Lời đầu tiên

Ảnh minh họa.
Ảnh minh họa.
Kính chào quý độc giả, Ý tưởng của bài viết này được chóm nở khi trong phần bình luận của bài viết “Việt Nam: Nạn nhân của Địa lí”, một bạn đọc đã có một câu hỏi tuyệt hay về lý do tại sao tôi lại chỉ dùng các lý thuyết của Chủ nghĩa hiện thực để giải thích quan hệ quốc tế, mà không dùng những lý thuyết khác. Tôi đã trả lời bạn trong phần bình luận của bài. Tuy nhiên, ngẫm nghĩ lại, tôi cảm thấy rằng trong một bình luận ngắn khó lòng có thể diễn giải toàn bộ những suy nghĩ của tôi một cách chi tiết. Bài viết này sẽ là câu trả lời đầy đủ nhất của tôi gửi đến bạn, như một cách để giãi bày và khẳng định những lý luận của tôi xung quanh Chủ nghĩa hiện thực.
Tôi đã soạn thảo bài này từ cuối tháng Tám năm ngoái. Tuy nhiên, vì sự kiện Nữ vương Anh băng hà và những kẻ Sô vanh chủ nghĩa lên đồng tập thể trên mạng, vu cáo Nữ vương Elizabeth II “ủng hộ Pháp xâm lược Việt Nam”, nên tôi đã phải chuyển trọng tâm sang Chủ nghĩa dân tộc và viết hẳn nhiều bài phản biện Tifosi. Tôi đã quên béng đi bài viết này tận hơn một năm trời, cho đến hôm nay (03/09/2023), tôi tình cờ xem lại bài viết, và tôi đã bắt đầu soạn thảo trở lại cũng như bổ sung thêm nội dung cho bài.
Bài viết sẽ giải thích và lý luận sâu hơn về Chủ nghĩa hiện thực, cũng như nêu lên luận đề trong lập luận xuyên suốt của tôi trong các bài viết phân tích, đánh giá, và bàn luận về tình hình Địa - Chính trị thế giới. Quý vị cũng có thể xem bài viết này như một phần tiếp theo của bài “Việt Nam: Nạn nhân của Địa lí”, khi trong bài đó tôi đã nêu định nghĩa, giới thiệu và bàn luận về Chủ nghĩa hiện thực. Bài viết mang yếu tố Triết học Chính trị và Khoa học Chính trị, nên văn phong có thể hơi hàn lâm và tối nghĩa. Tôi sẽ cố gắng diễn đạt một cách chính xác và dễ hiểu nhất có thể.

Phần I: Nhập đề: Giới thiệu sơ lược về Chủ nghĩa tự do - “Thách thức hiện tại mạnh mẽ nhất của Chủ nghĩa hiện thực”

1. Lý thuyết quan hệ quốc tế là gì? Tại sao chúng ta lại cần nó?

Ảnh minh họa.
Ảnh minh họa.
Trong bài “Luận về việc viết”, tôi đã nêu định nghĩa của lý thuyết khoa học, cụ thể như sau: “Lý thuyết, cụ thể ở đây là lý thuyết khoa học, là một mệnh đề giải thích cụ thể về một hoặc một nhóm hiện tượng, hoặc là một phần của thế giới tự nhiên, chẳng hạn như Thuyết tương đối rộng của Albert Einstein, và Thuyết tiến hóa của Charles Darwin”. [1]
Vì bản thân lý thuyết là một mệnh đề giải thích, nó không thể được chứng minh ngay tức khắc theo cách của định luật, tức là thực hiện đi thực hiện lại một thí nghiệm. Vì lý thuyết còn đưa ra những dự đoán về những hiện tượng chưa được quan sát, nên càng nhiều dự đoán được kiểm chứng thì lý thuyết càng được khẳng định. Thuyết tương đối của Einstein đã trải qua nhiều lần kiểm chứng, từ ánh sáng bị bẻ cong khi đi qua Mặt Trời, hiệu ứng thấu kính hấp dẫn, và sự uốn cong của không - thời gian được quan sát trong vũ trụ. Thuyết tương đối còn dự đoán được sự tồn tại của lỗ đen (Black Hole).
Lý thuyết quan hệ quốc tế cũng chia sẻ nhiều đặc điểm tương đồng với một lý thuyết khoa học. Nó là một tập hợp các góc nhìn, cách tiếp cận, các mô hình, cũng như những cách lý giải về các hiện tượng diễn ra trong nền chính trị thế giới [2].
“Chúng ta cần lý thuyết để hiểu được ý nghĩa của “cơn bão thông tin” đến với chúng ta mỗi ngày. Dù các nhà hoạch định chính sách là những người khinh thường “lý thuyết” nhưng họ cũng phải dựa vào những ý tưởng (thường không được nói ra) của riêng họ về việc thế giới vận hành như thế nào để đưa ra quyết định... Tất cả mọi người đều sử dụng lý thuyết dù họ có nhận ra điều đó hay không.” - Stephen M. Walt.
Quý độc giả cũng cần lưu ý ba phạm trù chính của một lý thuyết quan hệ quốc tế. Thứ nhất là bản thể luận (ontology), bàn về những gì trong thế giới khách quan mà con người có thể nhận thức được (thế giới quan). Thứ hai là tri thức luận (epistemology), tập trung vào phương thức mà con người nhận thức thế giới, hay nói cách khác là phương thức mà qua đó tri thức được tạo ra. Thứ ba là phương pháp luận (methodology), đề cập đến các phương thức tiến hành thực nghiệm để kiểm chứng độ đúng sai của lý thuyết đó.
Tôi có thể lấy một ví dụ có liên quan đến bản thể luận. Chẳng hạn, cuộc tranh luận đầu tiên và tiêu biểu trong Triết học Chính trị là giữa Chủ nghĩa lý tưởng và Chủ nghĩa hiện thực, xoay quanh câu hỏi bản chất con người và thế giới họ đang tồn tại trong đó như thế nào. Các nhà lý tưởng chủ nghĩa hình dung một mẫu người mang tính hợp tác, hay nói một cách dễ hiểu là “nhân chi sơ, tính bản thiện”. Từ đó, họ cho rằng có thể xây dựng nên một trật tự thế giới hòa bình vĩnh cửu, nơi các quốc gia có thể sống chung hòa bình, thân thiện với nhau. Như vậy, nhiệm vụ đảm bảo trật tự chung sẽ là trách nhiệm của cộng đồng quốc tế thông qua những tổ chức và định chế. Ngược lại, các nhà hiện thực chủ nghĩa lại hoài nghi khả năng hợp tác của con người và mỗi quốc gia. Họ cho rằng trong con người luôn hiện hữu “bản tính đam mê quyền lực”, hay nói một cách dễ hiểu là “nhân chi sơ, tính bản ác”, và mục tiêu của các nhà nước cũng tương tự. Lợi ích, thể diện quốc gia và việc theo đuổi quyền lực mới là động lực chính giải thích các hiện tượng cũng như lựa chọn của các nhà nước trong trật tự chính trị thế giới. [3]
Sơ lược một chút lịch sử, từ những năm 1980 trở về sau, ta có thể thấy rằng lý thuyết quan hệ quốc tế chứng kiến thêm các cuộc tranh luận lớn nữa. Trong bối cảnh hợp tác giữa các quốc gia trở thành xu thế chủ đạo của chính trị quốc tế vào những năm 80 của thế kỷ XX, các nhà tân hiện thực chủ nghĩa và tân tự do chủ nghĩa tranh luận quyết liệt xoay quanh vai trò và ảnh hưởng của các thể chế đến chính trị quốc tế. Quý độc giả có thể hiểu rằng đây chỉ là sự nối dài của cuộc tranh luận đầu tiên giữa những nhà hiện thực chủ nghĩa và lý tưởng chủ nghĩa. Cuộc tranh luận giữa Chủ nghĩa tân hiện thực và Chủ nghĩa tân tự do đã khởi đầu cho một cuộc tranh luận mới trong tương lai về sự ra đời của “quản trị toàn cầu” (Global Governance), nơi một mặt mang đầy đủ các yếu tố mà Chủ nghĩa tân tự do miêu tả như thể chế, hợp tác, pháp trị, và xây dựng chuẩn tắc, nhưng mặt khác cũng tiềm tàng sự tranh giành lợi ích, sức mạnh, được thua trong góc nhìn của Chủ nghĩa hiện thực.
Như vậy, trên thực tế, có rất nhiều học thuyết, lý thuyết Chính trị và chủ nghĩa giải thích quan hệ quốc tế, chẳng hạn như Chủ nghĩa hiện thực (Realism), Chủ nghĩa tự do (Liberalism), Chủ nghĩa kiến tạo (Constructivism),... Chúng ta có thể thấy được có một sự liên kết không thể tránh khỏi giữa thế giới trừu tượng của lý thuyết và thế giới thực của chính sách.

2. Lý thuyết của Chủ nghĩa tự do và cuộc tranh luận hiện thực - tự do.

Ảnh minh họa.
Ảnh minh họa.
Triết học có vai trò to lớn trong việc định hình các lý thuyết Khoa học Chính trị. Chẳng hạn, Chủ nghĩa hiện thực có nguồn gốc lâu đời, bắt nguồn từ các tài liệu của Thucydides về cuộc chiến tranh Peloponnese. Những nhà Triết học, Khoa học Chính trị tiêu biểu đã góp công lớn trong việc hình thành thế giới quan hiện thực là Niccolò Machiavelli vào thế kỷ XVI, Thomas Hobbles vào thế kỷ XVII. Trong tác phẩm “Quân Vương” (The Prince, 1532) và “Thủy Quái” (Leviathan, 1651), Niccolò Machiavelli và Thomas Hobbes đã nhấn mạnh sự tính toán chính trị dựa trên lợi ích, sự khôn ngoan thận trọng, quyền lực và duy lý hơn hết thảy những cân nhắc khác. Tư duy này hình thành nên nền tảng của quan điểm vốn trở thành tư duy hiện thực ngày một lớn mạnh, trong đó chấp nhận ưu tiên theo đuổi quyền lực như là một phương pháp trị quốc khôn ngoan và cần thiết. Các thảo luận về “Chính trị quyền lực” có nhiều trong Arthashastra, một tác phẩm nghệ thuật quản lý nhà nước được Kautilya ở Ấn Độ viết vào thế kỷ thứ IV TCN, cũng như trường phái tư tưởng Pháp gia của Hàn Phi Tử ở Trung Quốc thời Xuân Thu - Chiến Quốc.
Nhiều nhà Khoa học Chính trị gọi Chủ nghĩa tự do (Liberalism) là “Thách thức hiện tại mạnh mẽ nhất của Chủ nghĩa hiện thực”. Điều này cũng không hẳn là vô lý. Giống như Chủ nghĩa hiện thực, Chủ nghĩa tự do có nguồn gốc từ Triết học, xuất phát từ tư tưởng chính trị của John Locke, Immanuel Kant, và Adam Smith.
Chẳng hạn, nhà Triết học Immanuel Kant trong tác phẩm “Nền hòa bình vĩnh cửu” (Perpetual Peace, 1795) giúp định nghĩa lại lý thuyết tự do hiện đại bằng việc ủng hộ quyền công dân toàn cầu, thương mại tự do, và một liên bang các nền dân chủ như là một phương tiện để đạt được hòa bình. Ngoài ra, Richard Cobden chủ yếu thấy trước được khả năng hòa bình xuyên biên giới. Theo quan điểm của ông, nếu liên lạc và sự liên hệ của con người có thể mở rộng thông qua thương mại tự do thì hòa bình và tình bằng hữu quốc tế cũng có thể như vậy. Những điều này sẽ được đảm bảo bởi sự thịnh vượng vốn tạo nên sự phụ thuộc lẫn nhau và loại bỏ việc cần đến lực lượng quân sự để chuẩn bị cho tình trạng thù địch.
Thế giới quan của Chủ nghĩa tự do xác định trọng tâm của nó là niềm tin vào lý trí và khả năng tiến bộ. Các nhà tự do chủ nghĩa xem cá nhân là trung tâm của các giá trị đạo đức và cho rằng con người nên được đối xử như là kết quả thay vì phương tiện. Để so sánh, như đã được đề cập trong bài viết, trong khi các nhà hiện thực khuyên bảo những nhà làm chính sách nên tìm kiếm một điều ít xấu xa hơn thay vì một sự tốt đẹp tuyệt đối bởi vì lợi ích là trên hết, thì những nhà tự do nhấn mạnh vào nguyên tắc đạo đức thay vì theo đuổi quyền lực, vào các thể chế thay vì khả năng quân sự. [4]
Theo đó, thay vì đổ lỗi cho ham muốn cố hữu về quyền lực gây ra xung đột quốc tế, những nhà tự do chủ nghĩa chê trách các điều kiện mà con người đang sống. Họ cho rằng cải tổ được những điều kiện này sẽ tăng cường triển vọng hòa bình. Chẳng hạn, Tổng thống Mỹ Woodrow Wilson đã tuyên bố rằng: “Chính phủ dân chủ sẽ làm cho chiến tranh ít có khả năng xảy ra”. Tổng thống Mỹ Franklin Roosevelt cũng đã phản ánh lại quan điểm này khi ông cho rằng: “Sự tăng cường và duy trì liên tục nền dân chủ sẽ tạo ra một sự đảm bảo quan trọng cho hòa bình quốc tế”. Chủ nghĩa tự do cho rằng hình thái chính trị không được xem là trò chơi có tổng bằng 0 (zero-sum game), điều này trái ngược hoàn toàn với Chủ nghĩa hiện thực. Trò chơi có tổng bằng 0 là một tình huống mà trong đó một bên thắng và một bên thua.
Chủ nghĩa tự do cho rằng văn hoá chính trị dân chủ nên tránh xa vũ lực như là phương tiện gây ra xung đột, mà nên dựa trên sự khoan dung, chung sống và các quyền về quy trình. Yếu tố đầu tiên phổ biến trong nhiều dòng suy nghĩ tự do là nhấn mạnh việc thực hiện cải cách chính trị để tạo ra nền dân chủ ổn định. Việc sử dụng sự thuyết phục thay cho ép buộc, và việc dựa trên con đường pháp lý để giải quyết các tranh chấp là những phương tiện chủ yếu để giải quyết xung đột. Theo tôi, chính vì lẽ đó, Chủ nghĩa tự do không để vượt qua lý tưởng của chính nó. Đây là một trong những hạn chế của Chủ nghĩa tự do, bởi vì những lý do sau đây:
Thứ nhất, Lịch sử đã cho thấy, Hội Quốc Liên và Tòa án Công lý Quốc tế Thường trực, các thể chế ngày nay chỉ có ảnh hưởng tối thiểu đến hành vi của quốc gia, khi khó có thể ngăn cản hai cuộc Thế chiến.
Các tổ chức quốc tế không thể ngăn nổi các quốc gia hành động theo logic của cân bằng quyền lực, tính toán mỗi bước đi của họ ảnh hưởng thế nào đến vị trí tương đối của mình trong thế giới cạnh tranh liên tục này. Tương ứng, Liên Hợp Quốc ngày nay cũng có vai trò hạn chế trong bàn cờ Địa - Chính trị thế giới khi đứng trước tính toán của những siêu cường. Vụ Hội Quốc Liên thất bại trong việc ngăn chặn Nhật Bản xâm lược Mãn Châu (1931), Ý xâm lược Ethiopia (1935). Các cuộc tranh chấp quan trọng hiếm khi được nộp lên Tòa Án Công lý Quốc tế; và Hội nghị Giải trừ quân bị Geneva năm 1932 kết thúc thảm bại. Khi mối đe dọa chiến tranh bất đầu xuất hiện lại ở Châu Âu và Châu Á vào cuối những năm 1930 thì sự nhiệt tình đối với Chủ nghĩa tự do cũng dần bị lu mờ đi.
Điều này cũng đã được tôi nhận định trong Phần I của bài viết “Việt Nam: Nạn nhân của Địa lí” rằng các quốc gia xem lợi ích và quyền lực là tuyệt đối. Vụ việc Philippines kiện Trung Quốc về vấn đề Biển Đông là một ví dụ điển hình gần đây. Tuy Hội đồng trọng tài nhấn mạnh Trung Quốc không có cơ sở pháp lý để yêu cầu quyền lịch sử đối với các nguồn tài nguyên vượt quá các quyền mà UNCLOS quy định, tình hình lại không diễn biến như kỳ vọng khi Trung Quốc vẫn hung hăng và tiến hành yêu sách phi lý tại Biển Đông.
Thứ hai, hầu hết các nghiên cứu ủng hộ thể chế quốc tế xuất hiện trong lĩnh vực chính trị cấp thấp của thương mại, tài chính và các vấn đề xã hội chứ không phải trên lĩnh vực chính trị cấp cao của an ninh quốc gia như lý thuyết của Chủ nghĩa tự do.
Dù rất khó để xác định ranh giới rõ ràng giữa các vấn đề kinh tế và an ninh nhưng một vài học giả cho rằng các sắp xếp thể chế khác nhau tồn tại trong từng lĩnh vực và triển vọng hợp tác giữa các quốc gia lớn hơn trong lĩnh vực kinh tế so với lĩnh vực an ninh. Chủ nghĩa hiện thực khẳng định rằng sự tồn tại của quốc gia phụ thuộc vào việc quản lý hiệu quả các vấn đề an ninh. Các tổ chức an ninh tập thể ngây thơ cho rằng tất cả các thành viên nhận thức về mối đe dọa theo cách giống nhau, và sẵn sàng chấp nhận rủi ro và chi trả phí tổn cho việc chống lại những mối đe dọa này. Bởi vì các quốc gia tư lợi không nhìn nhận lợi ích thiết yếu của mình theo hướng này nên các tổ chức quốc tế không thể đưa ra phản ứng kịp thời và cứng rắn đối với các cuộc xâm lược. Như vậy, đối với các vấn đề an ninh thì các quốc gia sẽ tin tưởng vào sức mạnh của chính mình chứ không phải là những lời hứa của các tổ chức quốc tế.
Thứ ba, xuất phát từ thế giới quan đề cao đạo đức của Chủ nghĩa tự do, đó là khuynh hướng được cho là biến chính sách đối ngoại thành một cuộc vận động đạo đức. Trong khi các nhà hiện thực cho rằng người đứng đầu quốc gia bị chi phối bởi những đòi hỏi chiến lược thì nhiều nhà tự do tin rằng các đòi hỏi đạo đức áp đặt mệnh lệnh tuyệt đối lên các lãnh đạo. Hãy xem xét cuộc chiến tranh ở Kosovo năm 1999, vốn là cuộc đọ sức giữa Tổ chức Hiệp ước Bắc Đại Tây Dương (NATO) và Chính phủ Cộng hòa Liên bang Nam Tư. Học giả George Kennan đã từng nói rằng: “Bổn phận chính yếu của chính phủ là lợi ích của xã hội quốc gia nó đại diện chứ không phải là các thôi thúc đạo đức mà các yếu tố cá nhân của xã hội đó trải nghiệm”.
Như vậy, sở dĩ tôi căn cứ trên góc nhìn của Chủ nghĩa hiện thực hơn là những học thuyết, lý thuyết khác bởi vì thế giới quan của nó tiếp tục chỉ dẫn nhiều tư duy về chính trị quốc tế. Theo đó, Chủ nghĩa hiện thực có thể giải thích đúng đắn của nó lên các sự kiện trên sân khấu Chính trị thế giới. Về cơ bản, một lý thuyết là một tập hợp các tuyên bố có mục đích giải thích một hiện tượng cụ thể. Về bản chất, các lý thuyết cung cấp một bản đồ hay khung tham chiếu giúp cho thế giới phức tạp xung quanh chúng ta trở nên dễ hiểu hơn. Việc chọn lựa sẽ theo lý thuyết nào là một quyết định quan trọng bởi vì mỗi lý thuyết dựa trên các giả định khác nhau về bản chất của chính trị quốc tế, mỗi lý thuyết đưa ra các tuyên bố nhân quả khác nhau và mỗi lý thuyết đưa ra một tập hợp các khuyến nghị khác nhau về chính sách đối ngoại.
Ngoài ra, tôi cũng không tin vào một thế giới lý tưởng và nền hòa bình vĩnh cửu của những nhà tự do. Trong bối cảnh thế giới hiện nay, khi Nga tiến hành xâm lược Ukraine và thế giới dần phân cực với sự trỗi dậy của Trung Quốc, hẳn quý vị đã đánh tan những huyền tưởng về sự tồn tại của một thế giới hoà bình lý tưởng và tốt đẹp. Trong “The Tragedy of Great Power Politics” (Bi kịch của chính trị cường quốc), John Mearsheimer đã giải ảo về thế giới lý tưởng của những nhà tự do chủ nghĩa, rằng:
Trong một thế giới lý tưởng, nơi chỉ có những quốc gia tốt, quyền lực phần lớn không liên quan.
- Trích “Bi kịch của chính trị cường quốc”, Giáo sư John Mearsheimer.
Với nỗ lực chống lại cái mà họ cho là một hướng tiếp cận không tưởng và thuần về pháp lý đối với chính sách đối ngoại, Reinhold Niebuhr (1947), Hans Morgenthau (1948), và những nhà hiện thực khác thể hiện rõ cái nhìn bi quan về bản chất con người. Giống với ý tưởng của nhà Triết học Baruch Spinoza, nhiều nhà hiện thực chỉ ra sự mâu thuẫn cố hữu giữa ham muốn và lý trí. Hơn nữa, như trong truyền thuyết về Thánh Augustine, họ nhấn mạnh rằng sự khao khát vật chất khiến cho ham muốn áp đảo lý trí. Đây chính là tiền đề cho Chủ nghĩa hiện thực cổ điển (Classical Realism), nhấn mạnh cấp độ phân tích cá nhân. Chẳng hạn, ta có thể thấy rõ điều này trong tác phẩm “Quân Vương” của Niccolò Machiavelli:
“Bậc quân vương phải dũng mãnh như sư tử, xảo quyệt như loài sói, đối với kẻ phản bội mình thì phải tàn độc như rắn rết, bọ cạp. Bậc quân chủ phải tỏ ra là người từ bi, rộng lượng, biết giữ lời hứa, chân thành, đáng tin, sùng bái thần linh. Nhưng khi cần thiết, phải biết vứt tất cả những phẩm chất đạo đức cao quý đó và thay đổi hoàn toàn thái độ. Tức là, bất chấp mọi thủ đoạn để đạt được mục đích. Mục đích luôn là cái cớ để biện hộ cho thủ đoạn. Nhưng tuyệt đối không được để mất lòng dân. Bởi vậy, bậc quân vương phải vừa là một kẻ ngụy quân tử và vừa là một tên lừa đảo chuyên nghiệp.” - Trích “Quân Vương”, Niccolò Machiavelli.
Các học thuyết Chính trị đều có hạn chế nhất định của nó, Chủ nghĩa hiện thực cũng không phải là một ngoại lệ. Tôi sẽ bàn về vấn đề này trong một bài viết khác. Hiện, nhiều nhà lý tưởng theo Chủ nghĩa tự do phê phán Chủ nghĩa hiện thực bằng một số nghi vấn sau đây:
Các thành tố chính của quyền lực quốc gia là gì? Cách sử dụng quyền lực nào phục vụ lợi ích quốc gia tốt nhất? Liệu vũ trang là sự bảo vệ hay sẽ gây ra những cuộc chạy đua vũ trang tốn kém? Liệu các liên minh sẽ tăng cường sự bảo vệ cho một quốc gia hay khuyến khích sự ra đời của các liên minh đối địch nguy hiểm?
Như vậy, tôi đã so sánh và bình luận Chủ nghĩa hiện thực và Chủ nghĩa tự do để làm rõ quan điểm này, bởi vì Chủ nghĩa tự do vốn được xem là “thách thức hiện tại mạnh mẽ nhất của Chủ nghĩa hiện thực”. Các nhà hiện thực chủ nghĩa hiện vẫn còn tranh cãi về việc liệu cuộc can thiệp của Mỹ ở Việt Nam phục vụ cho lợi ích quốc gia của Mỹ hay không, và việc liệu vũ khí hạt nhân có góp phần vào an ninh quốc tế hay không. Trong giới hạn của bài viết hôm nay, tôi sẽ làm rõ và giải mã bốn nghi vấn đã được nêu ra bên trên.

Phần II: Luận đề: Giải thích những nghi vấn của những nhà tự do chủ nghĩa

1. Các thành tố chính của quyền lực quốc gia là gì?

Ảnh minh họa.
Ảnh minh họa.
Chính trị thế giới, giống như tất cả hình thái chính trị khác, là cuộc chiến để đạt quyền lực. Mục đích cuối cùng của chính trị quốc tế, dù nằm ở đâu cũng là quyền lực.
- Hans Morgenthau.
Các thành tố quyền lực của một quốc gia có thể xem xét qua các yếu tố sau: (1) Địa lí; (2) Dân số; (3) Kinh tế; (4) Khoa học - Công nghệ; (5) Quân sự; (6) Quyền lực mềm. [5]
Thứ nhất, Địa lí. Có thể nói đây là thành tố quan trọng nhất trong các thành tố quyền lực. Có một câu nói mà tôi rất tâm đác, rằng “Chính sách của một quốc gia được quyết định bởi vị trí địa lí của quốc gia đó”. Đây là thành tố lâu đời và tồn tại gắn bó nhất của quyền lực, bao gồm vị trí địa lí, diện tích đất đai, địa hình, và khí hậu. Đây đều là những thành tố có ảnh hưởng tương hỗ đến quyền lực của quốc gia. Một quốc gia có vị trí địa lí thuận lợi như gần cảng biển, nằm trên những con đường thương mại sầm uất, có diện tích vừa phải, địa hình đồng bằng, và khí hậu ôn hoà chắc chắn sẽ có nhiều điều kiện để phát triển, tăng cường quyền lực; nhưng đồng thời sẽ trở thành mục tiêu thâu tóm của nhiều quốc gia khác, Trung Hoa, chẳng hạn. Trái lại, một vùng đất có vị trí xa xôi, diện tích rộng, nhưng địa hình đồi núi gập ghềnh, khí hậu khắc nghiệt, như Nga, sẽ gặp khó khăn trong việc hình thành một nhà nước có nền kinh tế phát triển, nhưng lại có lợi thế về việc phòng thủ chống xâm lược.
Thứ hai, Dân số. Thành tố dân số có nhiều chi phối lên nhiều khả năng của một quốc gia, như khả năng sản xuất, xây dựng, quốc phòng,… Đặc biệt, trong thời chiến, dân số cần thiết cho việc xây dựng lực lượng quân đội của quốc gia. Trung Hoa, nhờ có lợi thế về dân số, nên có thể huy động được một đội quân khổng lồ khi tiến hành chiến tranh với Việt Nam và các nước khác trong suốt thời kỳ trung đại. Trong thời bình, dân số cần thiết cho mọi ngành nghề từ công - nông -thương nghiệp. Tuy nhiên, một quốc gia đông dân không hẳn là một quốc gia hùng mạnh, mà điều này tuỳ thuộc vào nhiều yếu tố khác. Hà Lan là một quốc gia có số dân trung bình ở Châu Âu, nhưng nhờ tài đi biển và khả năng kinh doanh, người Hà Lan đã gây dựng quốc gia trở thành một cường quốc hàng hải của thế giới trong thế kỷ XVI, và công ty Đông Ấn Hà Lan đã trở thành một thế lực kinh tế - quân sự hàng đầu.
Thứ ba, Kinh tế. Kinh tế khó lòng có thể tách khỏi chính trị và quyền lực. Kinh tế là một trong những thành tố cơ bản của quyền lực, là công cụ để thực hiện quyền lực trong quan hệ quốc tế. Một quốc gia có nền kinh tế phát triển sẽ có khả năng chi phối các quốc gia khác bằng đồng tiền của mình. Yếu tố kinh tế vì thế càng đóng vai trò quan trọng trong quan hệ quốc tế, khi các quốc gia tăng cường cạnh tranh bằng sức mạnh kinh tế thay vì thông qua chiến tranh. Những quốc gia có sự phát triển về công - thương nghiệp ngày càng nắm giữ nhiều quyền lực trong tay. Thời kỳ cận đại ở Châu Âu với những phát triển về thương mại hàng hải đã lần lượt xuất hiện các cường quốc như Tây Ban Nha, Bồ Đào Nha, Hà Lan, Thụy Điển và Anh Quốc. Đến thời hiện đại, Mỹ, với tư cách là siêu cường duy nhất ở thời điểm hiện tại, chi phối thế giới về mặt kinh tế.
Thứ tư, Khoa học - Công nghệ. Khoa học - Công nghệ cũng là một trong những yếu tố cơ bản của quyền lực, giúp tạo ra sự vượt trội một cách nhanh chóng trong tương quan về quyền lực giữa các quốc gia. Việc tận dụng được những yếu tố tiến bộ về khoa học công nghệ sẽ khiến cho một quốc gia chiến thắng sự cạnh tranh của các quốc gia khác. Sau Đệ nhị Thế chiến, Nhật Bản và các nước Tây Âu cũng đã tận dụng rất tốt những thành quả của việc phát triển Khoa học - Công nghệ để vượt lên trở thành hai trong ba trung tâm kinh tế - tài chính lớn nhất thế giới.
Thứ năm, Sức mạnh quân sự. Sức mạnh quân sự không chỉ là đòn bẩy để cấu thành quyền lực, mà còn là phương tiện để duy trì và đạt đến một quyền lực cao hơn. Một quốc gia có sự phát triển về kinh tế, nhưng không có một quân đội hùng mạnh, sớm muộn sẽ trở thành mục tiêu thôn tính của các đội quân xâm lược hùng hậu. Một đội quân hùng mạnh, do đó, cũng chính là thành tố cơ bản tạo nên và tăng cường quyền lực của một quốc gia. Ta có thể lấy trường hợp của Liên Xô làm ví dụ điển hình. Với lãnh thổ rộng lớn và mật độ dân cư thưa thớt, nếu không nhờ vào sự tinh nhuệ của quân đội, Liên Xô đã nhanh chóng trở thành vùng chiếm đóng của quân đội Đức.
Cuối cùng, Quyền lực mềm. Đây là thành tố quan trọng không kém gì các thành tố phía trên. Quyền lực mềm ở đây bao gồm các yếu tố tư tưởng, uy tín, văn hoá, truyền thống, khả năng lãnh đạo, và công luận. Đây là những yếu tố trừu tượng, không có khả năng đo lường, nhưng có tác động mạnh mẽ đến quyền lực của một quốc gia. Nga trong thế kỷ XVIII suy yếu, lạc hậu, nhưng nhờ sự dẫn dắt của Peter Đại Đế mà đã tiến hành cải cách, chuyển mình thành một cường quốc hùng mạnh. Hay như trường hợp nước Mỹ hiện đại. Người dân của khắp các quốc gia trên thế giới ít nhiều cũng xem phim Hollywood, ăn trong các chuỗi fast-food của Mỹ, đọc văn chương của các tác gia Mỹ, sử dụng sản phẩm công nghệ của Mỹ,...

2. Cách sử dụng quyền lực nào phục vụ lợi ích quốc gia tốt nhất?

Đây là một chủ đề dài hơi, gây tranh cãi. Do đó, trong một bài viết trên Spiderum, tôi cho rằng sẽ thật kì cục nếu tôi phân tích phần này quá dài. Tuy nhiên, tôi cũng không thể phân tích một cách qua loa cho có, bởi vì điều này thật là phản tri thức. Vì vậy, tôi sẽ trình bày một cách súc tích nhất có thể.
“Cũng như tự nhiên sợ chân không, chính trị quốc tế cũng sợ tình trạng quyền lực mất cân bằng. Khi đối mặt với sự mất cân bằng quyền lực, các quốc gia cố tăng cường sức mạnh của chính mình hoặc liên kết với các quốc gia khác để đưa quyền lực quốc tế trở về trạng thái cân bằng”. - Kenneth N. Waltz.
Cá nhân tôi nhận định việc duy trì cân bằng quyền lực là cách sử dụng quyền lực để đảm bảo lợi ích quốc gia tốt nhất. Về khái niệm cân bằng quyền lực, tôi đã có dịp trình bày trong bài viết “Việt Nam: Nạn nhân của Địa lí”. Nếu quý độc giả có hứng thú, quý vị có thể tìm đọc trên trang cá nhân Spiderum của tôi.
Việc duy trì trạng thái cân bằng quyền lực đồng nghĩa với việc gia tăng quyền lợi của các cường quốc, và những quốc gia nhỏ bé lệ thuộc phải chịu sự chia cắt về quyền lợi để phục vụ những mưu đồ này. Quyền lợi của các nước nhỏ hay các cường quốc đang suy vong thường không được quan tâm. Ví dụ, việc ký kết Hòa ước Westphalia (1648), Hiệp ước Utrecht (1714) và Hiệp ước Nystad (1721) đã đánh dấu sự rút lui hoàn toàn của hàng loạt các cường quốc cũ ở Châu Âu, và tạo cơ hội cho những cường quốc mới là Anh Quốc, Pháp, Nga, Áo, và Phổ. Việc nâng đỡ các quốc gia bại trận chỉ được quan tâm rõ ràng trong Hội nghị Viên (1815), khi Pháp được Áo và Anh giúp bảo toàn để tập hợp lực lượng kiềm giữ tham vọng của Nga và Phổ. [6]
Nguyên tắc cân bằng này đồng thời cũng thể hiện được xu hướng cố hữu trong quan hệ quốc tế. Những nhà hiện thực chủ nghĩa cho rằng sự lôi kéo mang tính địa chính trị này phản ánh một tiến trình cân bằng đã tồn tại từ lâu nhằm chống lại những nguy cơ tiềm ẩn. Vì giữa các quốc gia luôn có những chênh lệch nhất định về mặt lợi ích, dẫn đến hành vi cạnh tranh giữa các quốc gia, cho đến khi sự cân bằng bị đảo lộn thì lập tức xuất hiện xu hướng nêu ra nguyên tắc cân bằng để thiết lập lại cán cân lực lượng đó. Đây cũng là nguyên nhân khiến cho Đệ nhị Thế chiến vẫn diễn ra sau hai thập kỷ các nước cùng xây dựng hoà bình với hệ thống Versailles - Washington.
Khi tiếp cận theo nghĩa là một chính sách thì “cân bằng quyền lực” là một loạt những biện pháp nhất quán của các nhà ngoại giao, các chính khách nhằm duy trì trạng thái cân bằng của cán cân quyền lực. Theo đó, các quốc gia có thể hình thành một liên minh chống lại quốc gia có tiềm năng trở thành bá quyền hoặc thực hiện những biện pháp khác nhằm nâng cao khả năng kiềm chế những quốc gia hiếu chiến xâm lược. Bên cạnh đó một quốc gia cũng có thể tự mình đóng vai trò cân bằng hệ thống bằng cách thay đổi liên minh khi cần thiết. Như vậy, chính sách “cân bằng quyền lực” là nhằm duy trì một trạng thái cân bằng có lợi cho quốc gia hoặc một nhóm quốc gia thông qua các đường lối và chính sách cụ thể. Có thể xem trường hợp Việt Nam gần đây đã nâng cấp quan hệ với Mỹ lên đối tác chiến lược toàn diện là một ví dụ điển hình.
Nhìn chung, mọi hệ thống cân bằng quyền lực trong lịch sử như đã kể trên đều có những điều kiện chung gắn liền với những giả định của lý thuyết của Chủ nghĩa hiện thực. Thứ nhất, các quốc gia có chủ quyền nhưng tồn tại trong một thế giới vô chính phủ, không có một chính phủ toàn cầu hợp pháp bao trùm giúp điều chỉnh quan hệ giữa các quốc gia với nhau. Thứ hai, các quốc gia liên tục cạnh tranh với nhau nhằm giành giật các nguồn tài nguyên khan hiếm, bảo vệ lợi ích quốc gia và khuếch tán các giá trị vốn thường mâu thuẫn nhau của mình. Thứ ba, giữa các quốc gia trong hệ thống có sự chênh lệch nhau về địa vị, mức độ giàu có và sức mạnh.
Từ những giả định trên, các quốc gia thường theo đuổi chính sách cân bằng quyền lực để duy trì trật tự của hệ thống quốc tế, vốn là một điều kiện quan trọng giúp các quốc gia bảo vệ chủ quyền của mình. Chính vì vậy, cân bằng quyền lực cũng có thể coi là một sự thỏa hiệp giữa các quốc gia với nhau nhằm bảo vệ trật tự và tránh tình trạng hỗn loạn của hệ thống, cho dù trạng thái cân bằng quyền lực có thể có lợi cho những quốc gia mạnh và giàu có hơn là những quốc gia nhỏ yếu.

3. Trả lời hai câu hỏi còn lại.

Như vậy, qua câu trả lời của tôi cho câu hỏi số hai, câu hỏi số ba và bốn đều đã được giải quyết phần lớn. Tôi tin rằng quý vị đã có kết luận riêng sau khi tiếp cận nội dung trả lời và phân tích của hai câu hỏi trên. Do đó, Tôi xin phép gộp chung câu trả lời vào thành một phần để phân tích được súc tích hơn.
Về định nghĩa, liên minh (alliance) là sự cam kết chính thức giữa các quốc gia nhằm phối hợp hay tương trợ lẫn nhau để đối phó với các vấn đề an ninh, chống lại các mối đe dọa chung. Mục tiêu lớn nhất của liên minh là kết hợp nguồn lực và phối hợp hành động nhằm nâng cao vị thế của các quốc gia thành viên trong hệ thống quốc tế và nâng cao sức mạnh của các thành viên so với các quốc gia không tham gia liên minh. Liên minh có thể tồn tại trong nhiều lĩnh vực. Trong quan hệ quốc tế, liên minh chính trị - quân sự giữa các quốc gia mang tính phổ biến nhất bởi khả năng tác động to lớn đến quyền lực.
Các quốc gia có những lý do khác nhau để tham gia liên minh:
Thứ nhất, việc tham gia liên minh sẽ giúp giảm thiểu chi phí quốc phòng trong việc vũ trang để bảo vệ an ninh. Do đó, khi tham gia liên minh, các quốc gia sẽ nhận được sự bảo trợ về mặt an ninh của các thành viên khác mà không phải chi phí quá nhiều để tự xây dựng và duy trì hệ thống quốc phòng của mình. Việc tham gia các liên minh quân sự vì vậy mà trở nên đặc biệt hấp dẫn đối với các quốc gia nhỏ yếu, có tiềm lực quốc phòng hạn chế, hoặc các quốc gia muốn tiết kiệm chi phí quốc phòng để đầu tư phát triển kinh tế.
Thứ hai, việc tham gia các liên minh sẽ tạo điều kiện thúc đẩy hợp tác giữa các thành viên liên minh, mang lại cho các thành viên những lợi ích kinh tế, như thương mại, viện trợ, các khoản tín dụng. Đó là chưa kể đến việc triển khai quân đội liên minh ở một vài quốc gia thành viên sẽ có tác động tích cực tới các nền kinh tế địa phương.
Thứ ba, đối với các cường quốc, việc hình thành liên minh với các quốc gia có vị trí chiến lược sẽ giúp họ tiếp cận được các căn cứ quân sự, sử dụng không phận hay các cảng biển chiến lược, qua đó các cường quốc này có thể kiềm chế kẻ thù tiềm năng hoặc kiểm soát được các khu vực mang ý nghĩa chiến lược. Việc thu nạp các quốc gia nhỏ vào liên minh cũng giúp các cường quốc đưa những quốc gia này vào quỹ đạo ảnh hưởng của mình thay vì chống lại mình hoặc tham gia một liên minh đối lập. Chính vì vậy, có thể nói các liên minh có khả năng thay đổi cán cân quyền lực nhanh nhất trong quan hệ quốc tế và đóng vai trò quyết định trong sự cân bằng của hệ thống quốc tế.
Tuy nhiên, sự bền vững của các liên minh không giống nhau, tùy thuộc vào nhận thức của các thành viên về các mối đe dọa chung, các điểm tương đồng giữa các thành viên về hệ thống chính trị, kinh tế và thang giá trị, hay nhận thức của các thành viên về lợi ích quốc gia của mình. Trong khi liên minh chống phát xít giữa Anh Quốc, Liên Xô và Mỹ nhanh chóng tan rã sau khi Đệ nhị Thế chiến kết thúc, Tổ chức Hiệp ước Bắc Đại Tây Dương (NATO) lại tiếp tục tồn tại cho đến ngày nay.
Các liên minh có thể mang ý nghĩa hòa bình, chống xâm lược, nhưng cũng có những liên minh được hình thành để phục vụ mục tiêu xâm lược, điển hình như các liên minh trong hai cuộc Thế chiến. Việc hai quốc gia cùng tham gia vào một liên minh cũng có thể bị một nước thứ ba coi là hành động thù địch chống lại nước đó, dẫn đến liên minh đối địch và leo thang căng thẳng giữa các nước này với nhau. Vì vậy, nhiều quốc gia đã theo đuổi chính sách trung lập, tiêu biểu như Thụy Sĩ. Trong khi đó, nhiều quốc gia đang phát triển cũng đã tham gia Phong trào không liên kết trong thời kỳ Chiến tranh Lạnh nhằm thoát ra ngoài sự đối đầu giữa hai khối Đông - Tây. Điều này dẫn đến trạng thái cân bằng quyền lực, giúp các quốc gia có thể bảo vệ trật tự và tránh tình trạng hỗn loạn của hệ thống, cho dù trạng thái cân bằng quyền lực có thể có lợi cho những quốc gia mạnh và giàu có hơn là những quốc gia nhỏ yếu, như tôi đã viết ở phía trên.
Người lúc nào cũng muốn thành công phải thay đổi hành vi của mình tùy thời.
- Niccolò Machiavelli.
Bài viết được lên ý tưởng và bắt đầu soạn thảo vào 31/08/2022, hoàn thành vào 15/09/2023.
Dẫn nguồn và tư liệu tham khảo:
[1] Trần, Tuấn (2023). “Luận về việc viết”. Spiderum. https://spiderum.com/bai-dang/Luan-ve-viec-viet-hoHcxU2mKe9Q. Accessed 07 September 2023.
[2] Đào, Minh Hồng, & Lê, Hồng Hiệp (2018). “Thuật ngữ Quan hệ quốc tế”. NXB Chính trị Quốc gia Sự thật. Accessed 31 August 2022.
[3] Trương, Minh Huy Vũ (2015). “Lý thuyết quan hệ quốc tế (International Relations Theories)”. Nghiên Cứu Quốc Tế. https://nghiencuuquocte.org/2015/11/07/ly-thuyet-quan-he-quoc-te-irt/. Accessed 10 September 2023.
[4] Kegley, Charles W. Jr., & Raymond, Gregory A. (2005). “The Global Future: A Brief Introduction to World Politics”. Chapter 2. Wadsworth Cengage Learning. Accessed 01 September 2022.
[5] Lục, Minh Tuấn (2016). “Quyền lực (Power)”. Nghiên Cứu Quốc Tế. https://nghiencuuquocte.org/2016/04/30/quyen-luc-power/. Accessed 10 September 2023.
[6] Lục, Minh Tuấn (2014). “Cân bằng quyền lực (Balance of Power)”. Nghiên Cứu Quốc Tế. https://nghiencuuquocte.org/2014/12/24/can-bang-quyen-luc/. Accessed 14 September 2023.
Ngày 15 tháng 09 năm 2023,
Trần Tuấn