CỔ CẦM THẬP ĐẠI DANH KHÚC KÌ 2
10 bản nhạc cổ của nền văn minh phương Đông. Là sự đúc kết của cổ nhân, từ nhạc luật đến phương diện nhân sinh. Được lưu truyền tới...
10 bản nhạc cổ của nền văn minh phương Đông. Là sự đúc kết của cổ nhân, từ nhạc luật đến phương diện nhân sinh. Được lưu truyền tới ngày hôm nay cũng đã qua mấy ngàn năm.
Thập đại danh khúc phải được tấu bằng cổ cầm, thứ đàn của bậc quân tử thánh nhân trong Nho giáo xưa mới có thể hiện rõ khí khái, căn cốt bản đàn, cũng như rượu bồ đào thì phải uống trong chén phỉ thuý. Nên tôi mạn phép gắn 2 chữ " cổ cầm " với " thập đại danh khúc"
_____________________________________________________________________
Thập diện mai phục
Ra đời vào năm 202 TCN, “Thập diện mai phục” được biết đến như là một bản hùng ca miêu tả về cuộc chiến Hán Sở giao tranh. Mang theo âm hưởng gấp gáp, mãnh liệt, dữ dội và bi thương của chiến trận, nhạc khúc được lưu truyền cho đến tận ngày nay mà không ai biết được về nguồn gốc tác giả của nó.
“Thập diện mai phục” còn có tên là “Hoài Âm bình Sở”, lấy trận chiến ở Cai Hạ của Lưu Bang, Hạng Vũ làm chủ đề, vận dụng kỹ xảo riêng của đàn tỳ bà để miêu tả cảnh binh lính giao tranh khiến tâm linh của người nghe chấn động. Vậy trận Cai Hạ bi tráng đã diễn ra như thế nào?
Trận Cai Hạ, Ngu Cơ tự vẫn, Hạng Vũ phá vây cùng 28 kỵ binh
Năm 202 TCN, Lưu Bang cùng quân của chư hầu đánh quân Sở thắng Hạng Vũ một trận quyết liệt ở Cai Hạ. Riêng cánh quân Tề của Hàn Tín đã có 30 vạn người, ngoài ra Khổng tướng quân ở cánh trái, Phí tướng quân ở cánh phải, Lưu Bang ở phía sau, Chu Bột, Sài Vũ ở sau lưng Lưu Bang. Toàn thể quân Hán có đến năm sáu chục vạn. Quân của Hạng Vũ chỉ vào khoảng 10 vạn, lực lượng rất chênh lệch. Tuy nhiên Hàn Tín cầm quân Tề đánh đầu tiên cũng không thắng nổi, phải rút lui. Khổng tướng quân và Phí Tướng quân đem quân đến giúp. Quân Hán quá đông nên quân Sở không thắng được. Hàn Tín nhân lúc ấy lại tiến lên đánh quân Sở đại bại ở Cai Hạ phải rút vào thành.
Hạng vương đóng quân ở trong thành Cai Hạ, binh ít, lương hết. Quân Hán và quân chư hầu bổ vây mấy vòng. Đang đêm, Hạng vương thức dậy nghe quân Hán ở bốn mặt đều hát giọng Sở, Hạng vương kinh hoàng, nói: “Hán đã lấy được Sở rồi sao? Sao mà người Sở lại đông như thế?”
Đêm đó Hạng vương uống rượu trong trướng cùng mỹ nhân Ngu Cơ. Hạng vương đau đớn cảm khái làm bài thơ, được đời sau gọi là bài “Cai Hạ ca”:
Lực bạt sơn hề, khí cái thế,
Thời bất lợi hề, Truy bất thệ
Truy bất thệ hề khả nại hà,
Ngu hề, Ngu hề nại nhược hà.
Dịch:
Sức dời núi, khí trùm trời,
Ô Truy chùn bước bởi thời không may!
Ngựa sao chùn bước thế này?
Ngu Cơ, biết tính sao đây hỡi nàng?
Hạng vương ca mấy lần, Ngu Cơ múa kiếm, hát hòa theo, lời ca rằng:
Hán binh dĩ lược địa,
Tứ diện Sở ca thanh.
Trượng phu ý khí tận,
Tiện thiếp hà liêu sinh.
Dịch:
Quân Hán lấy hết đất,
Khúc Sở vang bốn bề.
Trượng phu chí lớn cạn,
Tiện thiếp sống làm chi.
Rồi Ngu Cơ tự vẫn. Tương truyền nơi máu bà đổ xuống mọc lên một thứ cỏ hễ có rót rượu gần bên thì cỏ múa lả lướt như Ngu Cơ trong tiệc rượu của Hạng Vũ. Người ta gọi cỏ ấy là “Ngu mỹ nhân thảo”.
Hạng vương lên ngựa, tráng sĩ cưỡi ngựa ở dưới cờ chỉ còn hơn 800 người, đang đêm phá vỡ vòng vây xông ra phía nam, phi ngựa chạy. Đến tảng sáng, quân Hán mới biết, sai kỵ tướng là Quán Anh mang năm ngàn kỵ binh đuổi theo.
Hạng Vương vượt qua sông Hoài, quân kỵ theo kịp chỉ còn hơn trăm người. Hạng Vương đến Âm Lăng lạc đường, hỏi một cụ già làm ruộng. Cụ già nói dối, bảo ông đi qua bên trái. Hạng Vương rẽ qua bên trái, sa vào trong đồng lầy, cho nên quân Hán đuổi kịp. Hạng Vương lại đem quân đi về phương đông, đến Đông Thành, bấy giờ chỉ còn 28 kỵ binh. Kỵ binh Hán đuổi theo mấy ngàn.
Hạng Vương tự liệu chẳng thoát được, bèn trổ tài oai dũng, phá vòng vây, chém tướng, chặt cờ. Hạng Vương phi ngựa xuống, quân Hán đều giạt ra một bên, ông mặc sức tung hoành trong quân địch, đi lại như chốn không người, giết một viên tướng Hán, một viên đô úy cùng vài trăm binh lính. 28 kỵ binh thấy vậy đều vô cùng khâm phục.
Hạng Vương đi sang phía đông. Người ngựa chạy đến bờ sông Ô Giang thì cùng đường. Có người đình trưởng Ô Giang cắm thuyền đợi, bảo Hạng Vương: “Giang Đông tuy nhỏ, nhưng đất hàng ngàn dặm, dân vài mươi vạn, cũng đủ làm vương. Xin đại vương mau mau vượt sông. Nay chỉ một mình thần có thuyền, quân Hán đến không có cách gì vượt qua.”
Hạng Vương cười nói: “Trời hại ta, ta vượt qua sông làm gì! Vả chăng Tịch này cùng tám ngàn con em Giang Đông vượt Trường Giang đi về hướng tây, nay không còn lấy một người trở về! Dù cho các bậc cha anh ở Giang Đông thương ta, cho ta làm vương, ta cũng còn mặt mũi nào mà thấy họ nữa. Dù họ không nói, Tịch này há chẳng thẹn trong lòng sao?”
Rồi ông bảo người đình trưởng: “Ta biết ông là bậc trưởng giả, ta cưỡi con ngựa này, năm năm nay đi đến đâu cũng vô địch, thường một ngày đi ngàn dặm, ta không nỡ giết, xin biếu ông.”
Quân Hán đến, Hạng Vương sai kỵ binh đều xuống ngựa đi bộ, cầm khí giới ngắn để tiếp chiến. Một mình Hạng Vũ giết mấy trăm quân, thân bị hơn 10 vết thương. Ông quay lại thấy kỵ binh tư mã của Hán là Lã Mã Đồng vốn là tướng cũ của mình, bèn bảo Đồng: “Ta nghe vua Hán mua đầu ta ngàn vàng, phong ấp vạn hộ. Ta làm ơn cho nhà ngươi đây.”
Nói rồi, Hạng Vương tự đâm cổ chết. Năm đó ông 31 tuổi, ở ngôi Tây Sở Bá vương được 5 năm (206 – 202 TCN).
Khúc “Thập diện mai phục”
Có gi chép bằng văn tự liên quan đến khúc “Thập diện mai phục” trong “Tứ chiếu Đường tập Thang tỳ bà truyện” của Vương Du Định đời Minh rằng, Thang Ưng Tăng (khoảng 1585-1652) được người đời gọi là “Thang tỳ bà đàn khúc tỳ bà Hán Sở”, họ Thang đàn hơn 110 bản mà hay nhất là khúc “Hoài Âm bình Sở” này.
“Giữa lúc đôi bên quyết chiến, tiếng sát long trời lở đất, ngói trên mái nhà dường như rung rinh; lại có tiếng vang, tiếng trống, tiếng cung kiếm, tiếng người ngựa gào thét; lâu lâu có nỗi oan khó tỏ bày là tiếng Sở ca thê lương mà hùng tráng, là tiếng Hạng Vương từ biệt Ngu Cơ; ở đầm lớn có tiếng quân kỵ đuổi theo; đến Ô Giang có tiếng Hạng Vương tự vẫn, tiếng gió ngựa giày đạp của quân kỵ tranh xác Hạng Vương, khiến người nghe hưng phấn rồi kinh hoàng, cuối cùng bật khóc mà bàng hoàng, sự cảm động lòng người của nó đến độ như vậy”.
Có người đem giai điệu của đoạn đầu “Thập diện mai phục” so với khúc thứ năm lớp thứ bảy “Ca khúc cổ điển” ở biên giới phía Bắc của sắc tộc Duy Ngô Nhĩ, phát hiện âm điệu cốt lõi, dấu lặng và khí vị của hai cái hết sức giống nhau, nhân đó mà cho rằng “Thập diện mai phục” hấp thu được tinh hoa âm nhạc của sắc tộc thiểu số Tây Bắc. Thang Ưng Tăng đúng là đã từng đến chiến trường Tây Bắc như Gia cốc quan, Trương dịch, Tửu tuyền v.v… có đủ điều kiện để sáng lập “Thập diện mai phục”. Nhưng, Vương Du Định, người giao du thân mật và kết làm tri kỷ với Thang Ưng Tăng, trong “Thang tỳ bà truyện” lại không nói việc Thang sáng tác “Thập diện mai phục”, mà đem nó liệt vào loại “cổ khúc”.
Nhiều người cho rằng các cổ khúc tỳ bà đều phát sinh từ dân gian, rồi trải qua diễn xuất luyện tập của mấy đời nghệ nhân nên ngày càng chín chắn, hoặc đến cao độ thuần phục, là kết tinh của trí tuệ tập thể. “Thập diện mai phục” có thể cũng lại như vậy chăng?
Đại thi hào Nguyễn Du trong tác phẩm Truyện Kiều cũng nhắc đến danh khúc này Khi Kiều đàn cho Kim Trọng nghe.
Khúc đâu Hán Sở chiến trường
Nghe ra tiếng sắt tiếng vàng chen nhau

Mai hoa tam lộng
Mai hoa tam lộng là nhạc khúc nằm trong thập đại danh khúc của Trung Hoa còn lưu lại cho người đời. Bản nhạc được ví như lời tự tình của bậc quân tử, như hoa mai hiên ngang đẹp đẽ tinh khôi, là nhạc khúc mượn vẻ đẹp của hoa mai tinh khiết, thơm ngát và sự bền bỉ kiên cường trong giá lạnh mà ngợi ca cho những bậc nam nhân tiết tháo cao thượng, hoa mai thơm như lòng người quân tử.
Cổ cầm là một nhạc cụ có thể truyền tải âm thanh mang những ẩn ý thâm sâu mà rất ít nhạc cụ nào có thể làm được, để thực sự cảm thụ sâu sắc âm điệu của từng nốt nhạc, người xưa chọn cổ cầm là ngôn ngữ biểu đạt cho trạng thái tư tưởng và tâm tư thầm kín.
Khi lắng nghe Mai hoa tam lộng bằng cổ cầm, người ta ví là nhạc khúc ‘‘tá vật vịnh hoài’’, là lời tâm tình sâu lắng nhất, thể hiện rõ nét nhất sự khẳng khái, chính trực của một nam nhân lỗi lạc. Mỗi nốt nhạc như một viên ngọc trong tâm quân tử, trong sáng và thanh cao, bụi trần chẳng làm dơ đục.

Vẻ đẹp của hoa mai qua từng nốt nhạc biểu tượng cho tiết tháo của trang quân tử.
Người xưa nói rằng ‘‘hữu xạ tự nhiên hương’’ với ngụ ý nếu là một viên ngọc quý, không cần lời nó cũng tự tỏa sáng long lanh, cũng giống một người tài chẳng cần khoe khoang thì bản lính đó cũng tự bộc lộ. Nên bậc quân tử phải lấy khiêm nhường làm cốt cách.
Ngay đoạn đầu của bản nhạc, tiết tấu âm chậm rãi, thong dong, nghe giống bước chân của một nam nhân đang bước đi khoan thai, tâm tình rộng mở. Mang theo giai điệu du dương, thanh u gợi lên sự cao quý và trạng thái tĩnh tại an tường của hoa mai, đoạn này âm Giốc làm căn bản, nên người nghe lập tức được cảm giác vui tươi, hình tượng bông hoa mai ẩn hiện trong lớp sương lạnh, như bóng dáng của một quân tử đang ung dung tự tại giữa dòng đời cuộn chảy.
Bản nhạc chia ra làm 2 sắc thái rõ rệt, đoạn đầu là sự êm đềm sâu lắng, là vẻ đẹp của hoa mai hay tâm hồn của bậc quân tử, thì đoạn sau lại là những cao trào với tiết tấu âm nhanh gọn sắc bén.
Ý chí của người quân tử bất khuất hiên ngang giữa muôn trùng những chông gai vùi lấp.
Có một giai thoại về Mai hoa tam lộng đó là câu chuyện về Nhân Hồng Hạo vào thời Nam Tống. Ông vốn là một người được sai đi sứ nước Kim nhưng rốt cuộc bị bắt lại mất hơn mười năm. 10 năm dài chờ đợi đằng đẵng được hồi hương, 10 năm sống trong sự uy hiếp rồi dụ dỗ của kẻ địch, tâm ông chẳng sợ, lòng dạ chẳng sờn, vẫn hiên ngang từ chối mọi ưu sách, ông một mực bảo trì phong thái cao thượng, coi nhẹ hư vô ở đời.
Tịch dương tiêu cổ
Tịch dương tiêu cổ là một nhạc khúc nổi tiếng được nhiều người biết đến nhất trong thập đại danh khúc của người Trung Hoa cổ đại. Dùng tiếng đàn để miêu tả lên vẻ đẹp đầy thơ mộng lúc hoàng hôn trên dòng sông. Làn gió thoảng bóng chiều tà, mặt trời tìm về yên giấc ngủ, nhường lại cho dòng sông đón ánh trăng lên.
Tịch Dương Tiêu Cổ có nhiều tên gọi khác nhau như Tịch dương tiêu ca 夕阳箫歌, Tầm dương tì bà 浔阳琵琶, Tâm dương dạ nguyệt 浔阳夜月, tầm dương khúc 浔阳曲. Nhạc khúc lấy cảm hứng từ thi phẩm “Xuân giang hoa nguyệt dạ” (Đêm hoa trăng trên sông xuân) của Trương Nhược Hư, chính vì thế, khúc “Tịch Dương Tiêu Cổ” cũng còn có tên khác là “Xuân giang hoa nguyệt dạ”.
Vẻ đẹp của dòng sông khi hoàng hôn xuống như âm thanh trong trẻo của tiếng đàn.
Khúc dạo đầu của bản nhạc mang giai điệu nhẹ nhàng, tiếng đệm cổ tranh như nhịp khua mái trèo. Âm thanh của tiếng tì bà cất lên mang lại cảm giác của sự tĩnh lặng của mặt dòng sông. Mặt trời màu đỏ rực đang dần khuất dạng, mặt sông chẳng chút gợn sóng.

Giai điệu thanh nhã, người chơi sử dụng kĩ thuật vê, rung dây. Biến tấu nhạc khúc lúc cuộn trào, khi êm đềm nhẹ nhàng. Tạo lên một bức tranh sông nước đẹp dịu dàng.
Chuyển tấu giữa các khúc nhạc cùng các biến thể của các thủ thuật chơi tì bà mang lại cho người nghe như âm thanh của tiếng sóng nước. Trước mắt người nghe là cảnh tượng mặt trời đi tìm giấc ngủ, nhường lại cho dòng sông với sắc màu vàng óng ả. Hai bên bờ hoa lá cỏ cây như đang thay nhau sửa soạn cùng dòng sông đón ánh trăng lên. Làn gió nhẹ khẽ đung đưa nhị hoa. Tiếng vẫy của từng cánh hoa là khi tiếng tì bà chọn rơi trên cung trầm nhẹ.
Cuộc sống tưởng chừng như thanh bình nhưng lại thấy sự tất bật của vạn vật. Nó được thể hiện qua những giai điệu nhanh, dồn dập, hối hả như sự mải mê của muôn loài đi tìm cho mình nơi trú ẩn, hay tươm tất cùng ánh trăng lên sau dãy núi cao. Mặt trời đang dần khuất dạng, bóng nước như nuốt đi cả ánh hoàng hôn. Tiếng cổ tranh thánh thót nhẹ nhàng đầy mê hoặc.
Sự phối âm của 2 cây đàn dây nổi tiếng cổ tranh và tì bà như âm thanh của mùa thu, của 2 loài cây phong và địch. Tiếng đàn thánh thót trải dài vùng sông nước, như tiếng vọng của núi rừng. Đưa người nghe như đang chiêm ngưỡng bức tranh thủy mặc với sự cuốn hút say mê. Cảnh vật hữu tình cùng âm thanh ngọt ngào là sự kết hợp tinh tế của tạo hóa.
Vang vọng đâu đây tiếng đạp của mái chèo, tiếng hò vang xa của chiếc thuyền đánh cá đang vội vã trở về nhà trong bóng chiều tà. Cảnh đẹp hoàng hôn trở lên huy hoàng không mang theo sự cô quạnh một lần nữa được ngân vang bởi sự phối âm hoàn hảo giữa hai nhạc cụ truyền thống cổ tranh và tì bà.
Bản nhạc được này gồm có 10 phân đoạn theo thứ tự và tạm diễn nghĩa là:
Tịch dương tiêu cổ (Tiếng tiêu trống trong buổi chiều tà)
Hoa nhị tán hồi phong (Nhụy hoa đung đưa trong gió)
Quan sơn lâm khước nguyệt (Mặt trăng đằng sau dãy núi cao)
Lâm thủy tà dương (Mặt trời lặn dần xuống nước)
Phong địch thu thanh ( âm thanh của mùa thu, cùng hai loài cây phong và địch)
Vu hạp thiên tầm (Nơi sông núi giao nhau hiếm có)
Tiêu thanh hồng thụ lý (Tiếng tiêu sáo vang lên giữa những làn cây)
Lâm giang vãn thiếu (Nhìn ra dòng sông buổi hoàng hôn)
Ngư chu xướng vãn (Tiếng hát vọng ra từ thuyền đánh cá vào buổi chiều tà)
Tịch dương ảnh lý nhất quy chu (Bóng tịch dương trở về trên thuyền)

Tịch dương tiêu cổ mang theo giai điệu tiết tấu và sự phối âm nhịp nhàng của tì bà và cổ tranh. Làm nổi bật cảnh non nước mây trời Giang Nam. Núi sông bốn bể, vạn vật chung mái nhà. Giữa người và thiên nhiên là sự hòa đồng gắn kết bền chặt. Đây là một bức tranh sơn thủy hữu tình với sự tinh tế và đường nét sắc sảo thể hiện qua từng nốt nhạc trên từng âm điệu. Một phóng tác tuyệt vời của âm nhạc mà người xưa lưu lại cho hậu nhân.
Bản nhạc dựa trên cảm hứng của bài thơ “Xuân giang hoa nguyệt dạ” của nhà thơ Đường nổi tiếng Trương Nhược Hư.
Để cảm nhận sâu sắc vẻ đẹp qua bức tranh âm thanh, xin gửi tới bạn đọc nội dung bài thơ của nhà thơ Đường nổi tiếng Trương Nhược Hư:
Xuân giang triều thủy liên hải bình,Hải thượng minh nguyệt cộng triều sinh.Diễm diễm tùy ba thiên vạn lý,Hà xứ xuân giang vô nguyệt minh.
Giang lưu uyển chuyển nhiễu phương điện,Nguyệt chiếu hoa lâm giai như tiển.Không lý lưu sương bất giác phi,Đính thượng bạch sa khan bất kiến.
Giang thiên nhất sắc vô tiêm trần,Hạo hạo không trung cô nguyệt luân.Giang bạn hà nhân sơ kiến nguyệt?Giang nguyệt hà niên sơ chiếu nhân?
Nhân sinh đại đại vô cùng dĩ,Giang nguyệt niên niên vọng tương tư.Bất tri giang nguyệt chiếu hà nhân,Đãn kiến trường giang tống lưu thủy.
Bạch vân nhất phiến khứ du du,Thanh phong giang thượng bất thăng sầu.Thùy gia kim dạ biên chu tử,Hà xứ tương tư minh nguyệt lâu?
Khả liên lâu thượng nguyệt bồi hồi,Ưng chiếu ly nhân trang kính đài.Ngọc hộ liêm trung quyển bất khứ,Đảo y châm thượng phất hoàn lai.

Thử thời tương vọng bất tương văn,
Nguyện trục nguyệt hoa lưu chiếu quân.
Hồng nhạn trường phi quang bất độ,
Ngư long tiềm dược thủy thành văn.
Tạc dạ nhàn đàm mộng lạc hoa,
Khả liên xuân bán bất hoàn gia.
Giang thủy lưu xuân khứ dục tận,
Giang đàm lạc nguyệt phục tây tà.
Tà nguyệt trầm trầm tàng hải vụ,
Kiệt Thạch, Tiêu Tương vô hạn lộ.
Bất tri thừa nguyệt kỷ nhân quy,
Lạc nguyệt dao tình mãn giang thụ.
Diễn nghĩa:
Thuỷ triều lên, mặt sông xuân ngang mặt bể,
Trên bể, trăng sáng cùng lên với thuỷ triều.
Lấp loáng theo sóng trôi muôn ngàn dặm,
Có nơi nào trên sông xuân là không sáng trăng?
Dòng sông lượn vòng khu cồn hương thơm,
Trăng chiếu rừng hoa ngời như hạt tuyết.
Trên sông sương trôi tưởng như không bay
Bãi sông cát trắng, nhìn chẳng nhận ra.
Sông và trời, một màu không mảy bụi,
Ngời sáng trong không, vầng trăng trơ trọi
Người bên sông, ai kẻ đầu tiên thấy trăng?
Trăng trên sông, năm nào đầu tiên rọi xuống người?
Người sinh đời đời không bao giờ ngừng
Trăng trên sông năm năm ngắm vẵn y nguyên
Chẳng biết trăng trên sông chiếu sáng những ai
Chỉ thấy sông dài đưa dòng nước chảy.

Chẳng biết trăng trên sông chiếu sáng những ai.
Chỉ thấy sông dài đưa dòng nước chảy.
Mây trắng một dải, vẩn vơ bay
Cây phong biếc xanh trên bờ buồn khôn xiết
Người nhà ai đêm nay dong con thuyền nhỏ
Người nơi nao trên lầu trăng sáng đương tương tư?
Đáng thương cho trên lầu vầng trăng bồi hồi
Phải chiếu sáng đài gương người biệt ly
Rèm nhà ngọc cuốn lên rồi, trăng vẫn không đi
Phiến đá đập áo lau đi rồi, trăng vẫn cứ lại
Giờ đây cùng ngắm trăng mà không cùng nghe tiếng nhau
Nguyện theo ánh đẹp vầng trăng trôi tới chiếu sáng bên người
Chim hồng nhạn bay dài không thể mang trăng đi
Cá rồng lặn nhảy, chỉ khiến làn nước gợn sóng
Đêm qua thanh vắng, mơ thấy hoa rơi,
Đáng thương cho người đã nửa mùa xuân chưa về nhà
Nước sông trôi xuôi, xuân đi sắp hết
Trăng lặn trên bãi sông, trăng xế về tây
Trăng xế chìm dần lẩn trong sương mù mặt bể
Núi Kiệt Thạch, sông Tiêu Tương đường thẳm không cùng
Chẳng biết nhân ánh trăng đã mấy người về
Trăng lặn, rung rinh mối tình, những cây đầy sông.
Dịch thơ (Bản dịch của Trần Trọng Kim)
Sông liền biển, nước xuân đầy dẫy
Trăng mọc cùng triều dậy trên khơi
Trăng theo muôn dặm nước trôi
Chỗ nào có nước mà trời không trăng?
Dòng sông lượn quanh rừng thơm ngát
Trăng soi hoa trắng toát một màu
Trên không nào thấy sương đâu
Trắng phau bãi cát ngó hầu như không.
Không mảy bụi trời sông một sắc
Một vầng trăng vằng vặc giữa trời
Trăng sông thấy trước là ai
Đầu tiên trăng mới soi người năm nao.
Người sinh hoá kiếp nào cùng tận
Năm lại năm trăng vẫn thế hoài
Trăng sông nào biết soi ai
Dưới sông chỉ thấy nước trôi giữa dòng.
Mảnh mây bạc mông lông đi mãi
Rừng phong xanh trên bãi gợi sầu
Thuyền ai lơ lững đêm thâu
Trong lầu minh nguyệt chỗ nào tương tư.
Trên lầu nọ trăng như có ý
Vào đài trang trêu kẻ sinh ly
Trong rèm cuốn cũng không di
Trên chày đập áo phủi thì vẫn nguyên.

Trên lầu nọ trăng như có ý.
Vào đài trang trêu kẻ sinh ly.
Mong nhau mãi mà tin bặt mãi
Muốn theo trăng đi tới cạnh người
Nhạn bay trăng cứ đứng hoài
Cá rồng nổi lặng nước trôi thấy nào.
Đêm trước thấy chiêm bao hoa rụng
Thương quê người chiếc bóng nửa xuân
Nước sông trôi hết xuân dần
Trăng sông cũng lặn xế lần sang tây.
Trăng xế thấp chìm ngay xuống bể
Cách núi sông xa kể dường bao
Cõi trăng về ấy người nào
Cây sông trăng lặn nao nao mối tình
Tịnh Tâm
Ngư tiều vấn đáp
“Ngư tiều vấn đáp” là một danh khúc cổ cầm nổi tiếng của Trung Hoa. Tra cứu di phổ từ xưa thì có chỉ quyết (phương pháp ngón đàn) mà không có âm văn (lời ca), khảo cứu cầm sử thì có văn âm mà không có chỉ quyết. Người đời sau phối văn âm vào phổ để cho người đàn, người nghe biết được cái phong vị, vận điệu thanh cao ở trong khúc. Thích ngư tiều, vui với giang sơn, làm bạn với cá, tôm, hươu nai, đối với trăng thanh gió mát, cả ta và người cùng quên. Sự vi diệu ấy những kẻ tầm thường chết vì lợi lộc sao có thể biết được?
Trong “Cầm học sơ luật” có bàn về “Ngư tiều vấn đáp” như sau: “Ý nhạc thâm trường, tinh thần tiêu sái, mà lại có sự hùng vĩ của núi non, mênh mông của sông nước, tiếng chan chát của búa, tiếng sóng chèo thuyền, ẩn hiện dưới ngón tay.” Do sự chuẩn xác, sinh động của hình tượng âm nhạc, nên gần mấy trăm năm qua “Ngư tiều vấn đáp” vẫn được lưu truyền rộng rãi trong giới nghệ sĩ cổ cầm. Sau này Dương Biểu Chính đã hiệu đính nhạc phổ, phối thêm ca từ. Vào thời nhà Thanh các cầm gia lại lược bớt đi ca từ, đem giai điệu thay đổi đi một chút, trở thành khúc nhạc khí độc lập. Nhạc khúc này ưu mỹ thanh thoát, dựa vào giai điệu theo hình thức đối đáp, miêu tả cuộc đối thoại giữa ngư phu và tiều phu.
Nhạc khúc này khi lưu truyền qua các thời đại khác nhau có tới hơn 30 phiên bản, có bản còn có thêm cả ca từ. Bản nhạc tồn tại hiện nay được biết đến nhiều nhất từ cuốn “Hạnh Trang Thái Âm tục phổ” thời nhà Minh do Tiêu Loan biên soạn, còn bản phổ thì có nhiều loại.
Đại biểu cho “ngư” nổi tiếng nhất trong lịch sử Trung Hoa là Nghiêm Tử Lăng thời Đông Hán. Vào thời còn trẻ ông là bạn học của Hán Quang Vũ Đế Lưu Tú. Lưu Tú sau khi lên làm hoàng đế thì Nghiêm Tử Lăng đổi tên họ giấu mình ở ẩn. Quang Vũ Đế nhớ bạn là người hiền tài, nên cho người tìm khắp nơi. Sau một người nước Tề dâng thư báo rằng, có người bận áo lông dê câu cá, đoán chắc là Nghiêm Quang. Quang Vũ Đế cho xe đến đón, Nghiêm Tử Lăng ba lần từ chối, lần thứ tư Nghiêm Tử Lăng mới chịu về yết kiến. Hai người thân thiết nằm cùng giường nói chuyện, nhưng khi Quang Vũ Đế mời ra làm quan thì Nghiêm Tử Lăng vẫn không chịu mà từ tạ trở về cày ruộng ở núi Phú Xuân.
Đại biểu cho “tiều” lại là đại thần Chu Mãi Thần thời Hán Vũ Đế. Thuở hàn vi, ông vừa gánh củi vừa học. Vợ gánh củi theo sau lấy làm xấu hổ, xin bỏ đi lấy chồng khác. Ông cười bảo: “Ta đến 50 tuổi mới giàu sang được, nay đã hơn 40 tuổi rồi. Nàng chịu khổ đã lâu, nay hãy gắng đợi ta giàu sang, ta sẽ báo đáp công lao cho.” Vợ giận dữ nói: “Như cung cách của ông thì chỉ có chết đói ở cống rãnh mà thôi, sao lại dám mong giàu sang được.” Mãi Thần phải để vợ đi lấy chồng khác. Từ đó, ông một thân một mình đi gánh củi, vừa đi vừa học như trước. Về sau, thời Hán Vũ Đế, ông được người làng là Nghiêm Trợ tiến cử, nhà vua cho vào yết kiến, nói chuyện nghĩa lý về kinh Xuân Thu và Sở Từ. Vua rất hài lòng, mời ông giữ chức Trung Đại Phu, rồi sau giữ chức Thái thú đất Cối Kê. Khi đến Cối Kê nhậm chức, xe ngựa hơn trăm cỗ. Vào đất Ngô, ông thấy người vợ cũ cùng chồng đang gánh đất giữa đường liền cho dừng xe, bảo mời hai người lên xe sau đưa về dinh Thái Thú, cho ở một nơi và cấp lương ăn tử tế.
Dù là Nghiêm Tử Lăng có thể nằm cùng giường tâm tình với Hoàng Đế mà vẫn ẩn dật không ra làm quan; hay Chu Mãi Thần vừa gánh củi vừa học tập bền bỉ hàng chục năm ròng; họ đều cho thấy một bản sắc của bậc quân tử không vướng bận, không tham lam, vô tâm mà tự bao dung lấy cả trời đất.
Giai điệu
Giai điệu khởi đầu của “Ngư tiều vấn đáp” nhẹ nhàng khoan thai, biểu hiện ra một loại phong cách phiêu dật thanh thoát, sự hô ứng giữa câu trên câu dưới tạo thành niềm vui thú đối đáp giữa ngư tiều. Sự biến hóa phát triển của chủ đề âm điệu, lại không ngừng thêm vào những âm điệu mới, thêm vào đó là việc sử dụng kỹ thuật vê, cho đến đoạn thứ 7 thì hình thành cao trào. Đã khắc họa nên ẩn sĩ hào phóng không ràng buộc, tâm trạng tiêu sái. Trong đó vận dụng kỹ thuật vẩy và tam đàn tạo nên âm hưởng mạnh mẽ, đối ứng với tiết tấu cắt đoạn, khiến người ta cảm nhận được sự hùng vĩ của cao sơn, tiếng búa bổ thùng thùng của tiều phu. Chủ đề âm điệu được thể hiện ở cuối đoạn 1 thông qua sự dịch chuyển biến hóa lặp đi lặp lại xuyên suốt toàn khúc nhạc, đã lưu lại cho người nghe một ấn tượng sâu sắc…
“Ngư tiều vấn đáp” có một sắc thái ẩn dật nhất định, có thể dẫn khởi sự hướng vọng của người ta đối với cuộc sống ngư tiều, nhưng ẩn ý ở sâu bên trong khúc nhạc này, hẳn chính là “xưa nay bao nhiêu việc phó mặc nói cười suông” và “những được mất thị phi trong nghìn năm, cũng chỉ phó vào trong một lời của ngư tiều mà thôi”. Chủ đề lớn về hưng vong được mất trong nghìn năm, đã bị một đoạn đối thoại của lão ngư, lão tiều mổ xẻ đến không còn tung tích, đó mới là ý nghĩa chính của khúc nhạc.
Chiếu theo khúc ấy, những tưởng là tác phẩm của người quân tử ẩn cư như tiềm long vậy. Bởi thấy non xanh nước biếc, muôn đời luôn tươi mới, những bậc biết được cái thú của sơn thủy ở trong ấy, duy chỉ có ngư với tiều. Coi thường mũ miện quyền chức, công danh, vạch dấu vết nơi thâm sơn cùng cốc, vùi thanh âm nơi sóng lớn cuồn cuộn. Thiên tử không thể xuống làm thần, chư hầu không thể làm bạn, mà dựa vào kết nghĩa kim lan, bầu bạn nói chuyện, đoán xét thịnh trị loạn lạc, bàn luận hưng vong, được mất thị phi hàng nghìn năm.

Hồ già thập bát phách
Hồ già thập bát phách (Mười tám điệu phách của kèn Hồ Già) là một thiên trong kiệt tác Bi phẫn thi 悲憤詩 của nữ sĩ Thái Văn Cơ thời Kiến An. Bi Phẫn Thi được sáng tác theo thể Tao, tức Li Tao do Khuất Nguyên khởi lập.Thái Văn Cơ hay Thái Diễm 蔡琰 (177–?) là con của ông Thái Ung (132-192), một nhà văn, nhà sử học và làm quan cuối thời Đông Hán. Thái Ung còn là người thông thạo âm luật.Thời Hán mạt, nàng Văn Cơ bị quân của Đổng Trác bắt đi lưu đài ở đất Hung Nô (sử Trung Quốc thường gọi là rợ Hồ) để kết hôn với vua Tả Hiền Vương 左賢王. Bà sống ở đó 20 năm và sinh được hai con. Sau nhờ Tào Tháo, vốn là bạn thân của Thái Ung, thương xót bà nên cho sứ giả đem vàng ngọc tới chuộc về nhưng hai con bà bị giữ lại. Trong sự mâu thuẫn giữ niềm vui hồi hương và bị nỗi đau chia lìa cốt nhục bà sáng tác Bi Phẫn Thi nói trên. Cũng xin nói thêm, trước khi đến Hung Nô bà đã có chồng tên là Vệ Trọng Đạo 衛仲道 nhưng ông này bị bệnh mà mất sớm nên không có con. Sau khi hồi hương bà tái giá với người cùng quận là Đổng Tự 董祀
Tóm tắt nội dung 18 phách:
1
Nỗi nhục lúc bị bắt
2
Nỗi lòng khi bị bức hôn
3
Cảnh rời Hán vào Hồ
4
Nhớ quê hương và than thở cảnh đời bạc mệnh
5
Thấy chim nhạn bay mà nhớ nghĩ xa xôi
6
Chịu đựng cảnh rét lạnh ở đất Hồ, đói mà không thể ăn được
7
Cảnh tượng ở Hồ
8
Trách trời giận người sao tạo chi một mối tình.
9
Mối sầu vô biên, hỏi trời cao mà không thấy trả lời
10
Chiến tranh không dừng, nỗi oán hận chiến tranh
11
Không tham sống sợ chết mà chỉ hy vọng ngày nào đó sẽ hồi hương cùng hai con.
12
Nỗi mâu thuẩn trong lòng khi sứ giả nhà Hán chuộc người mà phải li biệt hai con còn thơ dại.
13
Lúc xa biệt con để rời khỏi nước Hồ, lòng đau xót thương khốc thê thảm.
14
Về Hán mà hồn trong mộng dẫn dắt nàng về hai con ở đất Hồ.
15
Giấc mộng hai con cứ trở về không thôi.
16
Tưởng nhớ hai con mà muốn trở lại nước Hồ
17
Lúc đi nhớ quê hương, lúc về phải biệt li con dại.
18
Đoạn kết: chịu đượng cảnh mẹ con cách biệt đông tây, nhớ thương da diết.

Hán cung thu nguyệt
Hán Cung Thu Nguyệt vốn là một khúc nhạc dành cho đàn tỳ bà, sau này được chuyển thể thành các bản dành cho đàn cầm, đàn nhị. Mặc dù đây là một trong thập đại danh khúc Trung Hoa, nhưng chủ đề của nó thì không quá xa xưa. Mãi cho đến hơn 100 năm trước, sau khi các chế độ quân chủ phương Đông lùi bước khỏi vũ đài lịch sử, thì chủ đề nỗi u buồn của người cung nữ mới không còn tồn tại nữa. Bởi thế, người ta không rõ khúc nhạc này được sáng tác vào thời điểm nào, nhưng chắc chắn là nó không được sáng tác vào thời nhà Hán.
Khúc Hán Cung Thu Nguyệt rất có thể có một mối quan hệ nào đó với vở kịch Hán Cung Thu. Nhạc khúc có thể là nguồn cảm hứng của vở kịch, hoặc giả vở kịch là nguồn cảm hứng cho nhạc khúc. Vở Hán Cung Thu được Mã Chí Viễn sáng tác vào cuối thời nhà Nguyên, kể chuyện Vương Chiêu Quân được gả đến nơi xa để cầu hòa.
Chuyện kể rằng vào đầu thời Hán, hầu hết các phi tần và cung nữ đều xuất thân khiêm tốn. Các cung nữ đều mang trong mình ước mơ sẽ có cơ hội được hoàng đế sủng ái. Tuy nhiên Vương Chiêu Quân ở trong cung đã lâu, nhưng chưa một lần được thấy bóng dáng của hoàng thượng.
Trong cuốn Kinh Tây Tạp Ký của Cát Hồng đã kể một câu chuyện được hậu thế lưu truyền rộng rãi. Theo đó, vì có quá nhiều cung nữ nên Hán Nguyên Đế chỉ chọn người qua bức chân dung do họa sư trình lên. Họa sư cung đình Mao Diên Thọ, vì đòi Vương Chiêu Quân tiền hối lộ không thành, đã vẽ chân dung của Vương Chiêu Quân không có gì nổi bật. Vậy nên, Vương Chiêu Quân vốn có tướng mạo xinh đẹp xuất chúng, đã bị nhấn chìm trong vô vàn cung nữ.
“Nam Hung Nô Truyện – Hậu Hán Thư” chép rằng: “Chiêu Quân tự là Tường, người quận Nam, được tuyển vào cung vì là con gái nhà lành vào đầu thời nhà Nguyên. Khi đó, Hô Hàn Tà người Hung Nô vào triều, hoàng đế ban cho 5 cung nữ. Chiêu Quân vào cung đã mấy năm, không được thấy dung nhan hoàng thượng, trong lòng oán thán đã lâu, nay xin triều đình cho đi. Khi Hô Hàn Tà sắp từ biệt, hoàng đế cho gọi 5 cung nữ ra. Chiêu Quân dung mạo diễm lệ, phục sức lộng lẫy, tỏa sáng nơi Hán cung, cử chỉ trang nhã, thu hút ánh nhìn. Hoàng đế thấy nàng thì vô cùng kinh ngạc và muốn giữ lại, nhưng e thất tín, đành phải để nàng tới Hung Nô.”
Có thể thấy, sở dĩ Vương Chiêu Quân tự nguyện gả đến đất Hung Nô xa xôi là vì không muốn sống cuộc đời cô quạnh lẻ bóng trong cung, để tuổi thanh xuân trôi đi, chi bằng đến nơi đất khách quê người. Vì vậy, sau khi nghe đến việc kết hôn cầu hòa, Vương Chiêu Quân đã kiên quyết tự tiến cử. Nhưng cuộc sống trong cung dẫu hiu quạnh vẫn rất đỗi bình yên, còn Hung Nô là miền đất xa xôi của thảo nguyên và sa mạc, không ai biết tương lai sau này sẽ ra sao. Do đó đây cũng không phải là một lựa chọn dễ dàng trong kiếp nhân sinh của nàng.
Liệu Vương Chiêu Quân có mang theo tâm trạng bi thương và u hận khi rời khỏi đất Hán hay không, hậu thế cũng không ai hay biết, chỉ biết câu chuyện của nàng đã trở thành nguồn cảm hứng hoặc nguồn liên tưởng cho cả khúc Bình Sa Lạc Nhạn lẫn Hán Cung Thu Nguyệt.

- The End -
Phần 1:

Quan điểm - Tranh luận
/quan-diem-tranh-luan
Bài viết nổi bật khác
- Hot nhất
- Mới nhất

Truê 

Trong bài viết của bạn mình thấy một số khúc có video trình bày, một số khác thì lại không, vậy những khúc đó bị thất truyền rồi phải không? Ngoài ra thì 10 khúc này xếp thứ tự như vậy có ý đồ gì không?
- Báo cáo

DH Howard
Chân thành xin lỗi bạn. Có những bản mình không để video mình không tìm được video phù hợp đánh ra cái hồn bài nhạc, những bản trên youtube đánh hoặc âm luật bị phai đi, hoặc tự ý biến tấu, làm hoà âm bản nhạc trở nên lộn xộn. Cách đây hơn 2 năm, mình có cơ hội thưởng thức 10 bản cầm của một lão cầm sư Trung Quốc, thứ tự sắp xếp không có ý gì cả, đó là cái gọi là " tuỳ tâm mà động", thuận theo tâm mà tấu nên, cũng là thứ tự mà cầm sư đó đàn trong buổi biểu diễn.
- Báo cáo