Hậu tố –ation rất phổ biến trong khoa học, là một tiếp vĩ ngữ cấu thành danh từ đã được dịch khá cố định, nhưng từ dẫn xuất của nó thì hãy còn mập mờ chưa thống nhất. Trong bài viết này, chúng tôi điểm lại cách dịch hậu tố đa dụng trên và trình bày quan điểm về phiên dịch các từ dẫn xuất. Trong thuật ngữ hóa học nói riêng, hậu tố –ation thường chỉ sự thêm một tính chất (activation, immobilization ...), sự biến hóa thành một loại chất (ionization, polymerization ...) hoặc gắn nguyên tử/nhóm nguyên tử vào khung sườn (alkylation, oxygenation...). Tất cả trường hợp đều được dịch cố định là sự ... hóa nếu từ gốc là danh từ hoặc tính từ, hoặc chỉ là sự ... nếu từ gốc là động từ. Trong các ví dụ trên, alkyl, oxygen là danh từ, nên các từ dẫn xuất là sự alkyl hóa, sự oxygen hóa; ionize, polymerize là động từ, nên các từ dẫn xuất là sự ion hóa, sự polymer hóa; active immobile là những tính từ, nên các từ dẫn xuất là sự hoạt hóa, sự bất động hóa. Trường hợp ghép với từ thuần Việt thì nên đảo trật tự từ, ta có hóa rắn, hóa lỏng, hóa hơi ... đều tự nhiên hơn cả.
Có một trường hợp nhầm lẫn khá dai dẳng là sự oxi hóa (oxidation), mà đáng lẽ phải là sự oxid(e) hóa. Oxid hay oxide đều là một, chỉ hợp chất giữa oxygen (O) với nguyên tố khác; oxide là tên tiếng Anh, nếu phiên chuyển ra tiếng Việt thì bỏ e câm để thành oxid. Ban đầu, người ta dùng oxidation để chỉ sự biến một đơn chất thành oxid. Về sau, từ này di nghĩa để chỉ tất cả phản ứng lấy đi electron của một chất và tăng trạng thái oxid hóa (oxidation state) của chất đó, nhưng mặt chữ không thay đổi, chúng ta nên tôn trọng cách dùng đó và phiên dịch là sự oxid hóa, còn oxi hóa không có nghĩa. Vả lại, để chỉ riêng phản ứng biến một chất thành oxid bởi oxygen, người ta sẽ dùng oxygenation sự oxygen hóa.
Phân biệt <i>oxygenation </i>với <i>oxidation</i>. Nguồn: differencebetween.com.
Phân biệt oxygenation với oxidation. Nguồn: differencebetween.com.
Tất nhiên, chúng ta cần linh hoạt trong phiên dịch chứ không thể cố chấp. Chẳng hạn như pressurization depressurization chỉ nên dịch là sự tăng/giảm áp suất. Về các ngoại lệ, chúng tôi vẫn chưa thống kê được hết, vì nó là vốn liếng kinh nghiệm, kính mong độc giả thông cảm. Từ hóa dùng để cấu thành động từ, nên nếu từ gốc đã là động từ thì ta chỉ cần thêm sự mà thôi. Chẳng hạn như precipitate (kết tủa) đã là động từ thì danh từ tương ứng (precipitation) chỉ dịch là sự kết tủa. Nói chung, ta phải biết từ gốc là gì, thuộc loại từ nào. Chẳng hạn như deprotonation dịch là sự khử proton hóa thì dư thừa, nên bỏ chữ hóa; transamination dịch là sự trans amin hóa thì không những tối nghĩa mà còn không chính xác, vì nhầm lẫn trans là miêu tả tố lập thể (stereodescriptor) trong hóa học, mà đáng lẽ phải là sự chuyển amin.
Còn nếu chúng ta không biết cách dịch từ gốc? Điều này thường gặp khi từ gốc là động từ, và không thành vấn đề, vì ta chỉ cần dịch từ dẫn xuất –ation, rồi bỏ chữ sự là thành động từ. Chẳng hạn oxidation sự oxid hóa thì động từ tương ứng oxidize oxid hóa. Từ sự là yếu tố cấu thành danh từ, khi kết hợp với từ khác thì ta có thể bỏ đi, và bỏ luôn hư từ. Chẳng hạn như energy of activation hoặc activation energy chỉ cần dịch là năng lượng hoạt hóa, thay vì năng lượng của sự hoạt hóa, tức là ta đã bỏ đi từ sự và bỏ cả hư từ của (of). Có một vấn đề là tiếng Anh có motif chia động từ thành thể bị động và dùng với vai trò tính từ. Nhiều người chỉ dùng nguyên động từ đó làm tính từ, không phân biệt chủ động bị động, cũng không nghĩ đến cơ chế rút gọn từ mà chúng tôi vừa nhắc đến. Chẳng hạn như dịch oxygenated gasoline thành xăng oxygen hóa thì lại dễ nhầm sang oxygenation gasoline hoặc gasoline of oxygenation, hai từ này đều không có nghĩa. Chúng tôi cho rằng khi động từ của –ation làm tính từ, nên dịch là hàm/ngậm (ghép với từ gốc là danh từ/tính từ) hoặc đã (ghép với động từ). Chẳng hạn như hydrated đã được dịch là ngậm nước rồi. Bản thân chúng tôi thấy từ hàm hàn lâm và đa dụng hơn hẳn, đáng được phổ cập, chẳng hạn như hàm alkyl (alkylated), hàm hỗn hống (amalgamated), hàm hoạt (activated) ... Dù vậy, chúng tôi chỉ thử nghiệm với các thuật ngữ hóa học, tính ứng dụng của cách này có lẽ cần được thảo luận và thực nghiệm thêm.
Nói về sản phẩm của một quá trình –ation, người ta lại dùng hậu tố ate, vốn thường dùng để cấu thành động từ. Trường hợp này mà dịch thành chất ... hóa thì dông dài, trong khi tiếng Việt đủ giàu đẹp để có các cách diễn đạt khác ngắn gọn hơn. Chúng tôi cho rằng nên dịch –atephẩm. Điều này có logic riêng của nó, nếu ta hiểu sản phẩm là chất được sản xuất, ta cũng hiểu hấp phụ phẩm (adsorbate) là chất được hấp phụ, thăng hoa phẩm (subliminate) là chất được thăng hoa ... Bose–Einstein condensate thường chỉ được dịch là ngưng tụ Bose–Einstein, mà nếu coi ngưng tụ là danh động từ thì nó lại tương ứng với danh từ tiếng Anh condensation, thế nên condensate ngưng tụ phẩm thì tốt hơn. Chúng tôi chọn từ phẩm mà không chọn cắt nghĩa dài hơn là vì nó ngắn gọn mà khả dụng cho mọi trường hợp, như hydrate thủy phẩm, solvate dung môi phẩm ... Nếu diễn Nôm thì adsorbate sẽ là chất bị hấp phụ, đến racemate lại là hỗn hợp racemic, rồi hydrolysate lại là sản phẩm thủy giải [thủy phân] ... không được nhất quán, cũng như không thể biết thuật ngữ gốc là gì. Mà không phải lúc nào chúng ta cũng cắt nghĩa được chính xác, chẳng hạn như dịch racemate thành hỗn hợp racemic tức là dịch từ racemic mixture, từ sau bị IUPAC khuyến nghị không nên dùng [1], do không biết được đó là racemate hay racemic conglomerate. Theo chúng tôi, cách dịch này tuy chưa phổ biến nhưng sẽ mang lại sự đối ứng 1-1, giúp hệ thống thuật ngữ của chúng ta tiệm cận với thế giới hơn.
Trên đây là một vài suy nghĩ về việc dịch hậu tố –ation và từ dẫn xuất của chúng tôi. Những cách dịch cố định thì không kể, nhưng các ý tưởng "táo bạo" phía dưới có lẽ nên gửi gắm cho bạn đọc phản biện và bổ sung để dẫn ra giải pháp tối ưu.
[1] 10.1351/pac199668122193.