Dịch từ bài gốc của Richard Grantis trên Aeon
---
Tháng Tám 2014, khi hay tin ông mất - yên bình trong giấc ngủ ở tuổi 69, không bị cánh sát thủ buôn ma túy triệt hạ, như nhiều người từng đồn đoán - tôi sắm sáu quả ớt chuông vàng và một chai vang đỏ ngon rẻ. Ông ghét vang trắng, cho rằng nó nhạt nhẽo, vô vị. Trong những trang viết và cả cuộc đời, ông là một bậc thầy thẳng tính, phong lưu và sôi nổi. Hà cớ gì phải nốc cái thứ rượu nom như nước đái nhợt nhạt, ông luận, khi ta có thể nốc rượu màu hồng ngọc và máu chứ? 
Charles Bowden là bút danh dùng trên sách và các câu chuyện viết cho tạp chí, còn riêng tây ông lúc nào cũng là Chuck. Cao dỏng, đồ sộ và phong trần, ông sở hữu những nét điển trai thô ráp, cặp mắt xanh dường như muốn nuốt chửng mọi thứ xung quanh, mái tóc muốn chạy xuống cổ áo về với thập niên 60. Một thiên tài nào đó bảo rằng ông giống như Robert Mitchum pha nét Neil Young, và mô tả bề ngoài như thế thật chuẩn không cần chỉnh.
Da ông lúc nào cũng rám đậm nắng. Ông ưa nằm ườn dưới nắng sa mạc hàng giờ liền, hút Lucky Strikes không qua đầu lọc, đọc những quyển sách học thuật dày cui về những thứ đang ám ảnh ông vào lúc đó, vốn trải dài từ chặng giao thương thời Trung Cổ tới rắn chuông, luật học Mỹ tới đồ ăn Ý. Đó là một cách để dưỡng trí, để xả nén sau khi viết, và nốc rượu trong cái nắng và ánh sáng chiếu xuyên qua làn da. Ông chẳng hề sợ ung thư da, ung thư phổi, hay bất cứ kiểu chết nào khác. “Khác quái gì,” ông gào lên. “Chẳng thằng nào con nào sống mãi hết.”
Ông lên giường sớm sau hàng đống rượu dốc vào dạ dày, thức lúc 3 giờ sáng, và ngồi ngay vào gõ bàn phím với một tách cà phê đậm. Ông viết liên tục tám hay chín giờ đồng hồ vào ngày bình thường, 15 tới 16 giờ nếu lên cơn sáng tác, và gần như chẳng bao giờ nghỉ ngơi hay nghỉ mát dù chỉ một ngày. Bằng phương pháp này, ông cho ra đời 26 quyển phi hư cấu đặc dị, và hàng trăm bài báo. Ở thời hoàng kim, trong Desierto: Ký ức tương lai (1991), hay Dưới sông: Ma túy, Tiền, Sát nhân và Gia đình (2002), ông là một phóng viên can trường, bất chấp, vô song, và dạn dày kinh nghiệm sáng tác tựa như một nhà thơ hay một tiên tri phun ra lửa, dường như quyện vào những dòng chảy thẳm sâu nhất của thời đại mình đang sống. Ở lúc bệ rạc nhất, ông vẫn là một gã khác thường, cục súc, mém tự trào - quá nhiều những ả điếm sực nức mùi hương và những cơn đói đáng ghê sợ ở các con phố giữa đêm.
Lúc nào ông cũng sẵn sàng đánh đổi cuộc sống để tìm kiếm câu chuyện, và càng dấn sâu vào thế giới ma túy của Mexico, phơi bày những tay trùm thương buôn và vai trò của quân đội, rủi ro sống chết của ông càng thêm riết róng và cực hạn. Có khi quanh ông phải có cận vệ. Ông bắt đầu trữ súng trong tầm tay mọi lúc mọi nơi. Các đầu mối liên lạc của ông với Lực lượng chống Ma túy Mỹ cho biết có ba hợp đồng đòi đoạt mạng ông. Nếu Chuck Bowden từng có mảy may muốn tự sát, họ bảo, ông chỉ cần ra đứng một góc đường ở Ciudad Juárez và chờ nửa tiếng đồng hồ là xong.
Rủi ro còn hiện diện trong những gì ông viết ra. Ông đánh cược với cấu trúc và giọng văn. Viết về một gã kinh doanh tài chính vô đạo đức, quyến rũ và tài ba, ông chêm vào câu chuyện của mình những quan sát về loài sư tử núi, cho rằng chúng và gã đều là những con mồi săn đuổi theo các ham muốn bản năng. Năm 2007, trong một tiểu luận cho tờ Esquire tên gọi Vườn xương của Khát khao, ông tạo dựng một bức tranh đa mảnh ghép về thức ăn và cái chết. Khi bạn ta hấp hối, theo ông, hãy vào bếp, nấu ăn ngon, tận hưởng hương vị trên đầu lưỡi. Thế là tôi đặt sáu quả ớt chuông vừa mua trên lửa xanh của bếp lò, bắt đầu thái hành, cà rốt và các loại rau củ khác.
Ông lớn lên ở Chicago, và nơi này vẫn hiện diện trong giọng nói cùng thái độ nghiêm túc không có chỗ cho thứ vớ vẩn của ông, nhưng ông lại sống phần lớn đời mình ở Tucson, Arizona. Khi tôi đến lập nghiệp ở Tucson hồi đầu 1990, trong tư cách một nhà báo trẻ và một người Anh mất gốc, hai chúng tôi trở thành bạn. Chúng tôi đều có chung cái nhìn bất kính trước luật lệ và uy quyền. Hai chúng tôi đều thích nốc rượu và đọc sách ngoài trời. Những năm tình bạn mới chớm, vai trò đỡ đầu của ông thể hiện rất rõ rệt. Ông hiếm khi rời khỏi nhà tay không, lúc nào cũng mang theo những quyển sách lớn để đọc, những lời khuyên thông thái, ý tưởng một câu chuyện, một kết nối hữu ích, hay một nhận định nào đó được ông giáng ra và vo vo trong đầu tôi như tiếng cồng. Ông dạy tôi gần như tất cả những gì tôi biết về Mexico và vùng Trung Tây, hệ sinh thái và môi trường, chính trị, lịch sử, tội phạm và báo chí nước Mỹ.  Nhưng bài học sâu sắc nhất tôi hấp thu từ ông lại chẳng chút liên quan dính dáng gì tới chữ nghĩa hay ý tưởng cả.
ảnh chụp Charles Bowden của Julián Cardona
Tôi chưa từng gặp một ai sở hữu các giác quan khát khao và sống động như ông. Cả khi phỏng vấn một tay sai băng đảng về những tội ác kinh thiên động địa hắn ta từng thực hiện, đầu ngón tay của Chuck vẫn chú ý đến cử động của mặt bàn nằm chính giữa cả hai, bởi ông không thể nào bỏ qua một chi tiết như thế. Ông sống tại một nơi mà nhiệt kế giữ suốt 38 độ C suốt nhiều tháng trong năm, nhưng lại cực kỳ phản đối sử dụng điều hòa, bởi làm như vậy là vỗ về e ấp con người trước thực tại khắc nghiệt đang sống. Ông muốn tan chảy và hòa làm một cùng cái nóng. Ông nghĩ tình dục vào giữa mùa hè rất tốt cho những người dễ chảy mồ hôi và nóng nảy, và ông đả phá việc điều hòa phá hỏng mất chuyện này.
Trừ khi đang làm việc, nấu ăn hay ngủ nghê, ông hiếm khi ở trong nhà. Ngôi nhà thật sự của ông nằm ở sân ngoài, nơi những bức tường được sơn màu sáng, lấy cảm hứng từ Mexico. Chim ruồi thả rạp vào nhau ở máng ăn, chim trống xòe đủ màu lục, tím và hồng ngọc lóng lánh trên cổ. Có một bóng râm từ cây mesquite trải rộng, còn luống hoa trồng đầy xương rồng cùng các giống trữ nước. Khi xương rồng khế nở về đêm trổ trừng những bông hoa sum tụ của mình vào giữa hè, Chuck tổ chức tiệc để tôn vinh chúng, và vùi mặt mình vào những khóm hoa trắng nở rộng, ngút hương với khoái cảm chân nguyên nhất. 
Ông sảng khoái trong cái nóng dữ dội, cái lạnh căm căm, trong bão dữ, trong những hang dơi tối thẳm nực nồng. Ông khao khát cuộc oanh tạc cảm xúc, và yêu mến tất cả những gì khuếch đại cảm xúc chúng ta đang sống, ngay vào lúc đó, ngay giữa hiện tại. Truyền hình khiến ông chán ngán. Chẳng gì ngoài một cỗ máy chết ngắc lạnh lẽo phọt ra những thứ sáo mòn bắt chước theo cuộc sống trong không gian hai chiều. Ông chẳng đời nào ra rạp coi phim, để chăm chăm vào màn hình cùng một bầy người xa lạ trong một căn phòng nơi khí hậu bị kiểm soát. Ông mê rượu, nhưng không hứng thú với chuyện đi tìm hiểu đặc tính, hay phân tích chất vị làm gì.  Nếu rượu nồng đỏ, trôi mượt qua vòm họng, và tuồn vào bầu máu nóng, ông sẽ thấy vô cùng khoan khoái.
Với tôi, sau ông một thế hệ, và nô thuộc hơn nhiều bởi công nghệ, truyền thông và marketing, ý thức giác quan của Chuck như mang lại một chốn náu thân, một hy vọng le lói cuối cùng về một nối kết chân thành với thế giới thực, hằng sống. Tôi thấy bị bủa vây bởi dối trá, săn chờ bởi rao hàng, xâm lăng bởi những hư ảnh và khắc khoải tầm thường. Cứ quay đầu là tôi lại thấy một biển báo, một quảng cáo, một chính trị gia, một chuyện cổ tích dệt nhào chèn nhúng vào sản phẩm vào màn hình. Làm sao tôi tin được vào suy nghĩ và khát vọng của bản thân khi chúng thảy đều bị phơi ra trước một cơ cấu thao túng khủng khiếp? Trong khi đó, cái hiện tượng [khi đó còn] mới mẻ gọi là Internet hãy đang bận gặm nhấm sức tập trung của tôi, hút kiệt cùng thời giờ, và tạo nên một hình thái bất mãn hiện sinh khác méo mó chẳng kém. Gần như bất cứ điều gì tôi muốn biết, muốn mua hay muốn nhìn, đều chỉ hai click là có, trong đó có cả những đại dương khiêu dâm miễn phí.
Chuch, vốn thèm thuồng dữ dội các cô các chị, lại không thích khiêu dâm. Nó giả tạo, ông nhận xét. Nó dành cho những kẻ toàn thân bất toại. Với tôi, có thể truy cập vô vàn sản phẩm khiêu dâm ngay trong tầm tay vừa thú cũng vừa thảm. Đó là một sự xâm lấn sâu hơn vào dục vọng sâu kín trong tôi. Nó mang huyễn tưởng dục vọng của chúng ta đặt vào tay các diễn viên chuyên nghiệp và các công ty sản xuất, và những đạo diễn ái kỷ có máy quay và đường truyền internet một cách đại già. Có bao nhiêu người trong chúng ta còn tơ tưởng dục vọng riêng mình, khi chọn ra một ảo tưởng nào đó từ thanh lựa chọn thật quá sức dễ dàng và hiệu quả? Phụ nữ mãi nói với tôi về cánh đàn ông thường tỏ ra xa cách thờ ơ trên giường, như thể khiêu dâm trở thành hiện thực, và tình dục thành hư cấu.
Khi cuộc sống hiện đại càng mang tính kỹ nghệ, thanh lọc, số hóa, và diễn ra qua màn hình tới mắt vào não, tôi quyết định mở ra một kênh ý thức khác bằng cách hun đúc các giác quan của mình. Tôi luôn nghe nhạc rất kỹ lưỡng. Giờ tôi bắt đầu nghe nhạc như nghe tiếng chim hót, tiếng côn trùng, những âm thanh khác biệt từ gió và xe cộ, các nhịp điệu đến rồi đi giữa những giòn giã đinh tai của đô thị. Khi người ta đặt chân vào ngôi nhà lát sàn gỗ của tôi, tôi để ý trọng lượng và nhịp điệu bước chân họ, và tìm cách học xem âm thanh từ dáng điệu, để có thể nhận ra mỗi khi họ bước trên lối đi trải đá dẫn ra cửa để ra về.
Càng cố nghe, tôi càng nhận ra rằng tai mình từ lâu đã quen bỏ qua, thậm chí tách đi âm thanh, và rằng lúc nào chúng cũng văng vẳng bên tai mỗi khi xung quanh hoàn toàn yên ắng. Tôi nghĩ đây là hậu quả gây ra từ nhạc ồn và từ thành thị. Vậy là tôi ra ngoài sa mạc, theo gợi ý của Chuck, và bỏ ra năm ngày đi chân không. Sau ba ngày giữa thinh lặng khắc nghiệt tột cùng kia, chỉ bị phá vỡ thi thoảng bởi tiếng cú, tiếng tru của chó đồng cỏ, tiếng gió hùa qua kim xương rồng, tiếng giã của bốt, tiếng rung trong tai tôi biến mất. Sang ngày thứ tư, nằm dưới bóng một cây palo verde èo uộc, chờ giữa cái nực buổi chiều, trong bầu không khí tuyệt đối yên tĩnh, và toàn bộ chim chóc cùng loài vật bất động trong bóng râm, tôi bắt đầu cảm nhận một âm thanh rất khẽ ùa ra từ cơ thể, như tiếng mà ta nghe thấy trong vỏ ốc. Theo tôi xác định được, đó chính là tiếng tuần hoàn máu trong người.
Sau ba ngày giữa sa mạc, mọi giác quan bắt đầu trỗi dậy, và thay đổi rõ rệt nhất xảy ra với đôi mắt. Lần đầu tiên trong đời, tôi để ý thấy một thân cây màu xám nhỏ nhắn khó nhìn với vết hoen trên lá. Rồi ta nhìn quanh và nhận ra chúng mọc khắp mọi nơi. Giờ đây ta chẳng thể không nhìn ra chúng. Điều tương tự cũng xảy ra với hàng tá những chi tiết khác trong cảnh trí xung quanh. Ta bắt đầu nhìn thấy dấu chân động vật, hốc nhện, phân khô, tổ chim. Ngụy trang của loài thằn lằn bất động trở nên kém cỏi hơn. Thứ thoạt trông chỉ là một đụn cát đá sa mạc màu nâu giờ đây lấm tấm sắc hồng, tím, xám, hoàng thổ, sạm và lục.
Khi thị giác ngoại vi bắt đầu phát tác, đôi mắt trở nên tinh nhạy hơn trước môi trường, và ta bắt đầu thấy nhiều động vật hoang dã hơn. Từng có lúc chúng ta cần đến những giác quan ấy để săn bắt, hái lượm và tồn tại, nên ta duy trì chúng luôn sắc bén và tinh nhạy. Giờ đây các giác quan kia thiếp ngủ bên trong, cũ kỹ và hao gầy vì hiếm khi dùng tới. Đời sống hiện đại rèn chúng ta nhìn thấy chỉ những gì ngay trước mắt. Chúng ta tập trung vào màn hình, sách vở, các khuôn mặt, con đường trước mặt, bỏ mặc và quên mất những vùng ngoại vi.
Nguy cơ giẫm phải một con rắn đuôi chuông, cách lộ chính gần nhất dăm ba chục cây số, cũng giúp việc tập trung ánh nhìn, và đôi tai luôn tranh thủ lắng nghe cái âm thanh độc địa, nhẹ ru, run rẩy kia. Bất kỳ nguy hiểm nào cũng gia tăng cảm thức về giác quan. Bước trên núi nơi loài gấu xám sinh sống, kể cả khi chẳng bao giờ thấy dấu chân của chúng, hay vết vuốt để lại trên thân cây, là một trải nghiệm hoàn toàn khác biệt. Luôn quan sát, lắng nghe, ngửi không khí để tìm các dấu hiệu của con vật, ta trở nên đặc biệt thính nhạy với bất kỳ chuyển động nào của cảnh quan, hay bất kỳ sắc thái chệch ra khỏi cảnh nền.
ảnh chụp của Parker Haeg
Điều y hệt xảy ra trong các môi trường đô thị cam go, nguy hiểm. Chẳng ai đi dạo ở Ciudad Juárez, hay Mogadishu, hay Ninth Ward ở New Orleans mà dán mắt vào điện thoại. Cảnh giác cao độ, họ quan sát ngôn ngữ cơ thể của một đứa trẻ 11 tuổi ở góc đường cách ba góc phố, một phương tiện chưa kịp nhận ra là gì, dừng lại hay kéo cao nhịp điệu thông thường của con phố, những tiếng động đinh tai hay yên ắng lạ thường. Họ dùng bóng in trên cửa sổ để quan sát các góc đường, và bất kể cố gắng tới đâu đi chăng nữa, một người lạ không sao có thể đọc đường phố tinh tường như họ được.
Những ai có giác quan nhạy bén nhất là những kẻ vẫn còn sử dụng chúng theo đúng mục đích ban đầu. Ở Tanzania, tôi bỏ ra ít ngày cùng người Hadzabe, bộ lạc vẫn săn bắn bằng cung tên, hái mật ong dại, trái cây, hạt giống, rễ cây và củ quả, và vẫn sống trong hang động hay các túp lều tạm. DNA của họ đến thẳng từ một dòng dõi chính của những người Homo sapien đầu tiên, vốn từng tiến hóa gần đó tại thung lũng Rift, và lối sống của tộc người này thay đổi rất ít ỏi trong hàng ngàn năm qua. Các thợ săn có thể nhận ra những tiếng mà tôi chẳng thể nào nghe ra, bởi các con thú phát ra chúng hãy còn cách gần hai cây số. Họ có thể phát hiện các loài bất động nấp trong các bụi rậm mà tôi có dùng ống nhòm cũng chẳng thấy, kể cả khi họ cứ chỉ trỏ cho tôi thấy và cười phá lên vì bất lực. Chuyện y hệt xảy ra ở Mexico với tộc Tarahumara, ở Kalahari với tộc San. Với họ, tôi chỉ là một thằng dở người nửa mù nửa điếc giữa chệnh choạng giữa một màn sương.
Chuck Bowden kinh qua một trải nghiệm tương tự khi đi dọc theo Hẻm Madera ở miền Đông Nam Arizona. Các nhà điểu học từ khắp nơi ở Mỹ và Canada đổ xô tới đây, hy vọng sẽ chứng kiến được một loài di cư lộng lẫy tên gọi trogon, cùng với cú lùn, chim đuôi đỏ, chim bắt ruồi bụng lưu huỳnh, và 15 loài chim ruồi khác. Chuck bắt đầu trò chuyện với các nhà điểu học, và họ bắt đầu trỏ ông xem từng loài chim, ngoại trừ chuyện quá nửa thời gian Chuck chẳng thể nhìn thấy chúng, kể cả khi họ cho ông mượn ống nhòm. Thường ông cần nhiều phút nhắm hướng cẩn thận mới tìm ra được vểnh tai đặc trưng của một con cú đang say ngủ trong một bụi cây cách 70 sải, ấy thế mà họ nhìn ra ngay lập tức. Họ còn phân biệt được những biến thiên vi tế về màu lông đàn chim vụt qua lại giữa các ngọn cây. Bởi tầm nhìn siêu việt này, các nhà điểu học có một trải nghiệm giác quan trù phú, sống động hơn Chuck.
Trở lại Tucson, Chuck tự sắm một cặp ống nhòm nhẹ loại tốt, và quyết tâm học về 250 chủng chim xuất hiện ở Nam Arizona. Không như đa phần các ám ảnh cứ lóe rồi lặng, thay thế bởi một ám ảnh khác, với Charles việc quan sát chim dần dà và đều đặn trở thành một nguồn mang lại nhiều sảng khoái. Ông không làm cho bằng hết. Cũng chẳng có mục tiêu trong đầu. Ông chỉ theo đuổi thú này vì niềm hưng phấn thị giác, và ông không ngừng thán phục khả năng bay lượn của chúng. 
Đều đặn, cả hai chúng tôi rời Tucson. Chuck dọn qua New Mexico, còn tôi sang Châu Phi và New York, rồi Mississippi. Chúng tôi giữ liên lạc với nhau qua email thưa thớt, và các cuộc gọi thi thoảng. Tôi ghé qua gặp ông đôi lần mỗi khi đánh xe dọc nước Mỹ, và có lần tình cờ gặp phải ông tại một thị trấn nhỏ ở Tây Texas. Chúng tôi vẫn còn đó chỗ dễ tâm giao. Chúng tôi vẫn tiêu khiển được cho nhau, một khía cạnh cốt lõi trong tình bạn của cánh đàn ông. Tình thầy trò đã nhạt phai dần theo tháng năm, và tình đồng chí đã trồi lên lấp khoảng trống. Nhưng đó vẫn là một mối quan hệ bất xứng.
Ông lớn, thông thái, khôn ngoan, tài ba, mãnh liệt và quyến rũ hơn tôi. Ông vẫn là người nói nhiều hơn, và ngắt lời nhiều hơn. Kể cả khi ông lảng tránh và khinh mạn, với tôi hay với kẻ nào khác, tôi không coi đó là thô lỗ. Nó là một phần trong sự cao ngạo của Chuck, và ông cần mọi thứ cao ngạo có thể hòng giữ khoảng cách với nghi ngờ và viết ra những điều ông thật sự tin tưởng.
Khi ớt chuông đã cháy xém, tôi cho chúng vào một cái túi để hầm nhừ lớp vỏ ngoài. Tôi cho rượu vào, xoay ly và ngửi. Đây là thứ rượu rẻ tiền ông dùng hàng ngày. Rượu shiraz của Úc, chát và gắt bên trên, đậm cồn, quyện vị hắc ín cùng bánh phô mai anh đào. Ông uống thẳng từ một bình đong trầy trụa, và bỉ bai cái thói quen xoay và ngửi của tôi. “Tao nốc thẳng cái thứ chết tiệt này,” ông còn gừ lên.
Chuck cũng chát và gắt bề ngoài. Lần đầu gặp gỡ, nhà ông là hang ổ của một con quái vật không ngừng làm việc, nốc rượu, hút thuốc và không bao giờ dọn dẹp. Ông phàn nàn cảnh những phụ nữ ghen tuông nhìn vào nhà bếp, cố sức chiêm ngưỡng bằng được những kẻ cạnh tranh với mình. Thay vì treo màn hay rèm cửa, ông trét mỡ heo lên mặt kính để làm mờ cặp mắt hau háu của bọn họ.
Ông uống cà phê hòa tan, và sống bằng đồ ăn Mễ cùng thức ăn hầm rẻ tiền. Rượu tới thành hộp hay cả vại, ngoại trừ các dịp đặc biệt, hay khi tiền về. Là một nhà văn, ông là một hình tượng được mọi người xung quanh sùng bái, và ông chẳng hề phàn nàn về sự nghèo nàn của chức phận đó. Rồi một phụ nữ dọn vào. Ngôi nhà trở nên sạch sẽ và văn minh, và Chuck dọn ra một túp lều. Ông bắt đầu đoạt giải thưởng, và viết những bài ra trò cho những tờ báo lớn của nước Mỹ như Esquire, GQ, Mother Jones, hay National Geographic. Giờ ông đang bắt đầu kiếm bộn tiền, và dùng tiền để mua lại thời gian. Ông cần thời gian để viết sách, điều quan trọng hơn hết thảy trong đời ông, nhưng chẳng bao giờ chu cấp được đủ.
Chữ nghĩa từ ông tràn túa ra bất tận. Một lý do ông uống quá nhiều là để duy trì trạng thái ấy, và thư giãn. Có khi ông viết 20.000 từ chỉ trong vài ngày, ngồi bên máy tính trong trạng thái lên đồng, chẳng hề nhòm lên màn hình. Các cuộc gọi kéo dài trung bình một lượt tận hai giờ đồng hồ, và ông là người nói chính. Các độc thoại của ông xuất chúng và bùng nổ, vô cùng trôi chảy, lấm tấm nét sắc sảo, chóng đưa ra liên kết và lao tới kết luận.
“Nhền đi,” ông nói bằng giọng Chicago, trước khi xông vào đoạn tiếp theo. “Mài có theo không?” sau đó ông sẽ kiểm tra, và có hay chớ cũng chẳng sao, bởi đằng nào thì ông cũng giẫm nát rồi tiến thẳng đến ý sau.
ảnh chụp Bowden ở Texas năm 1998 của Eugene Richards
Tiền bạc cũng cho phép ông khám phá tiếp vị giác. Thức ăn và nấu nướng trở thành những ám cưỡng mãnh liệt mới mẻ. Hương vị thức ăn ngạt ngào phả từ nhà bếp, và ông cặm cụi quanh các quyển sách dạy nấu ăn về đêm. Đầu bếp Marcella Hazan quá cố là một cái tên yêu thích đặc biệt của Chuck. Công thức nấu ăn của bà được tạo ra ngõ hầu diễn đạt hương vị của nguyên liệu chính trọn vẹn hết mức, thay vì ngụy trang và thao túng, theo lối ẩm thực cao cấp Pháp. Ông thuyết phục một tờ tạp chí gửi ông tới trường dạy nấu ăn của bà ở Venice, và ông trở về Mỹ với một đam mê mới dành cho espresso, và một công thức giản đơn, hoàn hảo cho món súp ớt chuông vàng nướng.
Dùng móng tay gỡ lớp vỏ ớt đã cháy xém, lấy nước trong rỉ ra từ chúng, và thái phần thịt ớt. Trong nồi to, xào hành tây, cà rốt và cần tây trong dầu oliu tới khi mềm. Thêm ớt thái lát và muối, nấu vài phút. Cho thêm khoai tây cắt hạt, nước dùng gà và nước trắng. Nấu 20 phút tới khi khoai mềm. Xay nhuyễn thành từng phần khi ăn, dùng trong tô, rưới dầu oliu và thứ nước cốt trong đã giữ lại.
Tôi lưu giữ hương vị ấy trong miệng. Chúng đậm đà, trực diện, thẳng tắp, mê hoặc, như những dòng viết tuyệt diệu nhất của Chuck. Tôi còn nhớ vẻ khoan khoái thơ ngây trên khuôn mặt dãi dầu của Chuck khi ông quan sát lũ chim ruồi, ham mê xác thịt không thể chối cãi khi ông gục mặt vào cuống hoa, những vết trầy xước trên chân sau các chuyến đi dài băng qua sa mạc. Thay vì bước quanh thảm thực vật, ông sẽ băng thẳng qua, quyết không đổi hướng, và rõ ràng khoan khoái cảm giác gai và bụi đâm cứa vào làn da.
Chuck có một đầu óc lý thú, độc đáo nhất mà tôi từng được diện kiến. Bộ óc ấy bạt thẳng vào trí tuệ thông thường và đắp lên bên trên chân lý phũ phàng. Sự thành thật buộc ông công nhận trọn vẹn những nỗi khiếp kinh và vô nghĩa của trải nghiệm tồn sinh ở mỗi con người trên thế gian này, nhưng không bao giờ đánh mất sức khám phá và trí tò mò. Cả khi phân loại những phản địa đàng tàn khốc mọc lên từ sự sụp đổ về xã hội và chính trị ở Mexico, cả khi ông tiên đoán về những tương lai đen tối nhất cho hành tinh khánh tận của chúng ta, tình yêu của ông dành cho cuộc sống chẳng một chút nào mất đi - bởi lẽ ông có thể tìm thấy niềm hạnh phúc từ màu lông cổ một chú chim, từ cảm nhận chiếc đùi phụ nữ mà đầu ngón tay ông đương mơn trớn, hay mưa lao vút như tên bắn xuống sa mạc giữa lúc bầu trời rúm ró mỗi khi sấm dậy.
Nhìn lại quãng thời gian hai chúng tôi chén tạc chén thù cùng nhau, trong suốt 20 năm, lạ thay khi tôi chẳng hiểu gì thêm về Chuck. Ông vẫn có cái vẻ riêng tư nam tính lỗi thời đối với các cảm xúc sâu kín nhất, ngoại trừ nỗi tức giận mà ông không thể kiềm giữ. Ông căm ghét đạo đức giả, đóng tuồng, thói mộ đạo và tự mãn, nhất là khi nó phả ra từ những kẻ giàu có, lắm đặc quyền. Thói bất lương khiến cơn giận của ông bùng dậy, bởi ông đạo đức chính trực vô ngần. Thấy được quá nhiều tổ chức do con người tạo ra thiếu thốn vô đạo, dây dưa lừa đảo, ông chọn là một cá thể kiêu bạt, khuynh đảo giáo điều. Ở văn đàn, hay bất kỳ sự kiện long trọng nào, ông vẫn là một khẩu thần công nạp sẵn, luôn cảm thấy vinh quang mỗi khi xúc phạm một ai đó, hay tất thảy mọi người trong căn phòng, bằng một lời nhận xét cáu kỉnh, hay một điếu xì gà kệ-thây.
Thế giới sẽ là một chốn chán chường và lịch thiệp hơn khi thiếu ông, chí ít với riêng tôi và với những người quen biết ông, hay theo những trang viết của ông. Sẽ có ít đi chân lý được thốt vào mặt uy quyền. Ông là một con sư tử, một con cú báo điềm, và một ly vang đỏ rẻ tiền nồng rực.
k.