Ý nghĩa cuộc sống (Phần 2) - Chủ nghĩa hiện sinh vô thần có giải quyết được bài toán hư vô luận?
Hành trình tìm kiếm ý nghĩa cuộc sống
Gần đây, chắc hẳn nhiều người cũng đã nghe qua những vụ tự tử tại Vạn Hạnh Mall, nhiều vụ án mạng đẫm máu và vô nhân tính, đó đều có thể được xem như hệ quả của hư vô luận. Ở Phần 1, tôi đã giới thiệu với độc giả các quan điểm triết học nhằm giải quyết bài toán hư vô luận, và trong đó, chủ nghĩa hiện sinh vô thần có ảnh hưởng nặng nề nhất. Chủ nghĩa này phủ nhận sự tồn tại của một Thượng đế, phủ nhận ý nghĩa tuyệt đối, mà đặt ra giải pháp rằng con người phải tự tạo ra ý nghĩa và giá trị.
I. Chủ nghĩa hiện sinh vô thần (Atheistic Existentialism) - Sự kết hợp u ám
Chủ nghĩa hiện sinh là một tiến trình tư tưởng phát triển qua nhiều thế kỷ, những bắt đầu hình thành rõ nét nhất vào thế 19, như một phản ứng sâu sắc trước khủng hoảng nền tảng đạo đức và ý nghĩa sống trong thời hiện đại, phản ánh nỗi lo âu, cô đơn và tuyệt đối tự do của con người. Chủ yếu được hình thành để giải quyết vấn đề hệ quả từ hư vô luận, chủ nghĩa hiện sinh vô thần ảnh hưởng mạnh mẽ tới văn hóa thế tục hiện nay.
Trước hết hãy lướt qua định nghĩa một vài khái niệm.
- Hư vô luận: Là một tư tưởng tin rằng không có Thượng đế, không có giá trị, mục đích, hay ý nghĩa siêu việt nào tồn tại (dù khách quan hay chủ quan). Tư tưởng này phủ nhận mọi đạo đức, chân lý, ý nghĩa. Cuộc sống là hoàn toàn phi lý, không có gì đáng tin hoặc giữ gìn.
- Chủ nghĩa hiện sinh: Lời giải cho bài toán hư vô luận. Tập trung vào tính tự do tuyệt đối của con người, trách nhiệm cá nhân, ý nghĩa do chính mình đặt ra, cũng như nỗi lo âu và sự phi lý.
- Hữu thần: Có nhiều dạng hữu thần khác nhau, nhưng tựu chung đều xoay quanh điểm cốt lõi này: Tin vào sự hiện hữu của Thượng đế hoặc một nguyên lý tối cao siêu việt mà từ đó luân lý, trật tự và ý nghĩa cuộc sống hình thành.
- Vô thần: Có nhiều dạng vô thần khác nhau, nhưng tựu chung đều xoay quay điểm cốt lõi này: phủ nhận sự tồn tại của Thượng đế hoặc không khẳng định tuyệt đối rằng "Thượng đế không tồn tại", đa phần dựa trên lập luận khoa học và bằng chứng.
Người được xem là cha đẻ của chủ nghĩa hiện sinh là triết gia Søren Kierkegaard. Ông đề cao tự do, đau khổ, đức tin và sự tuyệt vọng của đời sống con người. Từ đó, ông khẳng định chỉ có niềm tin vào Thiên Chúa mới giúp con người vực dậy khỏi hố sâu vô nghĩa của cuộc sống. Tuy nhiên, ông cho rằng niềm tin vào Thiên Chúa là một bước nhảy phi lý vì tin vào một đối tượng không thể kiểm chứng, nhưng hành động phi lý này là cần thiết và chính đáng.
Có thể nói, chủ nghĩa hiện sinh của Søren Kierkegaard là hữu thần, nhưng ông gần như đã bị phớt lờ trong thời đại của mình, vì một trào lưu triết học mới ra đời "hợp lòng dân" hơn, tuy kế thừa Søren, nhưng trào lưu này phủ nhận một Thượng đế vĩnh hằng, và chính là chủ đề cho bài viết ngày hôm nay, chủ nghĩa hiện sinh vô thần.

Các triết gia tiêu biểu cho chủ nghĩa này chính là Friedrich Nietzsche, Albert Camus và Jean-Paul Sartre. Đặc điểm cũng như nhiệm vụ chung mà các triết gia này tự đặt cho bản thân chính là: "Không có Thượng đế, cuộc sống đích thực VÔ NGHĨA, vậy làm sao đây?" Chủ nghĩa hiện sinh vô thần phủ nhận một Thượng đế vĩnh hằng, từ đó phủ nhận một ý nghĩa cốt lõi cho sự tồn tại của con người, cũng như phủ nhận sự tồn tại của một một chân lý tuyệt đối. Nhưng họ công nhận hệ quả của hư vô luận, đó là khi không còn Thượng đế, không còn ý nghĩa cuộc sống, cũng như không còn chân lý đạo đức cốt lõi, con người sẽ rơi vào hư vô, trầm cảm, và đạo đức sẽ ngày càng mai một và biến tướng vì không còn đúng sai tuyệt đối nữa, và xã hội sẽ rơi vào hỗn loạn. Một nỗi lo âu trỗi dậy trong lòng các nhà hiện sinh, như Friedrich Nietzsche từng lo lắng:
"Thượng đế đã chết, và chúng ta đã giết ngài. Làm sao chúng ta, sát nhân trên mọi sát nhân, có thể rửa sạch vết máu loang trên đôi bàn tay?"
Vậy, làm sao để rửa sạch máu trên tay mình? Đây là lúc mỗi triết gia cũng như mỗi người mỗi ý:
- Friedrich Nietzsche: Mỗi người phải trở thành một "Siêu nhân (Übermensch)" tự đặt ra giá trị cho riêng mình, và mặc dù không chính thức công nhận, nhưng ông cũng hàm ý cho rằng nền tảng đạo đức phát xuất từ kẻ mạnh.
- Jean-Paul Sartre: Con người hoàn toàn tự do, tức tự do tuyệt đối, không bị giới hạn bởi bất cứ điều gì, và mỗi người phải tự chịu trách nhiệm cho chính bản thân mình.
- Albert Camus: Tập trung vào sự phi lý (l’absurde), con người tìm ý nghĩa trong một cuộc sống vô nghĩa là phi lý. Vậy, con người phải nổi loạn, phải nổi loạn mà tìm kiếm ý nghĩa trong sự vô nghĩa này.
Thoạt nghe những quan điểm trên rất vang và bộc lộ sức mạnh cá nhân của mỗi con người, thậm chí còn rất quen thuộc trong các câu nói thế tục hiện đại như: "Ý nghĩa cuộc sống là chính bạn đặt ra!" "Cơ thể của tôi lựa chọn của tôi!" Nhưng, liệu chúng có đúng? Và liệu chúng có giải quyết được bài toán của hư vô luận không?
II. Nếu hư vô luận là thật, thì chết là khôn ngoan nhất
1. Gót chân Achilles
Từ xưa đến nay, cả phương Đông lẫn phương Tây, đều sống dưới một nền đạo đức nhất định tùy vào tôn giáo tín ngưỡng nhất định. Tôn giáo mang đến một ý nghĩa sống siêu việt, tức không thế tục, không mang tính vật chất, và là kim chỉ nam cho mỗi người ngay cả khi họ trong cảnh lầm than đau khổ nhất. Tất nhiên, nhiều tôn giáo mang tư tưởng diệt chủng độc hại, vậy nên phải có cách xem xét giáo lý từng tôn giáo, đây là chủ đề mà có thể tôi sẽ bàn tới sau. Trong không gian bàn luận này, tôi chỉ muốn nói rằng, tôn giáo tin vào một ý nghĩa sống siêu việt cốt lõi (tức nó tồn tại khách quan và tự thân), còn chủ nghĩa hiện sinh vô thần hoàn toàn loại bỏ một ý nghĩa sống siêu việt cốt lõi, chỉ còn ý nghĩa riêng của từng cá nhân.

Vậy nên, trong thế giới quan của chủ nghĩa hiện sinh vô thần thuần túy, mọi giá trị mà con người tuyên bố đều có thể bị nghi ngờ hoặc từ chối, đạo đức phổ quát không còn, mọi ý nghĩa tự đặt của mỗi người đều có giá trị ngang nhau, vậy ta sẽ không có cơ sở khách quan tuyệt đối nào biện mình ai đúng ai sai ai phậm tội, chỉ có đồng thuận xã hội, mà số đông thì chưa chắc đúng.
Đây là gót chân Achilles của chủ nghĩa hiện sinh vô thần khi phủ nhận một nền tảng chân lý tuyệt đối. Vì nếu không có một hệ quy chiếu tuyệt đối khách quan nằm ngoài con người, thi con người không thể biện minh khách quan cho đạo đức riêng của mỗi cá nhân.
2. Phản biện
a. Nietzsche - Con người đã giết Chúa
Như đã nói ở trên và ở phần 1. Nietzsche không tìm cách cứu vớt luân lý sau khi "Chúa đã chết", mà tuyên bố rằng mọi hệ luân lý đều đã sụp đổ, vì từ lâu chúng chỉ là "đạo đức của kẻ nô lệ" dựa trên mặc cảm, yếu đuối, và lòng thù hận.
Chủ nghĩa hư vô là điểm khởi đầu, không phải tai nạn. Nietzsche gọi nó là "bước cần thiết" để con người phá hủy các giá trị cũ, và tái thiết lập bằng sức mạnh bản thân, thông qua hình tượng Siêu nhân (Übermensch).
Nhưng hãy nhớ: Siêu nhân của Nietzsche không gắn với đạo đức phổ quát, nhân quyền, hay đồng cảm. Đó là một kẻ tự tạo ra giá trị theo ý chí quyền lực (will to power), không chịu khuất phục bất kỳ chuẩn mực nào ngoài chính mình.
Phản biện: Nietzsche không muốn giữ lại đạo đức cũ, mà muốn phá hủy nó để xây một trật tự mới phi đạo đức truyền thống. Nhưng lại không thể đặt ra nền tảng phổ quát cho việc đó, để một người có thể phân biệt đúng sai, mà lại ngầm đồng ý kẻ mạnh có khả năng đàn áp đạo đức lên kẻ khác. Có nghĩa, nếu có một Siêu nhân với tư tưởng độc hại đàn áp kẻ khác thì ta lấy đâu ra cơ sở để chống đối? Cũng như không có quyền để chống đối.
Nói cách khác, ông vẫn không thể che chắn được gót chân: "Thế giới quan của chủ nghĩa hiện sinh vô thần không thể biện minh và chứng minh khách quan cho đạo đức của họ."
b. Sartre - Con người bị kết án tự do
Sartre tin rằng nếu không có Thượng Đế, thì con người hoàn toàn tự do và hoàn toàn chịu trách nhiệm. Không có bản tính người có sẵn, không có bản chất thiện ác khách quan. Ông nói con người tồn tại trước, rồi mới tự tạo ra bản chất của mình.
"Con người bị kết án tự do" không phải là tuyên bố lạc quan.
Hệ quả của điều này là gì? Không có đúng sai tuyệt đối. Không có nền tảng nào bên ngoài cá nhân để dựa vào. Đó là trạng thái ông gọi là anguish, abandonment, despair; tức lo âu, bị bỏ rơi và tuyệt vọng. Ông viết, chỉ cần một ánh nhìn của người khác hướng mình thì mình đã mất đi tự do tuyệt đối, vì khi đó mình đã bị giam trong cái nhìn của người khác. Và ông đúng khi nói đây là hệ quả tất yếu của tự do tuyệt đối, đó là cô đơn và tuyệt vọng tuyệt đối.
Để xây dựng đạo đức, Sartre dựa vào liên chủ thể tính (inter-subjectivity), tức “khi tôi chọn điều gì là đúng, tôi chọn điều đó cho cả nhân loại.” Nhưng đây là một nền đạo đức rất mong manh, vì nó không có chuẩn mực nào ràng buộc được kẻ khác, ngoài thiện chí cá nhân. Giả sử một kẻ có ý định diệt chủng nhân loại vì muốn giải thoát nhân loại khỏi khổ đau trên trái đất này, hoàn toàn hợp lệ với quan điểm của Sartre. Tức ông cũng không đặt ra được một nền tảng đạo đức khách quan nào.
Sartre thừa nhận: con người dễ chạy trốn tự do bằng sự tự dối mình (bad faith), sống như thể có bản chất cố định để tránh trách nhiệm. Vậy mà ông lại khẳng định không có bản tính người sẵn có? Đây là mâu thuẫn nội tại.
Phản biện: Sartre không hề tuyên bố có một chuẩn mực tuyệt đối, mà chỉ đưa ra một bi kịch hiện sinh về trách nhiệm không nền tảng.
Tức cũng không giải quyết được gót chân trên.
c. Camus - Chỉ có một vấn đề triết học thực sự nghiêm túc: đó là tự sát.
Camus bác bỏ cả tôn giáo và tư tưởng hiện sinh. Ông nói Sartre còn quá “tôn giáo” khi tin vào tự do và ý nghĩa do con người tạo ra.
Vậy, nếu vũ trụ hay cuộc sống không có ý nghĩa, thì ta phải làm sao đây? Khi con người đòi hỏi thế giới phải có ý nghĩa nhưng thế giới không đáp lại, thì ta có ba lựa chọn:
- Tự sát: vì cuộc sống không có ý nghĩa.
- Nhảy vào tôn giáo: tạo ra ý nghĩa hư cấu để xoa dịu mình (ông gọi đó là “nhảy vọt” – le saut – như Kierkegaard).
- Nổi loạn và sống tiếp với sự phi lý.
Camus chọn nổi loạn chống lại sự phi lý. Đối với Camus, thế giới là phi lý, và không thể giải thích. Nhưng con người khao khát ý nghĩa: ta phải tiếp tục sống, dù không có ý nghĩa. Đó là hình thức nổi loạn: phải sống trong một vũ trụ không cần ta sống.
Camus không hề xây dựng một hệ đạo đức, mà chỉ đưa ra một hình ảnh: kẻ nổi loạn (le révolté) – người không chấp nhận bất công nhưng cũng không tin vào cứu chuộc hay giá trị tuyệt đối.
Phản biện: Camus không đưa ra được cơ sở nào cho đạo đức phổ quát. Ông chỉ nói rằng con người nên sống có phẩm giá dù biết cuộc đời vô nghĩa. Nhưng nếu mọi thứ vô nghĩa, thì tại sao lại nên sống có phẩm giá? Ông không trả lời được – ông chỉ từ chối không tự tử, chứ không phủ nhận giải pháp tự tử.
Tức cũng không giải quyết được gót chân nêu trên.
3. Hệ quả triết học khả dĩ khi nền tảng đạo đức trở nên chủ quan
Không có Thượng đế, tức không có luân lý tuyệt đối. Mà không có luân lý tuyệt đối để con người dựa vào mà hình thành nên luật pháp, thì đạo đức, luân lý hay luật pháp chỉ là sản phẩm chủ quan của mỗi người, được kẻ mạnh áp đặt và kẻ yếu tuân theo, là sản phẩm của xã hội (Nietzsche - Siêu nhân). Nói cách khác, tôi tin và sống như thế nào là quyền của tôi, không đúng cũng không sai một cách khách quan, không ai được can thiệp, chỉ có sự khác biệt trong tư tưởng sống, không có đúng sai.

Đây là một hệ quả triết học vô cùng khôn lường và rất khó kiểm soát. Hãy thử tưởng tượng những ví dụ sau đây, hệ quả triết học của tư duy chủ quan này:
"Tôi làm gì trong nhà của tôi là quyền và luân lý của tôi, bạn không có quyền can thiệp, thậm chí chính phủ cũng không được phép can thiệp, cho dù tôi có hãm hiếp hay tra tấn ai đó trong nhà tôi đi nữa. Vì mỗi người tự đặt ý nghĩa sống cho mình, chẳng đúng cũng chẳng sai. Với tôi hãm hiếp và tra tấn là đúng. Không ai có quyền can thiệp."
"Chúng tôi, cư dân đất nước này, cho rằng ý nghĩa sống của chúng tôi là tạo ra một giống người "thượng đẳng", chúng tôi thấy dân tộc nội địa này và các dân tộc xung quanh là dơ bẩn, chúng tôi phải diệt chủng họ để làm trong sạch dòng giống chúng tôi. Không một quốc gia hay liên minh nào được phép gán tội cho chúng tôi, vì điều chúng tôi làm không đúng cũng chẳng sai, chỉ là chúng tôi tin vậy thôi."
"Chúng tôi thấy nô lệ là đúng, kẻ yếu hèn buộc phải làm tôi mọn cho người văn minh. Không một ai được phép nói chúng tôi sai mà giải phóng nô lệ. Vì ý nghĩa sống của chúng tôi là nô dịch, ngay cả nô lệ cũng tin bản thân phải làm trâu ngựa cho người khác. Điều này chẳng đúng cũng chẳng sai, không ai được can thiệp."
"Chúng tôi là nước mạnh, chúng tôi tiến vào nước các bạn, khai thác, nô dịch, vì chúng tôi mạnh và các bạn yếu, mà chúng tôi mạnh nên luân lý của chúng tôi các bạn bắt buộc phải theo, và vì nó chẳng đúng cũng chẳng sai, nên các bạn không có quyền cũng như lý do giải phóng đất nước của bạn."
Những ví dụ trên cho thấy chủ nghĩa hiện sinh vô thần không thể giải quyết bài toán hư vô luận, khi luân lý tuyệt đối bị xóa bỏ, đạo đức là chủ quan, đúng sai chỉ là ảo giác cá nhân, ta thấy chúng hoàn toàn mâu thuẫn với trật tự luân lý cũng như tiến trình lịch sử thật sự của thế giới, sự thật rõ ràng là có chính nghĩa, có trật tự, có đúng sai, và nó nằm ngoài quan điểm cá nhân của mỗi người hay mỗi quốc gia. Nếu "chúng ta tự đặt ra ý nghĩa sống cho mình" và mọi quan điểm đạo đức đều chủ quan thì xã hội sẽ trở nên vô trật tự, đây cũng là kết luận của các nhà hiện sinh kể trên, buộc họ phải tìm giải pháp.
3. Văn hóa "chết"
Đây chính hệ quả triết học khôn lường nhất từ hư vô luận và chủ nghĩa hiện sinh vô thần, con người chỉ là một hỗn hợp các tế bào tương tác với nhau, và đạo đức chỉ là sản phẩm xã hội có thể thay đổi. Giả sử những câu hỏi này dần len lỏi vào tư duy mỗi con người thì sao:
"Sống cũng vô nghĩa, chết cũng vô nghĩa, đâu là điểm khác nhau giữa con người đang sống và đang chết, một hỗn hợp tế bào hoạt động vô tình thể hiện ra bên ngoài thông qua các hành động mà ta gọi là "sống" (như ăn uống, làm việc, vui chơi) thì khác gì một hỗn hợp tế bào hoạt động vô tình thể hiện ra bên ngoài thông qua các hành động mà ta gọi là "chết" (phân hủy thành đất cát và thức ăn), nếu cả hai chỉ là vô tình?"
"Nếu một ai đó đảo ngược cách gọi hai hoạt động trên thì có sai không?"
"Tại sao phải sống tốt khi cuối cùng cũng chết, sao không sống để thỏa mãn cái tôi của mình?"
"Tại sao tôi lại là kẻ yếu, kẻ nghèo, bị đàn áp bởi kẻ mạnh, tại sao tôi không được sống theo ý thích của tôi?"
"Tại sao tôi không thể tự định danh chính bản thân, ai có quyền quy định tôi phải là ai, là giới gì, phải làm gì và không được làm gì?"
"Tại sao phải chăm lo cho người cao tuổi và người bệnh, họ có đóng góp gì cho xã hội đâu?"
"Tại sao tôi phải sinh thai nhi, trong khi tôi có quyền loại bỏ nó, vì nó chỉ là một mớ tế bào thôi mà?"
"Tại sao tôi phải cố gắng sống tiếp, để rồi cũng phải chết?"

Những câu hỏi trên không thể được biện minh khách quan theo thế giới quan của chủ nghĩa hiện sinh vô thần. Vì chân lý tuyệt đối không còn nữa, mỗi người đều có quyền tự đặt ra ý nghĩa cho mình và chúng đều có giá trị như nhau, không ai được phép can thiệp. Vì không có Thượng đế và chân lý tuyệt đối, con người mất đi giá trị cốt lõi của mình, chỉ còn là mớ tế bào tương tác với nhau, giá trị sự sống bị giảm mạnh.
Nếu áp dụng hiện sinh vô thần mà không cẩn thận, và rất dễ dàng để bất cẩn, bạn sẽ rơi vào hư vô luận: chết thật sự là hoàn toàn hết, không có cuộc sống sau cái chết, không có mục đích tối hậu, nên cuộc sống là vô nghĩa, nên tôi có làm gì (thậm chí việc ác) cũng chẳng có nghĩa, trước sau tôi và bạn cũng chết. Và vì vô nghĩa, nên nếu bạn có cố gắng tạo ra giá trị cho mình và xã hội, nhưng bạn lại gặp bất cập như bệnh tật và tuổi già, chẳng thể đóng góp nữa, thì không có lý do gì để bạn sống tiếp.
Một hệ quả triết học vô cùng khôn lường: có tiềm năng hủy hoại giá trị cốt lõi tốt đẹp mà bất cứ ai cũng có; coi thường đức hy sinh quên mình vì người khác của các bậc thánh nhân; "vật hóa" con người. Và quan trọng nhất, nó xóa bỏ ý nghĩa siêu việt của cuộc sống, thứ động lực khiến con người tồn tại tới tận ngày nay.
III. Kết luận
Cần nhấn mạnh rằng tôi không kết án hay khẳng định người theo chủ nghĩa hiện sinh vô thần thuần túy không có đời sống đạo đức, ngược lại, tôi rất kính phục nhiều người theo hiện sinh vô thần nhưng có đời sống rất đức hạnh đáng được noi theo. Niềm tin hữu thần hay vô thần hay niềm tin nào đó đều có thể khiến một người sống đạo đức thánh thiện. Những hệ quả triết học được đề cập cũng không hoàn toàn là ý kiến cá nhân của tôi, mà là hệ quả chính các nhà hiện sinh đã tự rút ra và tự buộc mình phải tìm cách giải quyết nó, tức hệ quả triết học này có khả năng hợp logic và không tự mâu thuẫn rất cao.
Điều tôi muốn làm rõ trong bài này đó là:
Thế giới quan của chủ nghĩa hiện sinh vô thần không thể biện minh khách quan cho đạo đức của con người. Từ đó không có cơ sở vững chắc để ngăn chặn cũng như phán xử những hành vi được cho là gây hại đến an nguy của người khác và của bản thân.
Con người khát khao ý nghĩa tuyệt đối, tình yêu tuyệt đối, và công lý tuyệt đối – điều mà hiện sinh vô thần không thể đáp ứng. Bản thân tôi tin vào một chân lý tuyệt đối, nơi con người dựa vào để viết nên luân thường đạo lý; tôi tin vào một ý nghĩa sống siêu việt, kim chỉ nam cho con người trong bất kỳ hoàn cảnh nào; và tôi tin vào một thực thể siêu việt đã đặt ra ý nghĩa cuộc sống cho con người chúng ta. Điều quan trọng là phải khám phá được đó là gì. Trong các phần sau tôi sẽ tiến vào hai tôn giáo cũng như hệ thống triết-thần học quan trọng nhất trên thế giới: Phật giáo và Kitô giáo.
Chúc con đường đi tìm chân lý của các bạn luôn được soi sáng.

Quan điểm - Tranh luận
/quan-diem-tranh-luan
Bài viết nổi bật khác
- Hot nhất
- Mới nhất