Dịch từ bài gốc của Delaney Nolan trên Vela Magazine
---

Suốt 25 ngày tôi sống ở một ngôi nhà phong cách phương Bắc. Một mình một cõi. Một cõi ta bà, khỉ ho cò gáy. Căn nhà cách thị trấn gần nhất 30km; bên ngoài là một thung lũng, và quanh thung lũng là những ngọn núi vừa dài vừa hẹp. Ngoài cửa sổ, dưới các cánh đồng, là một đàn ngựa lùn giống Iceland. Tôi nom thấy hình dáng thấp bé của chúng di chuyển trong ánh sáng xiên mờ.
Những cái miệng duy nhất thở vào bàn tay giá buốt của tôi trong 25 ngày: miệng tôi, miệng lũ ngựa.
“Chúng đẹp thật, phải không?” anh trai tôi bình luận qua màn hình máy tính đầy hạt.
“Ừ,” tôi đáp. Nhưng tôi không tin tưởng lũ ngựa. Tôi tin chúng sẵn sàng cắn tôi. Lũ ngựa vừa đứng vừa nhai. Chúng sẽ lồng lên và tợp lấy nhau nếu tôi đến quá gần.
Xung quanh chẳng có ai và đây là điều tôi làm, mà bạn cũng sẽ làm tương tự: tôi hát dở và rống to hết cỡ mấy lời kiểu I can show you the world.
Căn nhà ở Đông Iceland. Vòng kim loại quanh chân cột cờ. Khi băng qua những cánh đồng trải rộng, tôi giẫm lên cỏ khô đông cứng. Bên kia cánh đồng cỏ khô là một hồ băng với một nửa là băng, và nước táp quanh những hòn đá tròn lẳn. Tôi đứng chính giữa một lũng cạn, bao bọc xung quanh là những ngọn núi thấp.
Tôi thử leo lên một ngọn. Tôi đi xa hết mức có thể trước khi trời tối. Tôi trèo lên một sống núi và vẫn chưa tới chóp. Tôi trèo qua hết sống núi này tới sống khác và cứ mỗi lần lên tới trên cùng, hổn hển với đôi tay lạnh lẽo và vô cảm thì lại có thêm núi. Tôi cứ đi tiếp và nghĩ, thêm một lần nữa. Rồi, một lần nữa. Tôi nghĩ nếu mình ngã và trật mắt cá, sẽ chẳng ai tìm tôi. Tôi không có điện thoại, cũng không đem theo nước. Tôi nghĩ thêm một lần nữa và rồi:
Tôi không lên tới đỉnh núi nhưng cũng tới được một bình nguyên phủ tuyết sau khi trầy trật leo. Tôi nhìn thấy vết chân tuần lộc. Quang cảnh vẫn chỉ núi là núi. Thung lũng rộng. Một hõm bóng tối khổng lồ. Mặt trời lúc nào cũng gần chân trời. Đang là tháng Một và ngày lúc nào cũng ngắn, mỗi ngày đều vậy.
Tôi tới đó để được một mình. Tôi bỏ lại phía sau một năm tồi tệ ở New Orleans - tự nạp mình vào nhà tù Orleans Parish, tiền mất, xe mất. Tôi muốn yên ổn. Giờ đây tôi thức giấc mà chẳng có một ai để bầu bạn.
Tôi thức giấc một mình trong căn nhà kiểu phương Bắc, không một kỳ vọng đợi chờ nào. Tôi có thể mặc sức làm gì tùy thích. Tôi có thể đi quanh mà không cần mặc gì. Tôi có thể không tắm gội. Tôi có thể nhai tỏi tươi, nếu muốn. 
Không ai ở bên để bảo tôi phải cười đi nào, con bé xinh xắn. Ở Istanbul, đàn ông chăm chăm nhìn mỗi khi tôi đi một mình; bọn họ tấp xe sát cạnh và mở cửa mời tôi lên. Bọn họ động chạm vào tôi trên xe buýt. Có lần, lúc đang về nhà, một gã đeo găng xanh và hồng khạc vào tôi giữa thanh thiên bạch nhật.
Lúc này, ở vùng đất băng giá, tôi mặc áo đàn ông secondhand. Tôi rụt cổ xấu ỉn bên trong chiếc áo. Tôi tra tay vào hai túi nơi trước đó từng là tay kẻ khác. Giờ thì tôi an toàn trước bọn đàn ông lạ mặt, nhưng chẳng ai khen ngợi tôi. Tôi cần cái lời khen khủng khiếp kia và tôi không muốn mình thấy cần tới nó, cái lời khen khủng khiếp ấy.
Mỗi ngày tôi chỉ đi tới lui từ bàn ra bếp và ngược lại. Pha cà phê. Ăn trứng luộc chín. Phết bơ lên cá phơi khô. Viết một hồi lâu, tới lúc tôi quên bẵng mình đi.
Tôi ngụ ở căn nhà này trong một đợt nhiệm trú dành cho nhà văn. Tôi được mời tiếp tục hoặc làm mới di sản của một nhà văn nam người Đan Mạch đã qua đời từ lâu; sách của ông tôi đọc lúc nằm ngửa, gác chân lên ghế, lưng chạm sàn.
Ông viết, “Bọn chúng không được chết vì đói và rét khi chẳng một ai muốn phiền toái tìm kiếm và mang chúng về nhà.”
Tôi 24. Tôi đang sống ở Istanbul. Tôi muốn thử sức một điều gì đó quan trọng nhưng đôi khi thức giấc tôi thấy sợ. Lần bị bắt giữ ở Orleans, lần thứ ba. Trốn cảnh sát trong một ngôi nhà ở Uptown. Có lẽ ai cũng đều có một điều gì đó để cảm thấy tự hào. Có lẽ tôi giống một trong những đứa trẻ sinh ra đã hỏng hóc, thiếu thốn gì đó, không có một lá gan, hay nửa tấm phổi.
Trước khi rời Istanbul, tôi mua một chai whiskey miễn thuế ở sân bay Thổ. Trước khi rời đi, tôi trút nó vào một cốc giấy sáp đựng Pepsi và uống bằng ống hút. Tôi hỏi một phụ nữ làm nhiệm vụ, bằng thứ tiếng Thổ dở tệ, có khu vực hút thuốc hay không thì bà ta gật đầu, ra hiệu cho tôi đi theo, và ra hiệu tôi vào một nhà vệ sinh, nơi bà giải thích bằng nháy mắt và tiếng Thổ cụt lủn và một nụ cười ranh mãnh rằng tôi nên chờ đến khi những phụ nữ khác rời đi. Cả hai chúng tôi cùng chờ. Chúng tôi nhìn vào gương. Bà quấn đi quấn lại khăn trùm đầu. Bà chạm vào vai tôi.
Ở ngôi nhà kiểu phương Bắc nơi tôi ngủ một mình và mặc đủ quần áo. Chẳng nhất thiết. Nhưng nếu không mặc quần áo, tôi thấy bị trống trải. Cái gì có thể chạm vào tôi đây, hay tôi quá sức tự do nếu như thế này. Một cảm giác như thể da tôi sẽ rơi ra và bốc khỏi người, như một quả bóng bay, tạm biệt!
Trăm ngày như một và sự lặp đi lặp lại này tạo thành những chu kỳ lạnh lẽo, rõ rệt, hay ho trong não tôi. Tôi uống cà phê. Tôi ngồi vào bàn và viết, xóa đi vài câu. Tôi ngồi trên ghế bành và đọc một lúc lâu. Tôi ngồi lên bàn và viết 2000 chữ về tác giả, người bị một con tuần lộc giẫm tới chết. Những chiếc guốc sắc lẻm. Hơi thở nóng hổi. Tôi nhìn lũ ngựa độc địa và tôi ra ngoài trước khi trời tối, và trời tối rất mau. Và mỗi ngày tôi càng đi xa hơn trên con đường vắng sang một chỗ mới. Rồi tôi về nhà và giũ bỏ cái lạnh.
Có lúc tôi sửa soạn một bữa tối thật ngon chỉ cho riêng mình. Tôi làm salad, nấu cá, tôi uống một ly rượu.
Khi khác tôi làm một tô bắp rang, uống sôcôla nóng pha với cognac và đó cũng chính là bữa ăn tối.
Tôi nói chuyện với một ai đó ở một múi giờ khác và nói với họ chớ đừng để tôi một mình nhưng thực ra tôi lại, “Ước gì bồ ở đây, bồ sẽ thích lắm.” Tôi nghe gió tru, rú, gào, rít. Tôi tìm Bắc cực quang, nhưng chẳng bao giờ nhìn thấy. 
Thi thoảng, khi ra ngoài, tôi lại lẫn lộn một bài thơ đang học dở. Tôi biết bạn đang đọc bài thơ này, một mình, đại loại gì đó trong văn phòng, dưới ánh ngọn đèn lẻ loi. Bạn giương tay che đi ánh sáng, như thể bạn là căn phòng phủ kính óng ánh từng hạt bụi. Một cô gái vừa tới, muốn ở chung phòng trong căn nhà thần trí bất minh này, một cô gái rồ dại như loài chim, lao băng ra khỏi cửa ban đêm ngỡ tay là lông vũ, huyễn hoặc ngôi nhà từ khước thiên giới bằng những vì sao cuồng loạn - làm yếu đi những vì sao đậm sắc thiên đình bằng chứng cứ tự tạo - hoen ố những vị thần trên thiên giới bằng đám đông điên loạn.
Cô biệt, vô ngôn, cảm giác trở thành mối đeo đuổi quan trọng nhất. Tôi bị phủ vây bởi một thứ trống trải khổng lồ. Tôi theo đuổi kích thích, và đưa tới gáy những cảm giác gai lạnh bởi những thoảng thơ.
Cấu trúc đích xác của thi ca, giống như chất liệu đích thực của vùng sỏi đá xung quanh, càng lúc càng ít quan trọng. Chất liệu đích thực của thi ca cũng như vùng đất này gộp chung bởi phản ứng chúng tạo ra. Thứ quan yếu nhất chẳng nằm ở độ chính xác của dòng thơ, cũng chẳng ở chất liệu của ngọn đồi buốt giá, mà ở sự diệu kỳ chúng tạo nên - nhất là ở đây, nơi tất cả những gì gì tôi có thể phản ứng chỉ là thi ca và sỏi đá.
Lúc đang ngồi ở tòa Orleans Parish, với những luật sư chỉnh tề bước ngang qua, tôi nhìn lũ chim câu bay ở sảnh chính. Chúng ùa xuống thành từng đàn lớn qua khung cửa sổ khổng lồ cũ kỹ, mở ra chỉ để hắt bớt cái nóng của vịnh ra ngoài, và lũ chim câu đậu ngay trên trần. Một cô gái trẻ trạc tuổi tôi, mặt mũi sạch sẽ, hoàn toàn có thể là bạn tôi, đang thương lượng bản án của tôi với luật sư, chứ chẳng nhìn lấy tôi. Các bài thơ là lũ chim ở tòa án khiến tôi cứ ngẩng nhìn, vào cái hang bụi sáng, lửng treo trên đầu tất cả chúng ta. 
Thi thoảng, những lúc ra ngoài, khi tôi đang trèo lên một ngọn đồi cao nhễ nhại và lạnh cóng và đói và một mình, tôi hạnh phúc tới nỗi không thể tin rằng đây là thật. Tôi leo hàng nhiều giờ tới Hengifoss, một trong những thác nước lớn nhất ở Iceland. Lúc này là mùa đông và chẳng ai khác lui tới đây. Tôi băng qua một thung lũng, bước bên trên các con suối đóng băng và tiếp tục thụi thật vang vào lớp tuyết ngang gối. Tôi đứng bên con thác khổng lồ đổ rền xuống một mỏm băng và tuyết xanh nâu, tóe ra những giọt nước cứng như kim đâm. Tiếng nước thét nhấn chìm tất cả mọi thứ. Đây đích xác là nơi tôi muốn được đến. Quả là một chiến thắng. Tôi đã một mình thành công, tôi nghĩ vậy.
Những điều tôi nói to trong tuyết không một ai nghe thấy: “Mình làm một mình.”
Những điều tôi nói to trên đường phố chẳng tới tai bất kỳ ai trong thành phố đông đúc nơi họ không nói ngôn ngữ của tôi: “Đừng, đừng, đừng, đừng, đừng-” Những hướng dẫn để giữ lại cơn sợ hãi.
Thất bại của chính tôi để tồn tại ở Louisiana, để kiếm sống, để thoát mà không bị tóm, được nhân lên, ở Istanbul, bởi tôi chẳng thể nào làm được những điều đơn giản nhất - tìm một nhà thuốc, đọc bảng chỉ đường. Ở Iceland thất bại này chẳng có gì để phản ánh, chẳng có cách nào quay trở lại với tôi, và giờ đây, khi tôi nói về thứ khiếp sợ đó thật to vào bầu trời vĩ đại, dường như nó cứ thoát ra khỏi tôi, vào chốn không đâu.
Đây là một chuyện bạn có thể thử. Khi một mình, hãy biến mình thành càng xấu xí càng tốt. Mặc những bộ đồ chật ních để nhìn thấy mỡ dôi ra. Nhìn vào gương và nhúm nhó khuôn mặt, để máu lộ ra thành những đường vằn đỏ, nhìn thấy nướu vàng, mái tóc chưa gội. Hãy giữ kính. Chẳng phải việc ôm ấp điều gớm ghiếc rất ngon lành hay sao? Lần cuối cùng bạn có thể xấu xí dường này là lúc nào? Và khi chẳng có ai xung quanh để nhìn? 
Cứ tiếp tục. Ý tôi là hãy tắm tưới với nó. 
Ông Electrico, một nhà tiêu khiển ở đám hội: ông ấy chạm vào mũi Ray Bradbury trẻ tuổi bằng một thanh gươm tích điện và khiến tóc cậu bé dựng lên, thét to, “Hãy sống mãi!” Bradbury kể chính sự việc này khiến ông muốn trở thành nhà văn.
Rad Bradbury: nhà văn nói về Nhà hát giọng nói buổi sớm mai. Khi ông thức giấc buổi sáng, các giọng nói trò chuyện với ông và ông lắng nghe trong “khoang âm giữa hai tai”, nói rằng nếu chúng hăng hái hơn, ông sẽ chạy sang máy đánh chữ và viết xuống bằng hết trước khi các âm vang kia lịm đi.
Những thứ giọng nói ban sớm đã nói với tôi vài thứ về bác sĩ, một cái gai trên cơ thể.
Ở Iceland, trong ngôi nhà kiểu phương Bắc trống trải, âm thanh ban sớm không phải luôn hiện diện. Đôi lúc tôi phải chờ thật lâu sau khi trời tối và đôi khi dẫu đã vậy, cũng chẳng hề có gì xảy ra.
Khi chúng không xuất hiện, tôi ra ngoài đi dạo và đón nắng để giữ sức khỏe. Tôi sợ: bị thảm hại. Tôi sợ: trầm cảm theo mùa. Thiếu mặt trời dẫn tới thiếu các hóa chất trong não mà chúng ta tất cả, mỗi người chúng ta, đều cần. Thế là tôi đi qua khu rừng bé xíu.
Iceland chỉ còn chưa tới 1% rừng, phần lớn đã bị đốn làm củi đốt hoặc để xây dựng. Ngôi nhà nằm gần khu rừng lớn nhất ở Iceland. Người đàn ông tử tế chỉ đạo chương trình nhiệm trú bảo với tôi, lúc chúng tôi lái xe qua một dải cây chỉ cao hơn tôi chút đỉnh, “Đây là khu rừng lớn nhất Iceland.” Nó quá nhỏ, quá thưa thớt. Tôi có kích thước ngang với một cây to ở Iceland.
Tôi dõi theo bước chân của một con cáo vùng cực. Con nỡm điêu toa trắng xóa. Có lúc tôi làm lũ chim sợ nhưng tôi không tìm chúng. Tôi muốn tìm cái con cáo chết bầm kia. Tôi lao qua cành cây. Có lúc chúng cắt lên mặt tôi. Mẹ bà cái con cáo. Tôi không thấy nó. Tôi mất một chiếc găng và ngồi xổm và có lẽ là sinh vật sống duy nhất ở đó - tôi cứ viết mãi điều này. Sinh vật sống duy nhất. Và giờ đây tôi nói to, “Tôi có thể hạnh phúc như hiện tại. Phải chi tôi có thể sống bằng 1000 chữ viết ra mỗi ngày.”
Đôi lúc tôi nghĩ tôi có thể ngủ một mình mãi mãi. Đôi lúc tôi vẽ mặt người lên mọi điếu thuốc trong bao, chỉ để có ai đó nhìn tôi.
Có lúc khi bước đi trên cánh đồng băng giá nơi lũ ngựa lùn lông rậm gặm cỏ và chẳng một kẻ nào nghĩ tới tôi, chẳng nơi đâu, chẳng dù chỉ một lần. Và tôi khổng lồ. Tôi có kích cỡ ngang với cái đường chân trời bất tận.
Democritus, Triết gia Cười, người hẳn đã tự làm mù mắt mình, “Ta tới Athens và không ai biết ta.” Ông có biệt danh trên vì lúc nào cũng tươi vui; ông có được sự mù lòa và cô độc vì tận tụy cho công trình của mình.
Khi vào lại nhà từ cánh đồng giá băng, khi vào lại nhà từ ngôi rừng to lớn nhất bé tẹo, tôi gọi ai đó.
Tôi cố thật nhiều để đừng nhớ nhung ai.
Hắn bảo, “Hôm nay cô làm gì?”
Tôi đáp, “Hôm nay tôi tìm thấy xác một con cừu, nhưng chỉ còn lông và sườn. Vậy đó là phần hay ho nhất trong ngày.”
Hắn cười lớn và tôi cũng cười theo.
Tôi ngủ một mình tôi thức một mình tôi ăn một mình tôi đi qua đàn ngựa cóng một mình tôi ném đá vào hồ băng một mình tôi tìm cửa sông một mình tôi bước vào đêm kỳ vĩ một mình tôi tìm những chòm sao một mình tôi đi trên con đường vắng một mình tôi đứng trên đường và tìm xe chẳng có ai tới. Không có xe. Không có ai. Trời ơi, vắng hoe. Đó là thứ mà tôi đã hy vọng kia mà.
Ba tuần. Tôi ăn cá khô. Tôi ăn nửa trái bơ. Tỏi tươi thiêu đốt dạ dày tôi. Tôi mua những hộp cá trích vẫn còn nguyên đầu.
Tôi viết những câu chuyện kéo dài miên mải. Có lúc, chỉ chừng vài ngày, tôi đi tới cái không gian lạnh giá, trống trải buộc phải bảo tồn thật tinh tế và tôi viết và cảm giác khi ấy là một sự thống khoái tốt hơn bất cứ thứ gì, bất cứ thứ thuốc, bất cứ chếnh choáng, bất cứ cực khoái, bất cứ quà tặng nào trên cõi đời này.
Tôi là sinh vật sống duy nhất.
Nhiều ngày qua và tôi chưa hề chạm lấy một người sống nào khác suốt một tuần, suốt hai tuần, và tôi càng phải chạm lấy mình nhiều hơn.
Tôi gọi kẻ còn lại càng lúc càng nhiều hơn.
“Mày đã làm gì hôm nay?”
“Đã viết. Tao đi ngả ngược lại, xuống đường. Tao thấy một nhà thờ, nhưng trống trơn. Tao vào trong và nhìn thấy những hàng ghế và đọc các ấn phẩm. Tao chưa từng vào nhà thờ - chẳng biết nữa, vài tháng qua. Mới đây tao chỉ vào thánh đường Hồi, mày bít rồi?”
Thánh đường Hồi có mùi thế nào: thảm sàn mịn, đá cao và nhám.
Nhà thờ có mùi thế nào: Sạch sẽ và gỗ vừa hạ.
Nhà tù Orleans có mùi thế nào: cam, cam thật.
Tôi gọi cái sinh vật sống còn lại và chúng tôi trò chuyện hàng giờ. Tôi gọi ai đó ở New Orleans và tôi gọi ai khác ở Istanbul. Tôi hôn cả hai tai của họ. Khi họ cười nhìn thấy tôi, tôi ních thật nhiều vào; tôi là thứ cầu cạnh nhất thế gian. Đây là điều tôi nhận ra: Tôi chẳng biết tôi cần được người khác cần tới mình nhiều như thế, phải độc lập, chẳng bao giờ sống vì một người đàn ông nhưng mà xin chào, chào, khỏe không? Khi nào mày về nhà?
Một phụ nữ chờ đợi đàn ông xây dựng thế giới nàng muốn thay vì tự tạo ra nó, thật sai quấy biết bao.
- Anais Nin
Tôi nhặt lấy thỏi vàng quan tâm bóng lưỡng từ họ và cho vào túi.
Tôi uống cà phê, tôi làm bữa tối. Tôi nghe một bản nhạc về tuổi 17, và chàng ca sĩ hát, “Bao quanh bởi chẳng gì khác ngoài hư vô bao quanh chúng ta.”
Tôi bách bộ và nghĩ về New Orleans, về Istanbul. Hàng dặm trường. Những nhà thờ và thánh đường Hồi: cả hai đều đánh thức tôi dậy. Tiếng chuông lệch hay tiếng cầu kinh của iman. Tôi vui được một mình và rồi đêm tới và tôi không còn rượu cũng không muốn một mình, và tôi gọi một người, và anh ta đáp lại.
Những ngày cuối đợt nhiệm trú, giám đốc mời tôi tới Þorrabló, một kiểu lễ hội giữa đông. Một nửa ngôi làng tụ họp. Chúng tôi dùng thức ăn truyền thống - cá mập ngâm muối, pín cừu, cá voi - và rồi có một chuỗi tiểu phẩm, hoàn toàn bằng tiếng Iceland, về những điều vui nhộn xảy ra tại thị trấn. Tôi chẳng hiểu gì nhưng tôi cười theo họ.
Âm nhạc và nhảy múa bắt đầu tiếp theo sau, và vậy là người đầu tiên chạm vào tay tôi sau ba tuần là một cụ rất già, già tới nỗi ông gù mình khi bước đi, không nói tiếng Anh, người nhảy waltz với tôi say sưa trong căn phòng gỗ nhập nhoạng ánh đèn đang lúc tôi khúc khích và lưỡng lự và cố gắng bắt kịp theo ông.
Ai cũng thành cặp thành đôi. Di chuyển quanh căn phòng. Tôi nhảy với rất nhiều người, những cụ già, những phụ nữ trẻ, tất cả đều nắm chặt tay và liến thoắng bước theo nhạc. Tôi chẳng nhớ tên họ.
Khi chúng tôi rời đi, tôi ngồi trên xe tải và nhìn ra cửa sổ.
“Có phải kia là Bắc cực quang không?” Tôi hỏi.
“Đúng vậy,” ông giám đốc trả lời.
Thực ra chúng chẳng phải ánh sáng. Chẳng phải cái mà tôi nhìn thấy trong ảnh chụp. Tất cả những gì tôi nhìn thấy là hừng mỏng màu xanh lá. Nhưng tôi dứ trán sát vào mặt kính lạnh và không rời mắt cho tới khi chúng khuất sau ngọn núi.
Ba tuần kết thúc. Tôi thu dọn túi giỏ để rời ngôi nhà yên ắng, từ tinh mơ, khi trời vẫn còn tối. Tôi đón chuyến bay băng qua hòn đảo lạnh giá và đáp xuống Reykjavik, nơi tôi ở cùng một cậu bé chưa từng gặp trước đó. Cậu thở lên hai bàn tay tôi. Sau khi đi, sau khi tôi bước tới sân bay và đón máy bay vượt qua vùng biển giá băng và đón chuyến nối ở Đan Mạch, tôi ngồi lại một công viên ở Copenhagen, cọ quậy ngón tay hở của chiếc găng trong túi. Tôi chạm vào lớp len và viết thêm một thứ nữa, một lá thư tôi chẳng bao giờ gửi, rằng,
Cảm ơn đã cùng đi với tôi dọc con đường biển tới sân bay, dù con đường bị chặn, vì tôi đã quên bẵng nhạc của mình ở đó. Và tôi xin lỗi vì đã lấy một chiếc găng tay và giờ đây tay của cậu sẽ khép, lạnh giá, xin thứ lỗi đã hôn cậu như thế, nhưng cậu quá đỗi điển trai với hàm răng hỏng và cô độc, và cảm giác khi thốt câu “Tôi chẳng có bạn bè,” thật thoải mái biết bao và tôi xin cậu thứ lỗi sẽ chẳng bao giờ gặp lại cậu. Cảm ơn vì đã cười khi tôi nói, “Có lẽ tôi sẽ gặp cậu lần nữa.”
Tôi trở về đại lục và khi tôi đi vắng chẳng có gì xảy ra. Tôi vẫn đang mua những ổ bánh mì. Tôi vẫn giặt ủi, vẫn trút bột giặt màu xanh vào chiếc máy giặt sáng bóng. Tôi vẫn lấy tiền thừa từ người đàn ông ở chợ trái cây, cầm đồng lira lạnh lẽo và bóng loáng, làm dập chỗ cà chua.
Khi trở về Istanbul tôi không còn cô đơn nữa. Tôi ở bên một người và tôi hôn anh ở đây ở đó và ở kia.
Nhưng tôi còn lấn cấn một chuyện cuối cùng: rằng ở đây, hạnh phúc, có người bao quanh, tôi lại không làm việc. Sự viết lách biến đi mất. Tiếng nói ban sáng trở nên yên ắng vì vào buổi sáng, có một giọng nói thật, ngoài tôi ra, sát gần tôi, ấm áp và thực và gần gũi và dễ dàng hơn nhiều, tốt lành hơn nhiều. Anh ta không để tôi cô đơn, trong căn phòng ánh vàng ở một quốc gia ấm áp hơn.
Tôi sợ rằng đã mất đi một điều gì đó, khi mà giờ đây chẳng còn cô liêu.
Nhưng khi anh ấy đi làm, và tôi là kẻ duy nhất trong phòng khách nhà anh mềm dịu với thảm Thổ Nhĩ Kỳ tinh tế, tôi có thể trở lại là con người bí ẩn của mình. Có lẽ chẳng ai đang nghĩ về tôi, dù chỉ một lần. Tôi đánh dấu những gì có thể; tôi nghĩ tới những thứ đã đọc.
Tôi sẽ không cuộn tấm thảm phương Đông đẹp đẽ của mình và đôi chút Anaximander rồi tôi sẽ đi trượt.
- Jill McCorkle 
Cách chúng ta cuộn thảm để nhảy nhót, và những ngày tháng / rực đỏ.
- Richard Skine
Tôi chạm vào gương mặt không-xấu của mình trong tấm gương nhà tắm. Tôi ra lệnh, “Sống mãi!”
Trong căn phòng khách ở một quốc gia ấm áp, tôi cô độc nhưng không cô đơn. Tôi là một thực thể đang sống giữa nhiều thực thể đang sống khác. Ai đó mong sẽ gặp tôi. Điều tôi nhận ra từ những chuyến di chuyển từ một quốc gia ở phương Bắc sang một quốc gia khác, và cái tôi mang trong túi trở về nhà cùng những viên đá núi lửa màu xám và một chiếc găng phương Bắc đã mất. Cách để được bao quanh. Cách để trở thành duy nhất.
k.