một sự hiểu biết gì mà không phải tự mình tìm ra, không
phải là hiểu biết. Huống chi, bắt người ta phải thâu nhận những điều người ta
chưa muốn thâu nhận để thi cử thì cái biết ấy hoàn toàn không ích lợi gì cho
khối óc thông minh của mình cả. Đó chẳng qua là một sự nhồi sọ mà thôi.
Những cấp bằng ấy là những cấp bằng trí nhớ, một lối trí nhớ cơ giới
(mémoire mécanique) không thể hoàn toàn đảm bảo sự thông minh trí thức
của họ được như có nhiều người lầm tưởng. Phần đông những kẻ có cấp bằng
trung học hay đại học mà làm nên một kỳ công đại nghiệp gì đều nhờ cái học
tiếp tục của họ sau khi ra trường.
Nhưng quan sát mà được tinh vi đúng đắn là nhờ khéo biết tập trung tư
tưởng. Thiếu tập trung tinh thần thì các quan năng đặc biệt như trí nhơ, trí
phán đoán hay suy luận đều không thể phát triển được. Trong phép điêu luyện
tinh thần, phải lấy nó làm gốc. Bởi vậy, trong quyển nầy tôi đã phải dành cho
nó và thuật quan sát một địa vị tương đương và quan trọng nhất.
A – Thuật quan sát;
B – Thuật tập trung tinh thần;
C – Thuật tưởng tượng;
D – Thuật tổ chức tư tưởng;
E – Thuật nhớ lâu;
C.__ Lối tư tưởng « chỉ nhận suống một ý kiến, mà không tìm coi nó có cơ
sở hay bằng cứ chắc chắn không », cũng không phải là tư tưởng hoàn toàn.
Tóm lại, « tư tưởng chính đính » là tư tưởng có bằng cứ chắc chắn, không
phải lối tư tưởng vu vơ, bổng lổng thêu lêu, không gốc rễ.
« Trí tuệ » là gì? Là sự tổng hợp của 3 quan năng này: Giác cảm, Trí
Nhớ và Trí Phán Đoán.
Tóm lại, muốn tư tưởng cho đúng, phải có một tinh thần độc lập, tự do.
Muốn có được một tinh thần độc lập và tự do, phải giải phóng cho nó ra khỏi
ba cái xiềng xích đã nói trên, là
1) Những cảm giác hoang mang loạn tạp bên ngoài;
2) Những dục vọng hỗn độn bên trong;
3) Những danh từ “hữu danh vô thực”.