[BoB] Lược sử triết học (Nigel Warburton) - Chương 2: Hạnh phúc đích thực | Aristotle
"Một cánh én chẳng làm nên mùa xuân" (nguyên văn: One swallow doesn't make a summer | chú thích của người dịch). Có lẽ bạn đang nghĩ...

Roman copy (in marble) of a Greek bronze bust of Aristotle by Lysippos (c. 330 BC), with modern alabaster mantle
"Một cánh én chẳng làm nên mùa xuân" (nguyên văn: One swallow doesn't make a summer | chú thích của người dịch). Có lẽ bạn đang nghĩ câu nói trên chắc hẳn là lời của William Shakespeare hay một nhà thơ vĩ đại nào đó khác. Thoạt nghe có vẻ là thế. Song kỳ thực, câu này vốn dĩ lại nằm trong một tác phẩm của triết gia Aristotle mang tên Đạo đức học của Nicomachus (The Nicomachean Ethics), tựa đề được đặt theo tên con trai và cũng là người được ông đề tặng trong cuốn sách: Nicomachus. Theo đó, đối với ông, sự xuất hiện của một cánh én là chưa đủ để chứng minh mùa xuân đã tới, cũng như chỉ một ngày ấm áp thôi chưa đủ nói lên điều gì, và tương tự như vậy, chỉ một vài khoảnh khắc sung sướng đơn lẻ thôi là chưa đủ để ta có được hạnh phúc đích thực. Hạnh phúc đối với Aristotle không phải là thứ niềm vui trong chốc lát. Thật bất ngờ khi ông quan niệm rằng trẻ con là những người chưa thể có được hạnh phúc. Điều này nghe qua tưởng thật ngớ ngẩn. Đến trẻ con cũng không thể hạnh phúc, thì biết ai có thể đây? Tuy nhiên, nó hé mở cho ta thấy quan điểm về hạnh phúc của ông khác với chúng ta đến mức nào. Theo ông, trẻ con mới chỉ ở ngưỡng cửa của cuộc đời và vì vậy chúng chưa trải nghiệm cuộc một cách trọn vẹn theo bất cữ nghĩa nào. Hạnh phúc đích thực, theo Aristotle, cần một quãng đời dài hơn.
Aristotle là môn đệ của Plato, còn Plato lại là môn đệ của Socrates. Ba nhà tư tưởng vĩ đại này tạo nên một chuỗi mắt xích: Socrates-Plato-Aristotle. Lẽ thường vẫn vậy. Thiên tài thường không phải từ trên trời rơi xuống. Phần lớn trong số họ đều có một người thầy truyền cảm hứng. Tuy nhiên, tư tưởng của ba người này lại rất khác nhau. Họ không đơn thuần nhắc lại lời thầy như một con vẹt. Thay vào đó, mỗi người trong số họ lại có một cách tiếp cận độc đáo của riêng mình.
Có thể Plato cảm thấy hài lòng với việc ngồi yên trên một chiếc ghế bành để suy tư triết học (ở đây tác giả muốn ám chỉ Plato là kiểu triết gia "tư biện" | lời người dịch); nhưng Aristotle thì lại muốn khám phá thực tại thông qua các dữ kiện thu nhận được từ các giác quan. Ông bác bỏ Lý thuyết về các mô thức của thầy mình và thay vào đó bằng niềm tin rằng cách duy nhất để hiểu bất cứ phạm trù khái quát nào đó là khảo chứng những ví dụ cụ thể của nó. Chẳng hạn, để hiểu loài mèo, ông cho rằng ta cần phải quan sát những con mèo trong thực tế thay vì suy tưởng trừu tượng về Mô thức loài mèo.
Aristotle cho rằng có một thứ gọi là bản chất của con người, và rằng con người, theo cách ông diễn tả, có một chức năng. Ông tin có một cách sống phù hợp nhất với tất cả chúng ta. Điều khiến loài người khác biệt với tất thảy các loài động vật khác nói riêng cũng như mọi thứ khác trên đời nói chung, đó chính là chúng ta có thể tư duy và lý luận về những việc ta nên làm. Từ đó, ông đi đến kết luận, cách sống tốt nhất đối với một người đó là phải sống dựa vào sức mạnh của lý trí.
..., sự chói sáng của Aristotle lại kéo theo một tác dụng phụ không mong đợi. Ông tỏ ra quá thông minh, còn các nghiên cứu của ông thì tỉ mỉ đến mức rất nhiều người, sau khi đọc các công trình của ông, đã tin rằng mọi quan điểm mà ông trình bày đều đúng. Chính niềm tin này đã kìm hãm sự tiến bộ và kìm hãm trường phái triết học theo truyền thống mà Socrates là người khởi đầu. Hậu quả là sau khi ông qua đời nhiều trăm năm, hầu hết các học giả vẫn xem các quan điểm của ông là hiển nhiên đúng. Chỉ cần chứng minh được Aristotle đã từng nói điều đó, thế là đủ để họ kết luận rằng điều đó chính là chân lý. Điều này đôi lúc được gọi là tiêu chuẩn để xác nhận "chân lý dựa trên thẩm quyền" - tức là tin rằng một điều gì đó phải đúng bởi lẽ nó đã được một nhân vật tầm cỡ và có "thẩm quyền" nào đó nói ra.
Theo bạn, điều gì sẽ xảy ra khi bạn thả rơi một miếng gỗ và một miếng kim loại nặng có cùng kích thước và từ cùng một độ cao? Vật nào sẽ rơi xuống đất trước? Aristotle thì cho rằng vật nặng hơn, tức miếng kim loại, sẽ rơi xuống nhanh hơn. Thực ra thì không phải vậy. Tốc độ rơi của chúng sẽ bằng nhau. Nhưng bởi lẽ Aristotle đã tuyên bố như vậy cho nên suốt cả thời Trung cổ, tất cả mọi người đều tin rằng nó phải đúng là vậy. Chẳng cần phải chứng mình gì nữa. Mãi cho đến thế kỷ 16 mới có một nhà khoa học tên là Galileo Galilei, theo như người ta kể lại, đã cho tiến hành một thí nghiệm để kiểm chứng luận điểm trên của Aristotle bằng cách cho thả từ trên tháp nghiêng Pisa xuống một quả bóng bằng gỗ và một quả đạn pháo có cùng kích thước. Kết quả là cả hai vật đều rơi xuống đất cùng một thời điểm. Như vậy, Aristotle đã sai. Có điều sai sót này đáng lẽ ra hoàn toàn dễ dàng phát hiện ra sớm hơn.
--
Bài viết nằm trong chuyên mục tóm lược sách (BoB), những trích đoạn mà mình thấy hay, ý nghĩa và quan trọng. Nội dung được nhặt từ tác phẩm chính, không phải toàn bộ nội dung sách. Bạn đọc vui lòng tìm đọc để có thể hiểu được toàn bộ ngữ cảnh của các phân đoạn được trích dẫn, cũng như ủng hộ tác giả viết/dịch sách và nhà xuất bản. Cảm ơn nhé!
Tên sách: Lược sử Triết học - Cao Việt dịch (A little history of philosophy - Nigel Warburton) | Nhã Nam - Nhà xuất bản Thế Giới
Chương sau:
Chương trước:

Sách
/sach
Bài viết nổi bật khác
- Hot nhất
- Mới nhất