành rút lui. Đến sau đó, nhà Trần mới thả tù binh do Nhân Huệ vương bắt được về. Thoát Hoan đến bấy giờ mới biết đoàn thuyền lương đã bị chặn đánh, bèn sai Ô Mã Nhi đem thuyền đi ngược ra biển tìm kiếm Trương Văn Hổ. Ô Mã Nhi tiếp tục đụng độ quân của Nhân Huệ vương và đánh một trận lớn, rất vất vả mới vượt qua được nhưng không thể tìm được Trương Văn Hổ. Chưa kể đến các đoàn thuyền vận lương phụ khác của quân Nguyên vì nhiều lý do cũng không đến nơi được. Vậy là toàn bộ số lương thảo được chuẩn bị đều không được việc gì.
Nhà Trần biết rõ quân Nguyên thiếu lương nên không vội đánh, chỉ cho người quấy nhiễu và giả vờ sai sứ sang xin hòa. Đến cuối cùng, Thoát Hoan vẫn phải ra lệnh rút quân theo hai đường thủy bộ. Thoát Hoan đi cùng cánh quân đường bộ, tiếp tục gặp phục binh và vất vả mãi mới rút về được qua biên giới. Thủy quân nhà Nguyên do Ô Mã Nhi chỉ huy rút theo hướng sông Bạch Đằng để ra biển; dọc đường liên tục gặp phục kích và cuối cùng lọt vào ổ mai phục lớn nhất. Từ trước đó, Hưng Đạo vương đã cho đóng rất nhiều cọc nhọn bọc sắt dưới lòng sông, phủ cỏ lên để che giấu, sử dụng lại cách Ngô Quyền đánh quân Nam Hán khi xưa. Rồi khi thủy triều lên thì cho người xông ra dụ địch, đến khi thủy quân Nguyên lọt vào trận địa và vướng cọc lúc thủy triều xuống thì quân Trần mới đổ ra đánh. Quân Nguyên thua to; Trương Ngọc tử trận; Ô Mã Nhi, Phàn Tiếp và Tích Lệ Cơ bị bắt sống. Hạm đội thủy quân nhà Nguyên hầu như đều bị tiêu diệt.
Lược đồ cuộc chiến lần thứ ba
Lược đồ cuộc chiến lần thứ ba
Chiến tranh kết thúc, nhà Trần ngay sau đó liên tiếp cử sứ giả sang tạ lỗi, nộp đồ cống và hứa trả tù binh. Nhưng nhà Nguyên vẫn lên tiếng hăm dọa và sẵn sàng phát động thêm một cuộc chiến nữa. Đầu năm 1289, nhà Trần bắt đầu cho đưa tù binh về; Tích Lệ Cơ được đưa về đầu tiên, Phàn Tiếp đã bệnh chết thì đưa tro cốt cùng vợ con về, Ô Mã Nhi đi chuyến sau cùng, nhưng ra đến giữa biển thì thuyền bị đắm, Ô Mã Nhi bỏ mạng.
Trong vài năm sau đó, quan hệ giữa Đại Việt và nhà Nguyên vẫn lửng lơ ở thế căng thẳng. Hốt Tất Liệt vẫn nuôi tham vọng tiến hành một cuộc chiến nữa, thậm chí đã bắt đầu cho chuẩn bị binh mã lương thảo vào năm 1293. Thế nhưng đầu năm 1294, Hốt Tất Liệt qua đời, vua mới là Nguyên Thành tông đình chỉ việc xâm lược Đại Việt. Mối họa coi như đã chấm dứt, và Đại Việt thực sự bước ra khỏi chiến tranh.
Dù đã trải qua liên tiếp hai cuộc chiến tranh khốc liệt, nhưng Đại Việt sau đó đã từng bước hồi phục và thịnh vượng trở lại. Đồng thời sang đến thế kỷ 14, Đại Việt đã có cơ hội mở rộng thêm lãnh thổ về phía nam. Năm 1301, Thái thượng hoàng Trần Nhân tông đến thăm Chiêm Thành; để thắt chặt quan hệ hai nước, ông hứa gả công chúa Huyền Trân cho vua Chế Mân. Ban đầu triều đình nhà Trần do dự trước cuộc hôn nhân này, nhưng sau khi Chế Mân hứa dâng hai châu Ô và Lý thì vua Trần Anh tông quyết đồng ý. Năm 1306, công chúa đến kinh đô Chiêm Thành là Chà Bàn thì đến năm sau đó, Chiêm Thành cắt hai châu dâng cho Đại Việt. Nhà Trần đổi tên hai châu này thành châu Thuận và châu Hóa, sau đó đặt quan cai trị. Nhưng ngay trong năm 1307, Chế Mân qua đời, nhà Trần tìm cách đưa công chúa về nước. Quan hệ giữa Chiêm Thành và Đại Việt giai đoạn sau dần trở nên căng thẳng, liên quan đến hai châu mới được cắt này.
Giai đoạn sau, nhà Trần bắt đầu bước vào giai đoạn suy yếu dần. Tuy tình hình chưa đến mức bi đát vì vẫn còn Thái thượng hoàng Trần Minh tông ra mặt cai trị. Nhưng từ sau khi ông qua đời năm 1357, nhà Trần xuống dốc không phanh vì vua Trần Dụ tông chỉ lo ăn chơi hưởng lạc, không màng cai trị. Các vương hầu trong hoàng tộc cũng chẳng khá hơn, khi hầu hết đều bắt đầu ăn chơi, ít người còn giữ được phẩm chất như các bậc tổ tiên. Nạn mất mùa và thiên tai dần nổi lên, càng khiến Đại Việt thêm hỗn loạn. Các cuộc nổi dậy bắt đầu nổ ra với quy mô ngày càng lớn.
Khủng hoảng còn xảy ra với hoàng tộc năm 1369 khi Trần Dụ tông qua đời mà không có con nối dõi. Thái hậu bèn chọn Trần Nhật Lễ là con trai của người anh vua Trần Dụ tông lên làm vua. Nhưng việc Trần Nhật Lễ lên ngôi không được lòng các nhánh tông thất khác nên loạn sớm xảy ra, dẫn đến việc con trai thứ 3 của Trần Minh tông là Cung Định Đại vương Trần Phủ phát động binh biến giành lấy ngôi vị vào năm 1370. Trần Phủ lên ngôi, tức là vua Trần Nghệ tông, và chính ông đã mở đường cho sự sụp đổ của nhà Trần bằng cách trọng dụng quá mức ngoại thích của mình là Lê Quý Ly. Trần Nghệ tông ở ngôi đến năm 1372 rồi truyền ngôi lại cho em là Cung Tuyên vương Trần Kính - tức vua Trần Duệ tông, bản thân lên làm Thái thượng hoàng.
Nhà Trần trong khoảng 30 năm cuối cùng suy yếu đến cực điểm. Loạn lạc xảy ra trong nước đã đành, mà Đại Việt còn nhiều lần bại trận trước Chiêm Thành của vua Chế Bồng Nga. Thậm chí kinh thành Thăng Long còn nhiều lần bị đốt phá cướp bóc, vua Trần Duệ tông thân chinh đi đánh Chiêm Thành rồi tử trận năm 1377. Phải nhờ đến sự dũng cảm của người trong hoàng tộc là Trần Khát Chân khi giết được Chế Bồng Nga năm 1390 mà Đại Việt mới thoát nạn.
Trong khi đó, rối loạn trong triều ngày càng tăng khi Lê Quý Ly thâu tóm quyền lực và được Thái thượng hoàng Trần Nghệ tông chống lưng. Sự lộng quyền của Lê Quý Ly nghiêm trọng đến mức ông ta còn thuyết phục được Thái thượng hoàng ban chết cho Phế đế Trần Nghiễn năm 1388, sau khi nhà vua định tìm cách diệt trừ phe cánh Lê Quý Ly. Sau khi Thái thượng hoàng Trần Nghệ tông qua đời năm 1395, dần dần không ai còn khả năng kiềm chế ông ta nữa. Ngay trong năm đó, Lê Quý Ly sai người vào Thanh Hóa là quê gốc của ông ta để xây thành, rồi bắt Trần Thuận tông dời đô vào trong đó, Thăng Long trở thành Đông Đô. Năm 1398, Lê Quý Ly ép vua nhường ngôi cho thái tử Trần An mới hơn 2 tuổi, rồi sau ngầm cho người giết Trần Thuận tông đi. Một số tông thất nhà Trần họp nhau tìm cách diệt trừ Lê Quý Ly, nhưng cuối cùng sự việc không thành, tất cả đều bị bắt giết đến mấy trăm người. Đến năm 1400, Lê Quý Ly ép Thiếu đế Trần An nhường ngôi, đổi tên thành Hồ Quý Ly, lập ra nhà Hồ và thay quốc hiệu thành Đại Ngu. Ngay trong năm sau, Hồ Quý Ly nhường ngôi cho thái tử Hồ Hán Thương, trở thành Thái thượng hoàng.
Nhà Trần chính thức cáo chung sau 175 năm tồn tại.

Nhà Hồ, cuộc xâm lược của nhà Minh và những nỗ lực kháng cự của nhà Hậu Trần

Nhà Hồ là một triều đại gây ra nhiều tranh cãi trong lịch sử Việt Nam. Đời sau thường nhớ đến Hồ Quý Ly với những cải cách của ông ta, vốn đã bắt đầu được thực hiện ngay từ giai đoạn chưa đoạt ngôi nhà Trần. Tuy vậy, những cải cách của Hồ Quý Ly phần nhiều đều thất bại, khoét sâu và thậm chí còn tạo thêm những mâu thuẫn xã hội ở Đại Việt.
Trên thực tế, các cuộc cải cách của Hồ Quý Ly đã bắt đầu được xúc tiến thực hiện từ trước khi ông ta đoạt ngôi nhà Trần. Năm 1396, Hồ Quý Ly cho ban hành tiền giấy và đặt ra tỷ giá đổi với tiền đồng. Triều đình bắt buộc cả nước phải đổi tiền và cấm sử dụng cũng như cất giấu tiền đồng; ai vi phạm sẽ bị phạt như tội làm tiền giả. Mục đích chính của việc phát hành tiền giấy thực ra là để thu gom kim loại để đúc súng, làm vũ khí. Mặc dù có lệnh bắt buộc, nhưng người dân vẫn không ưa dùng tiền giấy và tìm mọi cách để tránh né. Mực in trên tiền giấy cũng rất dễ trôi, chỉ cần dính nước là hỏng, tờ tiền mất luôn giá trị. Mà loại tiền giấy của Hồ Quý Ly cho ban hành rất dễ làm giả, chẳng có công nghệ gì để phòng chống. Ngoài ra, vì mục đích của việc ban hành tiền giấy là để thu kim loại, nên triều đình cũng thường in thêm tiền nếu cần, dẫn đến lạm phát nghiêm trọng.
Một cải cách nữa mà Hồ Quý Ly ban hành chính là các chính sách hạn điền, hạn nô - tức là giới hạn quyền sở hữu đất đai và nông nô của quý tộc. Chính sách này được ban hành năm 1397, mục đích là để giảm bớt quyền lực của tông thất nhà Trần, phục vụ tham vọng đoạt quyền của Hồ Quý Ly. Tuy nhiên chính vì tác động trực tiếp tới quyền lợi của quý tộc, nên mâu thuẫn giữa họ với Hồ Quý Ly càng thêm sâu sắc, và ngày càng nghiêm trọng hơn sau khi nhà Hồ thành lập.
Ngoài ra, Hồ Quý Ly còn ban hành nhiều chính sách cải cách khác - cả giai đoạn trước và sau khi nhà Trần sụp đổ. Những cải cách đó trải dài nhiều lĩnh vực; ví dụ như cải cách giáo dục và chế độ thi cử nhằm tạo ra một tầng lớp trí thức mới có lòng trung thành với chính quyền họ Hồ; cải tổ các loại thuế; thiết lập sổ hộ tịch để gia tăng lực lượng quân đội thường trực. Tuy nhiên, các chính sách cải cách của Hồ Quý Ly đều thực hiện quá gấp rút, và chưa có thời gian để cho thấy kết quả. Các chính sách tiền giấy và hạn điền - hạn nô thì động chạm trực tiếp đến quyền lợi của quý tộc và địa chủ, khoét sâu thêm mâu thuẫn có sẵn giữa họ với chính quyền họ Hồ. Những hành động chuyên quyền thoán đoạt của Hồ Quý Ly cũng khiến họ bất bình và chống đối. Những lý do đó đã góp phần khiến nhà Hồ không tạo được sự đoàn kết cần thiết khi phải đối mặt với cuộc xâm lăng quy mô lớn của nhà Minh.
Bản đồ nhà Minh
Bản đồ nhà Minh
Bấy giờ ở Trung Quốc, nhà Nguyên đã sụp đổ và phải rút lui về vùng thảo nguyên phương Bắc, thay thế bởi nhà Minh - triều đại do Chu Nguyên Chương thành lập năm 1368. Vào giai đoạn cuối nhà Trần, mâu thuẫn với nhà Minh tăng cao do tranh chấp một số khu vực biên giới. Trên thực tế, bấy giờ triều đình đã hoàn toàn rơi vào tay Hồ Quý Ly, nên cũng có thể nói là nhà Minh đã có ý không hài lòng với cách xử sự của Đại Việt từ thời điểm đó, nhưng tạm chưa có động thái gì.
Đến sau khi Hồ Quý Ly đoạt ngôi nhà Trần đã cử sứ sang dâng biểu và đồ cống để mong nhà Minh thừa nhận mình làm chư hầu thay cho nhà Trần. Vua nhà Minh lúc ấy là Minh Thành tổ Chu Đệ đã đồng ý, phong Hồ Hán Thương làm An Nam Quốc vương. Thế nhưng rắc rối nhanh chóng xảy ra khi nhà Hồ đem quân đánh Chiêm Thành, khiến nước này phải cầu cứu nhà Minh. Rồi đến năm 1404, một người là Trần Thiêm Bình tự xưng là con của Trần Nghệ tông đã chạy sang Trung Quốc cầu cứu, xin nhà Minh đem quân đánh báo thù và lập lại nhà Trần. Nhà Minh bèn cử người sang dò xét và hỏi về việc ấy, rồi đe dọa nhà Hồ phải lập lại nhà Trần nếu không sẽ cất quân sang đánh. Nhà Hồ bấy giờ sai sứ sang dâng biểu tạ tội và đồng ý đón Trần Thiêm Bình về lập làm vua.
Đầu năm 1406, nhà Minh cử 5000 quân đi theo hộ tống Trần Thiêm Bình về nước. Quân Minh tiến đến cửa Lãnh Kinh và đánh thắng quân thủy bộ nhà Hồ do Tả tướng quốc Hồ Nguyên Trừng chỉ huy. Nhưng sau đó một cánh quân khác của nhà Hồ kéo đến đánh úp, khiến quân Minh thua trận phải rút lui; đến ải Chi Lăng thì bị chặn lại. Quân Minh để rút lui an toàn trở về, buộc phải giao Trần Thiêm Bình cho nhà Hồ. Nhà Hồ bắt được Trần Thiêm Bình rồi, đem về lăng trì xử tử. Việc này càng khiến nhà Minh tức giận và hạ quyết tâm xuất chinh đánh nhà Hồ.
Lược đồ cuộc xâm lược Đại Ngu của nhà Minh
Lược đồ cuộc xâm lược Đại Ngu của nhà Minh
Ngay trong năm 1406, nhà Minh huy động một lực lượng đông đảo lên tới hơn 22 vạn người để chuẩn bị xâm lược Đại Ngu. Ban đầu, nhà Minh cử Thành quốc công Chu Năng làm Đại tướng quân, hai người Mộc Thạnh và Trương Phụ làm tả hữu phó tướng. Nhưng quân còn chưa kịp tiến sang thì Chu Năng bệnh mất, triều đình nhà Minh cử Trương Phụ chỉ huy thay. Tháng 11 năm 1406, quân Minh chia làm hai đường tiến sang Đại Ngu - cánh quân Trương Phụ tiến vào từ Quảng Tây đánh xuống ải Pha Lũy thuộc Lạng Sơn, cánh quân Mộc Thạnh tiến vào từ Vân Nam đánh xuống ải Phú Lệnh rồi tiến dọc theo sông Hồng.
Để chuẩn bị cho cuộc chiến, nhà Hồ cho đắp thành Đa Bang, đóng cọc và dựng chiến lũy dài hàng trăm km ở dọc bờ sông Hồng; đồng thời cho phép quý tộc chiêu mộ người để thành lập các đội tư binh. Nhà Hồ chọn không lập tức giao chiến với quân Minh ở biên giới, mà tập trung trấn giữ hệ thống phòng thủ đồ sộ ở thành Đa Bang và quanh sông Hồng. Vì vậy quân Minh dễ dàng tiến sâu được vào lãnh thổ. 
Ngoài ra khi tiến sang, quân Minh đã viết bảng văn kể tội của nhà Hồ và tuyên bố mục đích của cuộc chiến là để diệt trừ loạn thần, tìm con cháu họ Trần lên làm vua. Mục đích chính là để hy vọng thu phục được một bộ phận quý tộc, quan lại và tướng lĩnh cũ của nhà Trần. Chiêu bài chiến tranh tâm lý này quả thực đã thành công, khi lôi kéo được không ít những người còn trung thành với nhà Trần. Tình thế này càng khiến công cuộc phòng thủ của nhà Hồ gặp thêm nhiều khó khăn. Nhiều lực lượng chưa đánh đã hàng, số người từ bỏ triều đình nhà Hồ cũng chẳng ít.
Cuối năm 1406, hai bên giao chiến lớn ở Đa Bang. Quân Minh ngay trong đêm cho đốt đuốc, thổi tù và, liên tục tấn công thành, dù chết la liệt cũng không ngừng. Quân nhà Hồ bèn bày trận, mở cửa thành dùng voi chiến để tấn công. Thế nhưng quân Minh dùng hỏa tiễn bắn voi, lại trùm hình sư tử lên mình ngựa, khiến voi chiến nhà Hồ bị dọa sợ mà chạy ngược trở lại. Quân Minh thừa thế tấn công vào theo, nhà Hồ vỡ trận, thành Đa Bang bị hạ, hàng loạt phòng tuyến dọc sông Hồng theo đó mà tan rã. Sau đó, quân Minh tiếp tục tiến tới Đông Đô và chiếm được thành. Triều đình nhà Hồ lúc ấy đã rút lui từ trước.
Đến đầu năm 1407, quân Minh tiếp tục tấn công, nhưng quân nhà Hồ liên tục thua trận, phải vừa đánh vừa rút về Thanh Hóa rồi sau đó là Nghệ An. Quân Minh chiếm được hầu hết vùng đồng bằng châu thổ rồi, bèn giả vờ cho người đi tìm con cháu họ Trần, nhưng thực chất là để giết đi. Thế nhưng một số quan lại và bô lão người Việt đến tâu rằng họ Trần đã bị hại cả, xin nhà Minh cho nội thuộc lại giống như Giao Châu khi xưa. Tất nhiên đây chỉ là vở kịch do quân Minh lập nên, để lấy cớ chính thức hóa việc sáp nhập lãnh thổ nước Việt lại vào Trung Quốc lần nữa. Dù sao thì đó cũng chính là mục đích sâu xa cho cuộc xâm lược quy mô lớn này.
Đến mùa hè năm 1407, những nỗ lực chống cự cuối cùng của nhà Hồ đã thất bại khi Chiêm Thành cũng nhân cơ hội đem quân lấy lại những nơi từng bị nhà Hồ chiếm mất lúc trước. Những lực lượng còn lại của nhà Hồ hầu như đều không đánh mà tan. Cuối cùng, cha con tông tộc họ Hồ đều bị bắt đem về Trung Quốc, nhà Hồ sụp đổ. Nhà Minh ngay sau đó cho sáp nhập toàn bộ lãnh thổ nước Việt, chia châu phủ, đổi lại tên thành quận Giao Chỉ. Trị sở đặt tại Đông Đô và được đổi tên thành Đông Quan. Sau năm thế kỷ độc lập, một lần nữa nước Việt lại bước vào giai đoạn bị phương Bắc đô hộ.
Sau khi diệt nhà Hồ, quân Minh đã lùng tìm người tài và thợ giỏi các ngành nghề để bắt đưa về Trung Quốc. Công cuộc thu vét sản vật các loại liên tục được tiến hành trong thời gian đô hộ; thuế khóa cũng như lao dịch rất nặng, bởi lẽ những quan cai trị được cử sang phần lớn đều tìm cách vơ vét cho đầy túi.
Không chỉ bị đô hộ, nhà Minh còn triệt để thực hiện các chính sách triệt tiêu văn hóa bản địa, đặc biệt là công cuộc tàn phá văn hóa nước Việt được tiến hành cực kỳ mạnh mẽ. Ngay từ trước khi cuộc xâm lược diễn ra, Minh Thành tổ đã hạ chiếu bảo quân tướng rằng: "Quân vào An Nam, trừ bản kinh, kinh văn về Thích, Đạo thì không hủy, còn nhất thiết các ván khắc, sách in, văn tự, cho đến những lễ tục, câu trẻ con học, một mảnh giấy một con chữ cũng đều hủy đi hết."
Đến năm 1407, Minh Thành tổ tiếp tục ra chiếu lệnh thứ hai, nói rõ rằng: "Nhiều lần trẫm đã bảo các ngươi; phàm An Nam có văn tự gì, kể cả các câu hát dân gian,… các bia dù dựng lên một mảnh, hễ trông thấy là phá hủy hết. Sách vở do quân lính bắt được phải ra lệnh đốt luôn, chớ được lưu lại." Chính những hành động này đã góp phần gây ra những tổn thất nặng nề về văn hóa không thể bù đắp được.
Nhà Hồ tuy đã thất bại trong việc bảo vệ quyền độc lập, nhưng không phải tất cả người Việt đều chấp nhận việc bị đô hộ - đặc biệt là những tông thất, quan lại và tướng lĩnh cũ của nhà Trần. Họ là những người đã nhìn rõ tham vọng thật sự của nhà Minh sau màn kịch "các bô lão xin được nội thuộc lại như cũ".
Khi nhà Hồ diệt vong, một người con của Trần Nghệ tông là Trần Ngỗi đã chạy trốn được đến Ninh Bình. Trần Ngỗi khi trước từng được phong tước Giản Định vương, đến thời nhà Hồ thì cải phong thành Nhật Nam quận vương. Bấy giờ ông được nhiều người ủng hộ, bèn lên ngôi ở Ninh Bình, xưng là Giản Định đế, tái lập nhà Trần, sử về sau gọi là nhà Hậu Trần.
Ngay khi biết tin, quân Minh đã đến đánh. Nhà Hậu Trần vừa tái lập, lực lượng còn yếu nên nhanh chóng thất bại, Giản Định đế phải chạy vào Nghệ An. Ở đó, nhiều quan lại tướng lĩnh còn trung thành với nhà Trần nghe tin, bèn nổi dậy giết quân Minh, đem lực lượng đến theo. Trong số đó có hai người đóng vai trò quan trọng là Đặng Tất và Nguyễn Cảnh Chân, một người lo việc binh trên chiến trường, một người phụ trách tham mưu. Sau khi bị quân Minh đánh bại lần nữa, lực lượng Hậu Trần tiếp tục phải quay trở lại Nghệ An. Tại đây, Giản Định đế cho bắt giết một số tướng lĩnh và tông thất nhà Trần làm quan cho nhà Minh. Nhà Hậu Trần bắt đầu tìm cách mở rộng lực lượng và chống đỡ với những đợt tấn công của quân Minh.
Kỵ binh nhà Minh, tranh vẽ thời Minh Thế tông (1521 - 1567)
Kỵ binh nhà Minh, tranh vẽ thời Minh Thế tông (1521 - 1567)
Tháng 6 năm 1408, sau khi Đặng Tất đánh bại được quân của hàng tướng Phạm Thế Căng tại cửa Nhật Lệ; nhà Hậu Trần làm chủ được vùng từ Nghệ An trở vào. Đến mùa đông năm đó, Giản Định đế huy động lực lượng lớn từ các vùng kiểm soát được để tiến ra phía bắc tìm cách chiếm thành Đông Quan. Nhà Minh bèn cử Mộc Thạnh đem quân đánh dẹp. Hai bên đánh một trận lớn ở bến Bô Cô, bên nào cũng huy động đến 5-6 vạn quân cả thủy lẫn bộ. Đích thân Giản Định đế cầm dùi đánh trống thúc giục nên quân Hậu Trần khí thế rất hăng. Trận đánh diễn ra từ trưa đến chiều, cuối cùng quân Minh thua to phải tan chạy, Mộc Thạnh may mắn thoát được về thành Cổ Lộng gần đó.
Sau trận Bô Cô, Giản Định đế muốn thừa cơ đem quân ra đánh lấy Đông Quan; thế nhưng Đặng Tất phản đối, cho rằng nên tập trung tiêu diệt hết tàn dư quân Minh. Quân Hậu Trần dùng dằng không quyết được, nên để cho Mộc Thạnh an toàn rút về được Đông Quan. Nội bộ nhà Hậu Trần sau đó xảy ra lục đục khi Giản Định đế nghe lời gièm pha mà đem giết cả Đặng Tất và Nguyễn Cảnh Chân vào đầu năm 1409. Sau đó con của hai ông là Đặng Dung và Nguyễn Cảnh Dị bỏ đi, tìm đón một tông thất nhà Trần khác là Trần Quý Khoáng lên làm vua, xưng Trùng Quang đế. Trần Quý Khoáng là cháu nội Trần Nghệ tông, tức thuộc hàng cháu họ Giản Định đế.
Sau khi Trùng Quang đế lên ngôi đã cử người đem quân đến khống chế lực lượng của Giản Định đế và đưa về Nghệ An. Trùng Quang đế mặc áo thường ra đón, rồi tôn Giản Định đế lên làm Thái thượng hoàng để cùng nhau lo tính việc đánh quân Minh.
Tháng 7 năm 1409, nhà Hậu Trần lại bắc tiến, Thái thượng hoàng Giản Định và vua Trùng Quang chia nhau cầm quân. Nhà Minh lúc trước khi nghe tin Mộc Thạnh thua trận, đã lập tức cử Trương Phụ đem quân sang cứu viện. Quân Minh nhờ thế lại mạnh, đánh bật được quân Hậu Trần. Thái thượng hoàng Giản Định phải bỏ thuyền lên bờ chạy, bị quân Minh đuổi theo bắt được đem về Kim Lăng giết hại. Suốt giai đoạn sau đó, quân Hậu Trần nhiều lần thua trận, Trùng Quang đế  liên tục phải rút về Nghệ An vì ra quân bất lợi.
Tuy bắc tiến không thành, nhưng nhà Hậu Trần vẫn kiểm soát được các vùng từ Nghệ An trở vào. Nhà Minh liên tục phải tăng viện để kiểm soát tình hình. Đến năm 1412, quân Minh huy động lực lượng lớn đánh vào Nghệ An, hai bên giao chiến lớn ở bến Mô Độ. Thế nhưng trong lúc Đặng Dung và Trương Phụ đang liều chết đánh nhau chưa phân thắng bại thì hai người Nguyễn Súy và Nguyễn Cảnh Dị thấy tình hình bất lợi đã rút lui. Đặng Dung không có quân tiếp viện, cuối cùng cũng phải rút chạy theo. Quân Hậu Trần càng lúc càng yếu, lực lượng chỉ còn ba bốn phần mười so với lúc trước. Đến đầu năm 1413, quân Minh lại đánh vào Nghệ An, Trùng Quang đế thấy không chống nổi phải rút vào châu Hóa.
Trương Phụ lấy được Nghệ An, bèn quyết ý đánh tiếp vào châu Hóa để tiêu diệt nhà Hậu Trần. Trong những nỗ lực cuối cùng, Nguyễn Súy và Đặng Dung đặt phục binh, đang đêm đánh úp dinh Trương Phụ. Quân Minh tổn thất nặng, nhưng Nguyễn Súy lại không chịu hợp sức cùng Đặng Dung, khiến quân Minh có thời cơ phản kích, khiến quân Hậu Trần phải rút chạy. Sau khi thua trận đó, lực lượng Hậu Trần hầu như không còn sức chống lại nữa, phải rút vào chỗ rừng núi. Đến cuối cùng, vua tôi nhà Hậu Trần đều bị bắt cả; Nguyễn Cảnh Dị bị giết, Trùng Quang đế trên đường bị giải sang Trung Quốc đã tìm cơ hội nhảy xuống biển tự vẫn, Đặng Dung sau đó cũng tự sát theo. Nhà Hậu Trần chính thức diệt vong, nhà Minh cho rằng đã bình định được phản loạn; nhưng dưới sự bóc lột nặng nề, xã hội chẳng hề yên ổn.
Thực tế là chỉ vài năm sau đó thôi, một hào trưởng ở vùng Lam Sơn - Thanh Hóa đã tiếp tục dựng cờ khởi nghĩa chống lại nhà Minh. Người đó chính là Lê Lợi.

Khởi nghĩa Lam Sơn và nhà Hậu Lê

Năm 1418, sau một thời gian chuẩn bị, Lê Lợi dựng cờ khởi nghĩa ở Lam Sơn, tự xưng là Bình Định vương. Tuy nhiên trong giai đoạn đầu, quân Lam Sơn thiếu thốn đủ bề, lại bị áp đảo về lực lượng. Vì thế nên trong nhiều năm liền, hầu như Lê Lợi chỉ có thể chiến đấu du kích, thua nhiều hơn thắng. Đó là chưa kể nhiều lần còn bị quân Minh đột kích, bị phản bội, bị vây hãm; lực lượng nhiều phen tổn thất nghiêm trọng, mấy lần phải rút hẳn về núi Chí Linh, thậm chí còn phải xin giảng hòa với nhà Minh vào tháng 5 năm 1423 để không bị tiêu diệt hoàn toàn. Tuy nhiên quãng thời gian hòa hoãn không kéo dài lâu, vì Lê Lợi vẫn tiếp tục luyện binh rèn vũ khí, chuẩn bị lương thực để chiến đấu tiếp. Việc này nhanh chóng bị quân Minh phát giác, sứ giả được Lê Lợi cử đi trấn an đối phương bị giam vào ngục. Vì vậy, quân Lam Sơn chủ động chấm dứt tình trạng hòa hoãn và sẵn sàng tiếp tục chiến tranh.
Tuy nhiên, tình hình bắt đầu có chuyển biến có lợi với nghĩa quân. Tháng 8 năm 1424, Minh Thành tổ qua đời, thái tử Chu Cao Sí nối ngôi - tức là vua Minh Nhân tông. Là người có tính cách khác hẳn với cha, Minh Nhân tông chủ trương muốn tìm phương án hòa hoãn để giải quyết vấn đề Giao Chỉ; đó là ban hành các chính sách ân xá, hủy bỏ việc cống nạp nặng nề, giảm nhẹ thuế má. Quan trọng hơn cả là nhà Minh vẫn thường xuyên phải đối phó với tàn dư nhà Nguyên ở phía bắc, nên chủ trương của Minh Nhân tông là tìm giải pháp mềm dẻo để chấm dứt các cuộc nổi loạn ở Giao Chỉ. Nhưng điều này không ảnh hưởng đến phương hướng của quân Lam Sơn là tiếp tục chiến đấu.
Cũng vào năm 1424, quân Lam Sơn đã có một quyết định cực kỳ quan trọng, mang tính bản lề trong cuộc khởi nghĩa - đó chính là chuyển dịch địa bàn hoạt động. Vùng Lam Sơn - Thanh Hóa tuy có địa thế hiểm trở, nhưng chỉ thích hợp phòng thủ, khó chủ động tấn công, ngoài ra cũng khó lòng tập hợp nguồn lực mạnh hơn nhiều từ các vùng đồng bằng. Vì vậy tướng Nguyễn Chích đã đề xuất ý kiến lùi vào chiếm lấy Nghệ An làm đất căn bản, xây dựng và mở rộng lực lượng rồi mới tiến ra phía bắc. Hơn nữa, ảnh hưởng của nhà Minh ở vùng này không mạnh bằng các vùng đồng bằng phía bắc, cơ hội chiếm được sẽ cao hơn. Đề xuất này được Lê Lợi đồng ý.
Cuối năm đó, quân Lam Sơn chiếm thành Đa Căng, lại chủ động tấn công các cánh quân cứu viện, dùng kế chiếm được thành Trà Lân, khiến quân Minh phải rút vào cố thủ trong thành Nghệ An. Nhiều lực lượng khác đã gia nhập sau những trận thắng liên tiếp, khiến thế lực quân Lam Sơn dần lớn mạnh. Trong năm 1425, quân Lam Sơn tập trung vào việc đánh chiếm các vùng xung quanh. Sau khi mở rộng lực lượng, quân Lam Sơn tiếp tục đánh vào Thanh Hóa và châu Diễn. Thành quả là đến cuối năm 1425, hầu như toàn bộ các vùng Thanh Hóa, Nghệ An và châu Diễn đã thuộc quyền kiểm soát của quân Lam Sơn, trừ các thành trì lớn vẫn do quân Minh nắm giữ. Tuy nhiên các lực lượng tàn quân này không còn khả năng gây hại đến nghĩa quân nữa, và Lê Lợi bắt đầu chuẩn bị tiến ra phía bắc.
Quân Lam Sơn bắc tiến
Quân Lam Sơn bắc tiến
Giai đoạn này, nhà Minh tiếp tục hứng chịu sự xáo trộn khi Minh Nhân tông cai trị mới 9 tháng đã qua đời; thái tử Chu Chiêm Cơ kế vị, tức là Minh Tuyên tông. Đối với vấn đề Giao Chỉ, Minh Tuyên tông thậm chí còn xem xét đến việc bãi binh hoàn toàn, tìm con cháu họ Trần lập làm vua để khôi phục chế độ chư hầu của nước Việt. Tuy nhiên, phe chủ chiến trong triều đình nhà Minh vẫn có tiếng nói lớn, và họ không muốn dễ dàng từ bỏ vùng đất này. Vì vậy, Minh Tuyên tông tạm thời vẫn tiếp tục huy động lực lượng tiếp viện cho quân Minh ở Giao Chỉ. Tháng 4 năm 1426, nhà Minh bắt đầu cử hai đạo viện binh do Vương Thông và Vương An Lão chỉ huy sang hỗ trợ. Biết tin này, quân Lam Sơn cũng chia ba đạo tiến ra bắc để đối phó.
Tháng 10 năm 1426, cánh viện binh do Vương Thông chỉ huy tiến vào Đông Quan; và sau khi hợp lại với số quân sẵn có ở khu vực miền bắc, bắt đầu chia quân tấn công lực lượng Lam Sơn. Với lực lượng đông đảo hơn nhiều, nên dù ban đầu có nhận thất bại; nhưng quân Minh nhanh chóng thay đổi chiến lược và đánh bại được cuộc tập kích của Lam Sơn, ép các cánh quân của Lý Triện, Đỗ Bí phải rút lui. Tướng Đinh Lễ cũng đem quân tới chi viện, và toàn bộ hai cánh quân lựa chọn rút đi tránh giao chiến trực diện lập tức với đối phương đông đảo.
Vương Thông định nhân đà thắng lợi mà tấn công tổng hành dinh quân Lam Sơn ở Ninh Kiều; nhưng đến nơi thì quân Lam Sơn đã rút đi hết. Từ thế chủ động truy đuổi, quân Minh bỗng rơi vào thế bị động vì không biết đối phương ở đâu. Trần Hiệp cùng vài người khác đề nghị nên cử trinh sát đi thăm dò trước vì thấy địa thế hiểm trở; nhưng Vương Thông tự tin vào lực lượng đông đảo nên quyết vượt sông truy đuổi luôn. Nhưng kế hoạch của quân Minh đã bị quân Lam Sơn nắm được, nên các tướng Đinh Lễ - Lý Triện bèn bày mưu tương kế tựu kế và đặt mai phục. Vương Thông sau khi vượt sông đã lập tức chia quân tấn công, nhưng lọt vào ổ mai phục của quân Lam Sơn. Tiền quân bị vây hãm ở Tốt Động, gặp bất lợi về địa hình - thời tiết; trong khi hậu quân Minh bị lọt vào ổ mai phục ở Chúc Động ngay khi vừa vượt sông. Rồi quân Lam Sơn đổ ra từ nhiều phía đồng loạt tấn công, khiến hầu như toàn bộ lực lượng quân Minh rơi vào rối loạn. Hàng ngũ quân Minh bị đập tan, tổn thất rất nặng và liên tục bị truy kích trên đường rút chạy; Trần Hiệp bỏ mạng, Vương Thông bị thương và phải cố hết sức mới cùng Mã Kỳ mở được đường máu qua Ninh Kiều để chạy về Đông Quan.
Trận mai phục ở Tốt Động - Chúc Động đem lại thắng lợi cực kỳ quan trọng với quân Lam Sơn, khi họ đã tiêu diệt được hàng vạn quân địch, gần như toàn bộ chủ lực nhà Minh ở phía bắc đều bị tiêu diệt. Quân Minh giờ chỉ còn có thể co cụm cố thủ trong các thành trì, và Vương Thông từ Đông Quan tiếp tục xin triều đình nhà Minh gửi viện binh. Trận thắng Tốt Động - Chúc Động cũng giúp thanh thế quân Lam Sơn tăng mạnh, khiến nhiều người ở các vùng đồng bằng phía bắc đi theo nghĩa quân. Ngay sau đó, Lê Lợi cũng từ Thanh Hóa dẫn đại quân tiến ra bắc, bắt đầu cho vây hãm thành Đông Quan. Quân Minh vì tổn thất cả về người lẫn khí giới quá lớn sau trận Tốt Động - Chúc Động, nên đã cho phá chuông Quy Điền và vạc Phổ Minh - hai trong số bốn vật thuộc "An Nam tứ đại khí" - để đúc súng ống đạn dược. Tình thế lúc này càng ngày càng có lợi cho quân Lam Sơn.
Cuối năm 1426, quân Lam Sơn tổ chức tấn công và phá hủy các doanh trại ở ngoại vi thành Đông Quan của quân Minh. Đến đầu năm 1427, quân Minh xung quanh khu vực Đông Quan đều đã phải rút vào cố thủ trong thành, hy vọng vào lực lượng viện binh triều đình gửi sang. Trong thời gian này, Lê Lợi cũng bắt đầu cử Nguyễn Trãi viết thư cố gắng chiêu hàng Đông Quan và các thành khác do quân Minh còn trấn giữ. Vương Thông được thư, bèn ra điều kiện sẽ chỉ rút quân nếu nghĩa quân Lam Sơn chấp nhận tìm tông thất họ Trần để lập làm vua. Lê Lợi vì thế cho lập một người tên Trần Cảo lên làm vua trên danh nghĩa; tuy quân Lam Sơn nói rằng người này là cháu vua Trần Nghệ tông, nhưng kỳ thực xuất thân của Trần Cảo không rõ ràng.
Lược đồ cuộc khởi nghĩa Lam Sơn
Lược đồ cuộc khởi nghĩa Lam Sơn
Tiến trình nghị hòa giữa hai bên bắt đầu sau đó, và quân Lam Sơn yêu cầu quân Minh rút khỏi các thành còn trấn giữ và đi về Đông Quan. Theo lệnh của Vương Thông, thì trừ ở Thanh Hóa, còn đâu quân đội trấn giữ các thành Nghệ An, Tân Bình, Thuận Hóa, châu Diễn đều ra hàng. Tuy nhiên, ý định giảng hòa của Vương Thông gặp phải sự chống đối mạnh mẽ từ các tướng lĩnh chủ chiến như Mã Kỳ, Phương Chính cùng một số quan viên người Việt đầu hàng như Trần Phong và Lương Nhữ Hốt. Và trong lúc Vương Thông còn đang do dự, thì tin tức từ triều đình Bắc Kinh báo xuống là nhà Minh đã cử lực lượng viện binh rất lớn xuống hỗ trợ. Viện binh lần này được huy động với số lượng lớn nhất trong số các lần cử quân sang cứu viện - hai đạo quân của Liễu Thăng và Mộc Thạnh chỉ huy với quân số lên tới hơn 11 vạn người, trong đó quân Liễu Thăng là chủ lực. 
Đối diện với tình hình này, Lê Lợi đã quyết tâm theo chiến lược tập trung tiêu diệt viện binh trước, duy trì việc vây chặt thành Đông Quan. Trong đó, mục tiêu chủ chốt của quân Lam Sơn là diệt được quân chủ lực của Liễu Thăng trước. Đồng thời, quân Lam Sơn đẩy mạnh việc chiếm bằng được các thành trì dọc từ Đông Quan lên đến biên giới phía bắc để ngăn quân Minh có căn cứ. Đến đầu tháng 4 năm 1427, về cơ bản quân Lam Sơn đã hạ được các thành rất quan trọng - có thành bị chiếm nhờ vũ lực, có thành được chiêu hàng thành công, có thành bị vây quá ngặt nên buộc phải hàng. Duy chỉ có thành Xương Giang ở gần sát biên giới là phải mãi đến cuối tháng 9 quân Lam Sơn mới hạ được - chỉ vài ngày trước khi viện quân kéo sang.
Nhưng trong thời gian này, quân Minh ở Đông Quan cũng không hoàn toàn ngồi yên. Nhằm tìm kiếm một thắng lợi để vực dậy sĩ khí binh lính và vì sốt ruột trước việc các thành quan trọng phía bắc bị hạ; quân Minh đã hai lần bất ngờ xông ra đột kích quân Lam Sơn vây thành. Những cuộc đột kích này đã gây ra thiệt hại nặng nề cho quân Lam Sơn: Lý Triện tử trận, Đỗ Bí bị bắt; rồi sau đó hai người Đinh Lễ và Nguyễn Xí bị bắt sống nhưng chỉ có Nguyễn Xí vượt ngục được, còn Đinh Lễ bị hành hình. Tuy thiệt hại nặng, quân Lam Sơn vẫn duy trì vòng vây ở Đông Quan và chuẩn bị giao chiến với viện binh của Liễu Thăng đã kéo sang.
Để đối phó với quân của Liễu Thăng, quân Lam Sơn đặt mai phục rất kỹ càng ở ải Chi Lăng, các tướng cầm quân đều là những người tài năng nhất trong hàng ngũ nghĩa quân. Liễu Thăng còn trẻ, ham công nên nhanh chóng rơi vào vẫy khi đuổi theo quân dụ địch; cuối cùng lọt ổ phục kích và bị giết chết ở sườn núi Mã Yên. Mất chủ tướng, quân chủ lực do Thôi Tụ và Hoàng Phúc nắm quyền chỉ huy cố gắng rút về thành Xương Giang nhưng trúng phục binh lần nữa, thiệt hại nặng nề. Thế rồi đến khi tới gần Xương Giang mới biết thành đã bị hạ, quân Minh buộc phải đóng trại bên ngoài và bắn pháo hiệu để hy vọng quân ở Đông Quan có thể tới phối hợp. Lê Lợi bèn huy động hầu hết lực lượng chia hai đường thủy bộ vây đánh, chặn hết các đường lui về phía bắc. Sau đợt tấn công ồ ạt, quân Minh thua lớn, tan rã và thiệt hại gần hết; Hoàng Phúc bị bắt sống, Thôi Tụ không chịu hàng nên bị giết. Toàn bộ đạo viện quân của Liễu Thăng bị đập tan. Mộc Thạnh được tin, vội vã rút lui, lại bị quân Lam Sơn truy kích một trận, cũng thiệt hại lớn.
Với việc cả hai đạo viện binh hùng hậu đều bị đánh bại, quân Minh ở Đông Quan đã không còn hy vọng nào có thể phá vây được nữa. Vương Thông bèn chấp nhận thương thảo về vấn đề giảng hòa. Sau nhiều lần trao đổi, hai bên đi đến thỏa thuận cuối cùng và tổ chức hội thề. Hai bên đàm phán ấn định ngày rút lui của quân Minh cũng như việc nghĩa quân Lam Sơn sẽ dâng biểu cầu phong cho Trần Cảo. Đoàn sứ giả Lam Sơn sau đó được lệnh lên đường sang Bắc Kinh, đồng thời trả lại các tín vật cũng như dâng biểu cầu phong, kê khai quân số, binh mã nhà Minh đang bị giữ. Trước tình hình ấy, Minh Tuyên tông đã quyết tâm chấm dứt việc chiến tranh tốn kém ở Giao Chỉ, đồng ý việc bãi binh và chấp nhận phong cho Trần Cảo làm An Nam Quốc vương. Đến đầu năm 1428, quân Minh bắt đầu rút về nước; được quân Lam Sơn cấp cho lương thực và phương tiện. Với thắng lợi của cuộc khởi nghĩa Lam Sơn, giai đoạn Bắc thuộc lần 4 kéo dài 20 năm đã chính thức kết thúc.
Giai đoạn đầu, Lê Lợi vẫn tiếp tục sử dụng Trần Cảo làm vua bù nhìn. Nhưng sau khi toàn bộ quân Minh đã rút về nước, thì Trần Cảo đột ngột qua đời vào tháng 2 năm 1428 - có người cho là Lê Lợi đã ra lệnh giết người này do không còn tác dụng gì. Cuối tháng 4 năm đó, Lê Lợi lên ngôi, khôi phục quốc hiệu Đại Việt, nhà Hậu Lê được thành lập. Ban đầu, nhà Minh không thừa nhận ngôi vị này và vẫn yêu cầu Lê Lợi tìm lập con cháu họ Trần làm vua. Mãi đến năm 1431, Minh Tuyên tông mới bước đầu phong cho Lê Lợi làm Quyền thự An Nam quốc sự, tức là coi như ông tạm giữ việc nước. Phải mãi đến năm 1435 - lúc này thì Lê Lợi đã qua đời - nhà Minh mới chính thức thừa nhận ngôi vị và phong họ Lê làm An Nam Quốc vương. Về phần Lê Lợi, cũng để tránh những rắc rối có thể xảy ra với nhà Minh, ông không xưng Hoàng đế dù chỉ trong phạm vi nội bộ Đại Việt. Lê Lợi chỉ xưng là Đại vương, đến sau khi mất mới được truy tôn làm Thái tổ Cao Hoàng đế. Việc các vua nhà Hậu Lê chỉ xưng là Đại vương lúc còn tại vị kéo dài mãi đến thời Lê Thánh tông mới chấm dứt.
Với việc Lê Lợi - Lê Thái tổ lên ngôi và một triều đại mới được thành lập, lịch sử Đại Việt bước sang trang mới. Lê Thái tổ tiếp tục đặt kinh đô ở Thăng Long - sau này đã được đổi tên là Đông Kinh, còn Lam Sơn trở thành Tây Kinh. Việc đầu tiên phải làm chính là tái lập nền hành chính của một đất nước vừa bước ra khỏi chiến tranh. Ngay từ thời điểm tiến ra bắc để vây hãm Đông Quan, Lê Lợi đã chia vùng châu thổ phía bắc thành bốn đạo; rồi sau khi lên ngôi, ông lập thêm đạo thứ năm gồm các châu phủ phía nam. Để tuyển mộ quan viên, triều đình cũng cho mở khoa thi và đến thời Lê Thái tông thì các khoa thi đã được tổ chức với tần suất đều đặn. Con em thường dân đều có thể theo học ở các trường được mở ở địa phương; những người giỏi nhất sẽ có cơ hội theo học ở Quốc Tử Giám cùng con cái của quan lại.
Một thay đổi đáng chú ý ở thời Hậu Lê chính là sự lên ngôi của văn hóa Nho giáo và sự suy yếu của Phật giáo. Trên thực tế thì đà suy yếu của Phật giáo đã bắt đầu từ tận cuối thời Trần, và càng được đẩy mạnh trong quãng thời gian bị nhà Minh đô hộ. Đến khi nhà Hậu Lê thành lập, quá trình này tiếp diễn càng mạnh hơn. Năm 1429, Lê Thái tổ đã yêu cầu tất cả tăng đạo phải trải qua một kỳ thi, người nào đỗ mới có thể tiếp tục tu hành, không thì sẽ phải hoàn tục. Ngoài ra, nhà Lê cũng thắt chặt luật pháp để lập lại trật tự sau quãng thời gian loạn lạc vì chiến tranh. Bộ luật này được hoàn thiện dưới thời vua Lê Thánh tông và có tên là Quốc triều hình luật. Quốc triều hình luật của nhà Hậu Lê được xây dựng dựa trên cơ sở Nho giáo, góp phần hoàn thiện thêm thể chế tập quyền trong giai đoạn này.
Vào giai đoạn đầu khi mới thành lập, nhà Hậu Lê thường phải đối mặt với nguy cơ phản loạn đến từ một số thế lực tù trưởng miền núi. Mặc dù có nhiều người đã giúp sức cho cuộc khởi nghĩa Lam Sơn, nhưng không phải thế lực nào cũng chấp nhận thần phục. Điều này đã dẫn đến việc các vua Lê thời kỳ đầu như Thái tổ, Thái tông thường phải đem quân đánh dẹp những nơi phản loạn. Với những người chịu thần phục, nhà Hậu Lê thường ban cho họ nhiều ưu ái và sử dụng chính sách ky mi châu - tức là trao quyền tự trị khá lớn cho các tù trưởng ở những châu biên giới và miền núi xa xôi, đổi lại họ sẽ cống nạp cho triều đình.
Một việc quan trọng khác là nhanh chóng hồi phục và tái thiết kinh tế vốn đang bị tàn phá nghiêm trọng sau thời kỳ suy thoái kéo dài cuối thời Trần, giai đoạn bị nhà Minh bóc lột và vì chiến tranh ác liệt. Vì vậy, Lê Thái tổ đã áp dụng một loạt biện pháp để khôi phục nông nghiệp. Ngay từ năm 1427 lúc còn chưa lên ngôi, ông đã truyền lệnh cho những kẻ phiêu dạt phải về quê cũ để canh tác, không thì sẽ bị phạt nặng. Rồi sau khi chiến tranh kết thúc, ông lập tức cho lượng lớn binh lính xuất ngũ về làm ruộng, giữ lại khoảng 10 vạn người trong quân ngũ. Nhưng ngay cả số binh lính này cũng được chia ra để luân phiên nhau về làm ruộng sản xuất. Nhìn chung nhà Lê chỉ giữ một số lượng vừa đủ làm quân đội thường trực, còn lại hầu hết sẽ tập trung vào sản xuất. Ngoài ra, Lê Thái tổ còn cho kiểm kê, đo đạc lại đất đai để phân chia, giảm bớt sự chênh lệch giàu nghèo.
Ngoài nông nghiệp, các ngành thủ công và thương mại cũng dần được hồi sinh sau khi chiến tranh kết thúc; thành thị và các nơi buôn bán dần sầm uất trở lại, đặc biệt là ở Đông Kinh. Nhà Lê cũng đã cố gắng phát triển việc buôn bán trao đổi trong nước bằng cách thống nhất tiền tệ, các đơn vị đo lường, làm đường và đào kênh để phục vụ giao thông vận tải. Lê Thái tổ cũng đã không tiếp tục sử dụng chính sách tiền giấy do Hồ Quý Ly ban hành - ông đã cho đúc tiền đồng và cho quy định giá trị. Nền kinh tế dần được khôi phục, nhất là sau khi mở lại việc khai thác các mỏ ở miền Thượng du, giá trị tiền đồng được nâng lên. Sự thịnh vượng tăng dần đến mức ở thời Lê Nhân tông (từ năm 1442 đến năm 1459), triều đình đã có thể cấp lương bổng hàng năm cho quan lại bằng tiền, thêm vào với số bổng lộc bằng hiện vật.
Một đặc trưng rất đáng chú ý ở thời Hậu Lê chính là những tranh đấu chính trị nơi triều đường, vốn đã tồn tại ngay từ giai đoạn đầu tiên thành lập. Là một triều đại được thành lập từ chiến tranh, nên các khai quốc công thần nhà Hậu Lê có uy quyền rất lớn và họ chia ra các phe phái khác nhau để giành giật quyền lực. Nhiều người thường hiểu nhầm rằng Lê Thái tổ sau khi lên ngôi đã tìm cách trừ khử các công thần có uy quyền và danh vọng lớn để đảm bảo quyền lực cho con cháu. Thế nhưng trên thực tế, thời Lê Thái tổ chỉ có Phạm Văn Xảo bị xử chết vì tội tư thông với tù trưởng Đèo Cát Hãn nổi loạn; tông thất nhà Trần cũ là Trần Nguyên Hãn thì bị hặc tội khi xây dinh thự quá đồ sộ và đóng thuyền chở binh khí, trên đường về kinh chịu đối chất thì nhảy sông tự vẫn. Sự thực là đại bộ phận các công thần nhà Hậu Lê chết vì những tranh đấu chính trị giữa các phe phái với nhau dưới thời Lê Thái tông và Lê Nhân tông. Vì vậy quy cho Lê Thái tổ cái danh "diệt trừ công thần" thì quả thực không đúng.
Năm 1433, Lê Thái tổ qua đời, thái tử Lê Nguyên Long kế vị lúc mới 9 tuổi, tức vua Lê Thái tông. Chính lúc này những đấu đá chốn triều đình mới lên đến mức cao nhất, khiến nhiều người liên lụy, có người phải từ quan về quê và có người thậm chí bỏ mạng. Bi kịch là bản thân Lê Thái tông cũng không thọ, khi năm 1442 vua đột ngột qua đời khi đến thăm nhà Nguyễn Trãi đã từ quan. Cái chết đột ngột của Lê Thái tông khiến Nguyễn Trãi bị liên lụy và bị tru di tam tộc. Các quan đại thần sau đó lập thái tử mới gần 2 tuổi là Lê Bang Cơ làm vua, tức Lê Nhân tông. Trong thời gian Lê Nhân tông chưa trưởng thành, triều đình được cai trị bởi các đại thần và mẹ vua là Tuyên từ Hoàng thái hậu.
Bi kịch tiếp tục xảy ra chốn triều đình khi Lê Nhân tông bị sát hại bởi chính anh trai mình là Lạng Sơn vương Lê Nghi Dân. Vốn ban đầu Lê Nghi Dân được lập làm thái tử, nhưng sau này mẹ là Dương phi bị thất sủng nên Lê Nghi Dân bị truất làm phiên vương. Năm 1459, Lê Nghi Dân cùng thủ hạ làm binh biến, đang đêm bắc thang trèo vào cung, giết chết cả Lê Nhân tông lẫn Tuyên từ Hoàng thái hậu. Đến hôm sau thì lên ngôi, đổi niên hiệu. Thế nhưng mấy tháng sau, một vài đại thần bàn việc làm binh biến do Lê Nghi Dân lên ngôi không chính đáng. Chẳng may việc bại lộ, họ đều bị giết cả; việc này càng khiến triều đình oán thán.
Tháng 6 năm 1460, các khai quốc công thần còn sót lại từ thời Lê Thái tổ họp nhau nghị bàn và dẫn đầu các quan làm binh biến, giết hết đám thủ hạ của Lê Nghi Dân. Lê Nghi Dân sau đó bị truất ngôi và bị ép phải tự tử. Sau đó, triều đình cho người đón con trai thứ 4 của Lê Thái tông là Gia vương Lê Tư Thành lên ngôi. Đó chính là Lê Thánh tông, người đưa Đại Việt trong thời kỳ cai trị của mình lên đỉnh cao quyền lực và phát triển rực rỡ về mọi mặt.
Trong thời cai trị của Lê Thánh tông, nền quân chủ Đại Việt đạt tới đỉnh cao, mà về sau được sử sách ca tụng là thời kỳ "Hồng Đức thịnh thế".
Lê Thánh tông cai trị trong 37 năm, đã tạo dựng được thành tựu lớn lao trong nhiều mặt - từ hành chính, kinh tế, giáo dục, văn hóa, xã hội cho đến việc mở rộng lãnh thổ quốc gia. Công trạng nổi bật nhất về mặt quân sự trong thời Lê Thánh tông chính là việc giải quyết vấn đề Chiêm Thành. Trong suốt chiều dài lịch sử Đại Việt, mối quan hệ với Chiêm Thành luôn luôn phức tạp và thay đổi liên tục.
Ở thời Hậu Lê, thì sau khi Lê Thái tổ qua đời, Chiêm Thành đã luôn rình rập cướp phá và quấy nhiễu Đại Việt. Trong các năm 1434, 1444 và 1445; Chiêm Thành liên tục cho người vào đánh cướp châu Hóa. Việc này đã dẫn đến chiến dịch đánh Chiêm Thành trong năm 1446 - Đại Việt thắng lợi, phế vua Chiêm Thành và đặt một người khác lên ngôi. Trong quãng thời gian sau đó, Chiêm Thành rơi vào tranh đấu giành giật ngai vàng, cuối cùng Bàn La Trà Duyệt chiếm được ngôi năm 1458. Sau khi Trà Duyệt qua đời năm 1460, em là Bàn La Trà Toàn kế vị và lại tiếp tục gây hấn. Năm 1469 người Chiêm Thành lại cướp phá châu Hóa, thậm chí năm 1470 thì Bàn La Trà Toàn còn đích thân đem quân thủy bộ và voi ngựa đánh phá. Vì vậy dẫn đến việc năm 1471, Lê Thánh tông phát động chiến dịch quân sự quy mô cực lớn, huy động lực lượng cả nước để đi đánh Chiêm Thành.
Với lực lượng vượt trội và mạnh hơn rất nhiều, quân Đại Việt liên tục đánh bại quân Chiêm Thành và phá được kinh thành Đồ Bàn, bắt được Trà Toàn. Sau khi thắng lợi, Lê Thánh tông cho sáp nhập phần lãnh thổ phía bắc Chiêm Thành vào Đại Việt, lập thừa tuyên Quảng Nam và vệ Thăng Hoa. Sau đó, để làm suy yếu Chiêm Thành vĩnh viễn, Lê Thánh tông cho chia phần lãnh thổ còn lại làm ba nước nhỏ: Chiêm Thành, Hoa Anh và Nam Bàn. Cách giải quyết của Lê Thánh tông phải nói rất sáng suốt khi nó phục vụ được 3 mục đích: đảm bảo nhà Minh không thể lấy cớ bảo hộ Chiêm Thành để quấy nhiễu; đảm bảo các nước nhỏ mới phân tách không có đủ sức để quấy nhiễu biên cương; và quan trọng nhất là tạo tiền đề để Đại Việt lấn đất từ từ của Chiêm Thành thay vì sáp nhập ngay một vùng đất rộng lớn.
Ngoài việc đánh Chiêm Thành; Đại Việt thời Lê Thánh tông còn xung đột với Lão Qua (tức nước Ai Lao) ở phía tây. Điều này đã dẫn đến chiến dịch đánh đất Bồn Man và Lão Qua năm 1479. Chiến dịch kết thúc với thắng lợi của nhà Hậu Lê và đất Bồn Man bị sáp nhập vào lãnh thổ Đại Việt. Sự lớn mạnh của Đại Việt khiến ngay cả nhà Minh cũng phải dè chừng. Bằng chứng là trong những lần Đại Việt xuất quân đánh Chiêm Thành và Lão Qua, nhà Minh đều gửi thư trách phạt nhưng không có hành động gì xa hơn. Những xung đột ở các vùng đất sát biên giới cũng thường được tìm cách giải quyết trong êm thấm. Nói không ngoa, thì Đại Việt dưới thời Lê Thánh tông thực sự đã trở thành một thế lực đáng gờm trong khu vực.
Thế nhưng chỉ ít lâu sau khi Lê Thánh tông qua đời, nhà Hậu Lê nhanh chóng rơi vào thoái trào và suy yếu trong một quãng thời gian rất ngắn. Lê Thánh tông qua đời năm 1497, vị vua kế vị ông là Lê Hiến tông tuy cũng được đánh giá là có tài năng và đủ sức gìn giữ cơ nghiệp, nhưng mất chỉ sau 7 năm cai trị. Đến lượt vị vua kế tiếp là Lê Túc tông thì yểu mệnh, cai trị chưa được 1 năm đã mất. Với việc Lê Tuấn lên ngôi (về sau được gọi là Uy Mục đế), giai đoạn suy tàn của nhà Hậu Lê bắt đầu.
Lê Uy Mục vốn là anh trai của Lê Túc tông, nhưng không được vua cha chỉ định kế vị, do Lê Hiến tông nhận xét ông ta là người "không có đức".
Sở dĩ Uy Mục được kế vị là nhờ mưu kế của họ ngoại mà thôi. Trong mấy năm cai trị, Uy Mục không chăm lo chính sự; chỉ ham thích xây cất công trình, đam mê rượu chè và đàn bà con gái. Thế lực ngoại thích nhờ có công đưa Uy Mục lên ngôi, nên ngày càng lộng hành, chuyên quyền cậy thế, vùi dập các quan, tranh đoạt tài sản ruộng đất, tàn hại dân thường. Không những thế, Uy Mục còn là người vô cùng tàn bạo; ít lâu sau khi lên ngôi đã cho người giết Thái hậu ở điện Trường Lạc, biếm hai vị đại thần Đàm Quang Lễ và Nguyễn Quang Bật ra Quảng Nam nhưng giữa đường lại cho người đuổi theo ép tự tử; thảy chỉ vì họ từng ngăn cản và phản đối ông ta kế vị. Với tông thất, Uy Mục luôn nghi kỵ và lo sợ họ sẽ đoạt ngôi. Ông ta thường cho người rình xét vương công, tìm lỗi để xử lý; người thì bị bắt giam, người thì phải bỏ trốn.
Chính sự thời Uy Mục đổ nát và nhanh chóng khiến người người phẫn nộ. Đến cuối năm 1509, Giản Tu công Lê Oanh được nhiều người ủng hộ, đã khởi binh ở Thanh Hóa để lật đổ Lê Uy Mục. Chiếm được kinh thành rồi, Lê Oanh phế truất Uy Mục, ép uống thuốc độc tự tử rồi trói xác vào nòng súng để bắn cho nổ tung hết cả. Lê Oanh lên ngôi, tức là Tương Dực đế. Trong thời gian đầu lên ngôi, Lê Tương Dực cũng có một vài hành động tỏ ra muốn chấn chỉnh trung hưng đất nước. Thế nhưng cũng chỉ được một vài năm thì lại sa vào ăn chơi hưởng lạc; xây cất cung điện tốn kém, háo sắc còn hơn cả Uy Mục nữa, thậm chí có lần vì nghe lời sàm tấu mà giết một lúc tới 15 vị vương công trong tông thất.
Thái tổ Mạc Đăng Dung, tranh: Phủ Đề Hồ
Thái tổ Mạc Đăng Dung, tranh: Phủ Đề Hồ
Đất nước suy yếu kéo theo hỗn loạn giặc giã nổi lên như ong, trong đó lần nghiêm trọng nhất là vụ nổi loạn của Trần Cảo năm 1516. Quân phản loạn của Trần Cảo chiếm được mấy huyện, rồi kéo quân về đánh cả Đông Kinh. Nhân lúc rối ren đó, Nguyên Quận công Trịnh Duy Sản vốn ôm mối hận vì bị vua phạt roi nên đã lợi dụng thời cơ giết Lê Tương Dực; sau đó lập Lê Y làm vua - tức Lê Chiêu tông, rồi rút về Thanh Hóa. Quân Trần Cảo sau đó ùa vào kinh thành đốt phá cướp bóc.
Loạn Trần Cảo cuối cùng cũng được dẹp yên, nhưng quyền lực trong triều đình đã hoàn toàn rơi vào trong tay các thế lực quân sự. Những cuộc đấu đá diễn ra liên miên trong nhiều năm liền, để rồi cuối cùng Mạc Đăng Dung nổi lên là quyền thần mạnh nhất, dẹp bỏ được hết những kẻ chống đối. Mạc Đăng Dung sau khi cho người giết Lê Chiêu tông và ép Cung Hoàng đế Lê Xuân nhường ngôi cho mình năm 1527, thì nhà Hậu Lê kéo dài gần một thế kỷ đã khép lại. Nhà Mạc được thành lập, nhưng giai đoạn nội chiến và chia cắt đất nước trong hàng trăm năm bây giờ mới bắt đầu.

Đất nước chia cắt: nội chiến Nam - Bắc triều

Năm 1527, Mạc Đăng Dung chính thức đoạt lấy ngôi vua, tức là Mạc Thái tổ, lập ra nhà Mạc. Không thể phủ nhận là ông đã có những đóng góp nhất định trong việc ổn định và trung hưng đất nước sau quãng thời gian loạn lạc cuối thời Lê. Và cũng vì biết rằng lòng người còn nhớ nhà Lê, nên mọi pháp chế quy định của nhà Mạc hầu như đều không thay đổi. Nhưng hành động giết vua soán ngôi của Mạc Thái tổ khiến rất nhiều người trong giới sĩ phu bất bình - đặc biệt là hàng ngũ quan lại tướng lĩnh còn trung thành với nhà Lê
Hưng Quốc công Nguyễn Kim, tranh: Phủ Đề Hồ
Hưng Quốc công Nguyễn Kim, tranh: Phủ Đề Hồ
Năm 1529, cựu thần nhà Lê là An Thanh hầu Nguyễn Kim không chịu thần phục nhà Mạc nữa, bèn đem gia đình bỏ Thanh Hóa chạy sang Ai Lao, chiêu tập binh mã chống đối. Đến năm 1533, Nguyễn Kim tuyên bố tìm được người con của Lê Chiêu tông tên là Lê Ninh, bèn tôn làm vua, tức Lê Trang tông. Nhà Lê được tái lập, về sau thường được gọi là Lê Trung hưng. Về thân thế của Lê Trang tông, nhìn chung phần lớn ý kiến đều tin rằng ông không phải dòng dõi nhà Lê mà chỉ là một người được Nguyễn Kim lập lên làm vua để quy tụ các lực lượng chống đối nhà Mạc. Điều đó dù sao cũng không quá quan trọng, vì Lê Trang tông chỉ là một vị vua ngồi không, còn quyền lực nằm cả trong tay quan tướng dưới quyền. Từ thời điểm này trở đi, cuộc chiến giữa hai nhà Lê - Mạc, hay còn gọi là nội chiến Nam - Bắc triều, mới bước vào giai đoạn khốc liệt.
Về phía nhà Mạc thì từ năm 1530, Mạc Thái tổ đã chủ động nhường ngôi cho thái tử Mạc Đăng Doanh, tức Mạc Thái tông, bản thân lên làm Thái thượng hoàng. Việc tồn tại cùng lúc hai triều đại ở nước Việt tất nhiên khiến cho tình hình phức tạp hơn vì có nguy cơ nhà Minh sẽ lại can thiệp. Tình hình càng khó lường hơn sau khi nhà Lê Trung hưng cử sứ giả sang tâu trình với nhà Minh về việc nhà Mạc tiếm ngôi.
Nội bộ triều đình nhà Minh đối với việc xử lý vấn đề hai nhà Lê - Mạc ra sao đã bị phân hóa rõ rệt: phe chủ chiến cho rằng nên khởi binh nam hạ để trừng trị nhà Mạc; phe kia đề nghị chỉ nên quan sát tình hình. Tuy triều đình nhà Minh và vua Minh Thế tông phân vân không biết nên quyết định ra sao, nhưng thái độ của họ cũng đủ khiến nhà Mạc phải e dè. Vì vậy đã dẫn tới sự kiện năm 1540, Mạc Thái tổ chủ động lên biên giới dâng biểu đầu hàng và cắt một số vùng đất vốn là nơi tranh chấp từ lâu giữa hai nước. Mục đích là để nhà Minh không can thiệp quân sự, tránh cho nhà Mạc một lúc phải đối đầu với hai kẻ địch. Nhà Minh sau đó không can thiệp vào công việc của nước Việt nữa, tuy không làm khó dễ nhà Mạc, nhưng vẫn đi nước đôi bằng cách không công nhận họ Mạc là An Nam Quốc vương, mà chỉ là An Nam Đô thống sứ. Tuy vậy, mục đích quan trọng nhất là tránh mối nguy quân sự từ nhà Minh thì đã đạt được; và nhà Mạc có thể tập trung đối phó với nhà Lê Trung hưng ngày càng mạnh lên ở phía nam.
Về sự kiện Mạc Thái tổ lên biên giới đầu hàng và xin cắt đất cho nhà Minh; tôi từng viết một bài phân tích kỹ hơn, xin đọc thêm để hiểu được tường tận:
Về phần nhà Lê Trung hưng, thì giai đoạn đầu vẫn còn phải nương nhờ đất Ai Lao. Đến năm 1539, Nguyễn Kim mang quân chiếm được huyện Lôi Dương ở Thanh Hóa; đến năm sau tiến quân vào đất Nghệ An, có nhiều người thần phục. Từ thời điểm đó nhà Lê Trung hưng mới tạm gọi là vững chân và có căn cứ ở Đại Việt để chống nhau với nhà Mạc. Thời điểm đó Bắc triều liên tục xao động, vì năm 1540 thì Mạc Thái tông qua đời và Mạc Thái tổ cũng qua đời năm sau đó. Việc mất cùng lúc cả vua và thái thượng hoàng trong 2 năm liên tiếp phần nào khiến Bắc triều không rảnh tay để đối phó ngay với Nam triều đang tiến vào vùng Thanh Hóa - Nghệ An. Đến khi Hiến tông Mạc Phúc Hải lên ngôi và triều đình ổn định lại thì chỗ đứng của Nam triều đã vững rồi.
Năm 1543, đích thân Lê Trang tông đi theo quân ra đánh Bắc triều, Tổng trấn Thanh Hóa là Dương Chấp Nhất đem toàn bộ gia quyến ra hàng, nhà Lê Trung hưng chiếm lại được Tây Kinh. Đến năm 1545, Nam triều lại ra quân đánh Ninh Bình; nhưng đúng lúc này hàng tướng Dương Chấp Nhất làm phản, bỏ thuốc độc giết Nguyễn Kim rồi trốn về với nhà Mạc. Mất người đứng đầu triều, nhà Lê Trung hưng buộc phải rút lui. Trong thời gian sau đó, ở Nam triều xảy ra sự thay đổi quyền lực. Từ chỗ quyền lực tương đối cân bằng giữa các phe phái như họ Trịnh, họ Nguyễn và các hàng tướng nhà Mạc; dần dần Trịnh Kiểm vươn lên là người nắm quyền lớn nhất trong triều, đặc biệt sau khi con cả Nguyễn Kim là Nguyễn Uông đột ngột qua đời. Trịnh Kiểm trở thành Thái sư đầu triều, nắm quyền cao nhất cả hai mặt văn và võ.
Lúc ấy Bắc triều cũng không yên ổn hơn là bao, khi Mạc Hiến tông qua đời năm 1546. Tuy triều đình tôn con trai ông là Mạc Phúc Nguyên còn nhỏ lên ngôi, tức là Mạc Tuyên tông. Con trai thứ ba của Mạc Thái tông là Khiêm vương Mạc Kính Điển làm phụ chính. Thế nhưng trong triều có người không phục, khi Phạm Tử Nghi muốn tôn con trai của Mạc Thái tổ là Hoằng vương Mạc Chính Trung lên ngôi nên đã khởi binh chống đối. Phải đến năm 1551 thì Bắc triều mới dẹp yên được cuộc nổi loạn này. Rồi sau đó, lại có mâu thuẫn trong triều giữa hai người Lê Bá Ly và Phạm Dao; dẫn đến việc Lê Bá Ly cùng Nguyễn Thiến đem hết gia đình và thuộc hạ vào hàng Nam triều.
Nhờ có thêm lực lượng mới vào hàng, nên Nam triều tiếp tục ra quân đánh Bắc triều. Lần ra quân này Nam triều thậm chí đã uy hiếp được Đông Kinh, đánh thắng Bắc triều mấy trận liền. Quân Nam triều tiến sát được Đông Kinh, nhưng đụng phải các lũy phòng thủ rất chắc chắn do Mạc Kính Điển thiết lập. Cho rằng thực lực Nam triều còn yếu và Bắc triều còn mạnh, nên Trịnh Kiểm rút về Thanh Hóa. Nhờ vậy, Bắc triều cho quân chiếm lại được một số vùng bị mất. 
Đến năm 1554, Nam triều quyết định ra quân về phía nam, chiếm các vùng Thuận Hóa và Quảng Nam để mở rộng lãnh thổ và ngăn ngừa việc bị thủy quân Bắc triều đánh tập hậu. Từ thời điểm đó trở đi, lãnh thổ Đại Việt thực sự bị phân chia thành hai nửa: Bắc triều chỉ còn kiểm soát được vùng từ Ninh Bình trở ra, còn lại toàn bộ đều thuộc quyền kiểm soát của Nam triều.
Sang năm sau, khi tình hình đã ổn định, Mạc Kính Điển bèn đem quân vào đánh Thanh Hóa. Hai bên đánh nhau to, nhưng cuối cùng vì lọt vào ổ phục kích mà quân Bắc triều thiệt hại nặng, lại phải rút lui. Năm 1556, Lê Trung tông qua đời mà không có con nối dõi; Trịnh Kiểm bèn tìm lập Lê Duy Bang là người thuộc dòng dõi anh trai Lê Thái tổ làm vua, tức vua Lê Anh tông. Năm 1557, Bắc triều tiếp tục ra quân đánh Thanh Hóa và Nghệ An. Trịnh Kiểm bèn đích thân đem quân chống đỡ, đại phá quân Bắc triều, suýt bắt được cả Mạc Kính Điển. Quân Nam triều tiếp tục đẩy lui được đối phương và giữ vững Thanh Hóa, Nghệ An. Cùng năm, hai hàng tướng Lê Bá Ly và Nguyễn Thiến qua đời; hai con của Nguyễn Thiến là Nguyễn Quyện và Nguyễn Miễn lại trốn về với nhà Mạc. Chiến sự tiếp tục khi Trịnh Kiểm đem quân đánh Sơn Nam, nhưng không vượt qua nổi tuyến phòng thủ của Bắc triều, thiệt hại nặng phải rút lui.
Thái Quốc công Trịnh Kiểm, tranh: Phủ Đề Hồ
Thái Quốc công Trịnh Kiểm, tranh: Phủ Đề Hồ
Đến năm 1558, Trịnh Kiểm lại đem quân ra đánh Sơn Nam, chiếm đất bắt tướng Bắc triều đem về giết. Tuy nhiên ngay sau khi đại quân Nam triều rút lui, Bắc triều chiếm lại được các vùng bị mất. Cùng năm ấy, bước ngoặt trong tình thế phân chia quyền lực trong Nam triều xảy ra khi con trai thứ của Nguyễn Kim là Nguyễn Hoàng được cử vào trấn thủ Thuận Hóa. Nguyễn Hoàng được trao toàn quyền cai trị Thuận Hóa, được đem theo lực lượng của riêng mình, được phép tự do xử lý các việc ở đó và chỉ cần nộp thuế đem về cho triều đình. Trong mười mấy năm sau đó, Nam triều và Bắc triều vẫn luôn duy trì trạng thái chiến tranh ăn miếng trả miếng liên tục, nhưng không bên nào thực sự giành được lợi thế vượt trội. Và cũng từ năm 1566 trở đi, hai bên hầu như không tiến hành các cuộc giao tranh quy mô lớn nữa; do vua mới của Bắc triều là Mạc Mậu Hợp còn nhỏ tuổi, phụ chính Mạc Kính Điển phải lo tập trung ổn định triều đình; còn ở Nam triều thì Trịnh Kiểm cũng đã già, khó lòng cầm quân ra trận như trước.
Đến cuối năm 1569, Trịnh Kiểm bệnh nặng, bắt đầu giao lại quyền lực cho người kế vị. Trịnh Kiểm có tất cả năm người con trai, nhưng hai người quan trọng và nổi tiếng nhất là Trịnh Cối và Trịnh Tùng; Trịnh Cối là con trưởng, trong khi Trịnh Tùng là con thứ nhưng lại là cháu gọi Nguyễn Hoàng là cậu. Cả hai người đều có những thế lực lớn đằng sau chống lưng. Tuy nhiên Trịnh Kiểm vốn muốn trao lại quyền lực cho Trịnh Cối, nên đã tìm cách dung hòa quyền lực với họ Nguyễn bằng cách giao thêm cho Nguyễn Hoàng việc trấn thủ đất Quảng Nam. Như vậy là từ năm 1570, Nguyễn Hoàng trên thực tế kiểm soát cả hai vùng Thuận Hóa và Quảng Nam, quyền lực tăng lên rất nhiều.
Cũng trong đầu năm 1570, Trịnh Kiểm mất và Trịnh Cối lên thay. Thế nhưng Trịnh Tùng không phục, tìm cách tranh giành quyền lực. Bắc triều lợi dụng thời cơ đó, đem đại quân vào đánh Nam triều. Nhân lúc Trịnh Cối đem quân chống nhà Mạc, Trịnh Tùng bèn làm binh biến chiếm lấy quyền lực. Bị kẹp giữa quân nhà Mạc và thế lực Trịnh Tùng, Trịnh Cối buộc phải đem tướng lĩnh ra hàng Bắc triều. Vậy là từ đó Trịnh Tùng nắm quyền lực lớn nhất trong triều đình nhà Lê. Nhờ liên tục đánh lui được các đợt tấn công của Bắc triều, uy thế của Trịnh Tùng ngày càng cao. Và sau khi tiêu diệt được đối thủ chính trị Lê Cập Đệ và giết cả vua Lê Anh tông năm 1573, không ai còn khả năng thách thức quyền lực của Trịnh Tùng ở Nam triều nữa.
Tuy nhiên trên chiến trường, nhờ các tướng tài như Mạc Kính Điển và Nguyễn Quyện mà Bắc triều liên tục thắng trận, dồn ép được Nam triều trong các năm sau đó. Nhưng đà tiến công của Bắc triều bị chặn lại trong cuộc chiến năm 1577, và hai bên lại quay trở lại thế giằng co. Thời gian sau này Bắc triều dần có dấu hiệu suy yếu, không còn khả năng nam tiến đánh nhà Lê được nữa. Đặc biệt sau khi Mạc Kính Điển mất năm 1580, nhà Mạc không còn ai đủ khả năng lèo lái nữa, nên các chiến dịch nam tiến của Bắc triều chấm dứt năm 1583. Từ đó trở đi, hầu như Bắc triều chỉ còn ở thế phòng thủ.
Khiêm vương Mạc Kính Điển, tranh: Phủ Đề Hồ
Khiêm vương Mạc Kính Điển, tranh: Phủ Đề Hồ
Việc mất đi Mạc Kính Điển là một tổn thất lớn với Bắc triều, khi vua Mạc Mậu Hợp lên ngôi từ bé nhưng không biết gì việc triều chính, phụ chính nối tiếp là Mạc Đôn Nhượng thì không đủ năng lực. Tuy vẫn còn tướng tài, nhưng Bắc triều dần yếu thế và tần suất thua trận xảy ra thường xuyên hơn. Bắc triều dần suy yếu và sau cuộc chiến năm 1587 thì nhà Mạc tổn thương nặng nề. Thời cơ để Nam triều bắc tiến thành công đã ở trước mắt.
Sau hai lần chiến thắng năm 1588 và 1589, Trịnh Tùng vẫn quyết định chưa tiến ra bắc vội, mà lần nào cũng rút về Thanh Hóa củng cố lực lượng. Đến đầu năm 1592, Trịnh Tùng huy động đại quân tiến ra bắc. Để đối phó, vua Mạc Mậu Hợp cũng huy động đại quân để chống giữ. Sau khi đánh bại quân chủ lực Bắc triều, Trịnh Tùng kéo quân thẳng đến Đông Kinh và bắt đầu đánh thành đúng vào dịp Tết. Vua Mạc Mậu Hợp lúc ấy đã chạy khỏi kinh thành, giao việc phòng thủ cho các tướng. Hai bên đánh nhau ác liệt, nhưng sau khi tướng Nguyễn Quyện của Bắc triều tử trận thì quân Mạc không còn khả năng ngăn quân Nam triều được nữa. Quân nhà Lê tiến thẳng vào Đông Kinh đốt phá khiến nhà cửa xơ xác, cung thất tiêu điều. Tuy thắng trận, nhưng Trịnh Tùng cho rằng chưa đủ khả năng tiêu diệt hoàn toàn thế lực Bắc triều ngay, nên tiếp tục rút lui, đồng thời cho quân phá sạch tường lũy phòng thủ của Đông Kinh. 
Đến cuối năm 1592, Trịnh Tùng tiếp tục đem quân bắc tiến lần nữa. Với việc tướng trấn thủ Sơn Nam của Bắc triều đầu hàng, quân nhà Lê tiến thẳng đến Đông Kinh mà không gặp trở ngại. Vì không còn tướng tài, nên quân Bắc triều thua nặng, vua Mạc Mậu Hợp phải chạy về Hải Dương, sau đó truyền ngôi cho con trai là Mạc Toàn. Không để Bắc triều có khả năng tập hợp lực lượng, Trịnh Tùng cho quân truy kích. Và sau khi bắt được Mạc Mậu Hợp đem giết, đánh bại được nỗ lực kháng cự cuối cùng của Mạc Kính Chỉ rồi giết được Mạc Toàn; nhà Lê chiếm lại được hầu hết miền bắc. Tuy nhiên, tàn dư họ Mạc vẫn kịp chạy lên Cao Bằng; và nhờ nhà Minh can thiệp mà tiếp tục cát cứ được ở vùng đó thêm hơn 80 năm nữa, thậm chí nhiều lần gây ra uy hiếp khá lớn với nhà Lê. Nhưng nhìn chung, cuộc nội chiến Nam - Bắc triều được coi là chấm dứt khi nhà Lê lấy lại được Đông Kinh và phần lớn miền bắc năm 1593.
Thế nhưng Đại Việt vẫn chưa thể thực sự thống nhất, khi mâu thuẫn giữa hai thế lực Trịnh - Nguyễn dần bùng phát và biến thành chiến tranh.
Còn tiếp...