"Luận triết chính là học cách chết." Michel de Montaigne, Thí luận
Có bao giờ chúng ta tự hỏi: "Sống để làm gì?", "Tại sao ta lại tồn tại trên cõi đời này?", "Tại sao ta phải sống có đạo đức?". Quả thật, những suy tư này đã tồn tại kể từ khi con người có ý thức xuất hiện. Rất nhiều triết gia, tôn giáo và các nhà tri thức khác đã lao vào tìm kiếm câu trả lời cho ý nghĩa cuộc sống. Trào lưu xã hội hiện nay dạy: Ý nghĩa do bạn tự đặt cho mình. Nhưng liệu điều đó có đúng? Có phải ta đang vật lộn để tìm ý nghĩa cho một cuộc sống vốn vô nghĩa? Hay thực sự tồn tại một ý nghĩa sống tuyệt đối? Hãy cùng nhau ghé thăm các triết gia, suy ngẫm các tôn giáo, và phân tích các kết quả để xem ý nghĩa cuộc sống rốt cuộc là cái gì mà ám ảnh ta đến vậy.

1. Triết học cổ điển - Ý nghĩa sống là hướng về cái Tuyệt đối vĩnh hằng

a. Plato: Ý nghĩa cuộc sống là trở về với chân - thiện - mỹ

Plato là một triết gia Hy lạp cổ đại, được cho là đã đặt nền móng cho triết học Phương tây. Plato tin vào một thế giới ý niệm (forms hay ideas), theo đó, ông cho rằng thế giới phàm trần chỉ là hình bóng của một thế giới ý niệm chân thực và vĩnh hằng. Tư tưởng này được ông trình bày thông qua Dụ ngôn hang động, tóm tắt như sau:
Một nhóm người sống trong một hang đạng, họ đốt lửa để soi sáng và sửa ấm, cả đời họ chỉ thấy hình bóng họ phản chiếu lên tường nên họ coi đó là thần linh và thờ lạy. Ngày nọ, một người bước ra khỏi hang và nhận ra bên ngoài còn nhiều thứ đẹp đẽ hơn và những thần kia chỉ là những cái bóng. Anh quay lại hang để nói cho mọi người biết, nhưng không ai tin anh và còn tìm cách giết anh.
Qua câu chuyện này, Plato muốn nhấn mạnh, chúng ta đang sống trong một thế giới, nơi mọi thứ chỉ là cái bóng phản ánh chính chúng ta. Ông cho rằng "linh hồn" thuần khiết của chúng ta bị đày vào cơ thể phàm trần và thế giới bóng hình này. Dù vậy, trong thâm tâm, ta vẫn còn đó một ý niệm (trong linh hồn) hoàn toàn chân thực về sự thật. Sự thật về cái tốt - cái đẹp - cái công lý vĩnh hằng. Vì vậy, ông cho rằng ý nghĩa sống của con người là để quay về với cái thế giới ý niệm vĩnh hằng ấy, chân - thiện - mỹ. Người nào biết tiết chế dục vọng, biết kỷ luật bản thân để sống đạo đức, chính là người đang ra khỏi hang. Người đó đã giác ngộ, vượt lên cả ý nghĩa vật chất, tìm về Chân lý Tuyệt đối vĩnh hằng.

b. Aristotle: Ý nghĩa cuộc sống là đức hạnh

Khác với Plato, Aristotle không đặt nặng một thế giới siêu hình. Ông muốn đi thắng tới thực hành thế tục hơn. Ông quan sát cuộc sống thực tế của con người và hỏi: "Cuối cùng ta sống vì cái gì?"
Ông cho rằng đức hạnh (virtue) là quan trọng, thực hành đức hạnh sẽ dẫn tới một cuộc sống đạo đức, thánh thiện, đóng góp tích cực cho cộng đồng và xã hội. Nhưng để sống đức hạnh, một người cần thực hành rèn luyện và sống tốt theo lý trí, vì lý trí là cái hướng thiện tuyệt đối, theo nó ta sẽ được đức hạnh. Từ đức hạnh, ta sẽ tìm thấy "eudaimonia", tức hạnh phúc chân thực. Hạnh phúc này không phải quyền lực, không phải hạnh phúc vật chất, mà là thứ hạnh phúc chân thực nhất mà đức hạnh mang lại.
Ở đây, ông không thiên về thế giới ý niệm siêu hình như Plato, ông cũng không thiên về thế giới vật chất như Epicurus, ông thiên về nên thực hành những gì, ông chỉ bàn tới trách nhiệm của một con người và một công dân, hãy thực hành và rèn luyện nhân cách tốt để đạt tới đức hạnh, sống với lý trí, điều độ, công bằng. Ý nghĩa cuộc sống không chỉ nằm ở "tự do cá nhân", mà còn nằm trong việc thực hiện vai trò trong cộng đồng, vì con người chỉ phát triển toàn diện trong quan hệ xã hội.
Tuy nhiên, không phải ông không hề trình bày ý tưởng về một đích đến vĩnh hằng. Aristotle cho rằng mọi thứ trên thế giới đều dịch chuyển, và mọi thứ dịch chuyển đều cần một nguyên nhân tác động, và nguyên nhân đó cũng cần một nguyên nhân khác. Dòng nguyên nhân không thể tiến tới vô tận, vì thực tại là hiển nhiên. Vậy nên ông cho rằng bắt buộc phải có một động cơ vĩnh cửu, một thiên thể bất động, một "sự dịch chuyển không bị dịch chuyển" (unmoved mover), và ông xem đó như cái Tuyệt đối vĩnh hằng. Việc nhắm tới eudaimonia cũng là nhắm tới "thực thể" này, nhưng khác với Plato, ông thiên về cách thực hành hơn là lý thuyết.
Bức hình mô tả hai thế lực ở hai góc trên-dưới đang quay guồng quay của động cơ vũ trụ. Bản thân hai thực thể này không cần được "quay".
Bức hình mô tả hai thế lực ở hai góc trên-dưới đang quay guồng quay của động cơ vũ trụ. Bản thân hai thực thể này không cần được "quay".
Từ đây, ta có thể thấy, đặc điểm chung của triết học cổ điển là cuộc sống hướng tới một điều tuyệt đối vĩnh hằng. Đó có thể là thế giới ý niệm của Plato, hay "động cơ vĩnh cửu" của Aristotle, nhưng ý nghĩa cuộc sống là chung nhất cho toàn nhân loại và cách đạt được nó là hướng thiện. Tư tưởng này đã sống tốt cho đến khi vô thần luận dần chiếm ánh đèn sân khấu.

2. Chủ nghĩa hiện sinh - Hư vô luận chiếm ưu thế và một bức tranh u tối

Chủ nghĩa hiện sinh là một trào lưu triết học tập trung vào tự do cá nhân, trách nhiệm của cá nhân trong cuộc sống, ý nghĩa cuộc sống trong một thế giới không có Thiên Chúa, và nỗi lo âu, hoang mang khi không có chân lý tuyệt đối. Vì một khi không có chân lý tuyệt đối, cuộc sống không còn ý nghĩa nào cả, tức không có nhân quyền, không có giá trị siêu việt. Chủ nghĩa hiện sinh có nhiều nhánh tư tưởng khác nhau, nếu có thể gọi là vậy, nhưng điểm chung của các nhánh này là sự thế tục, bác bỏ một Thiên Chúa là chân lý tuyệt đối, cuộc sống vốn không có ý nghĩa nên ta phải tự tìm ý nghĩa cho riêng mình. Sau đây, hãy cùng nhau điểm qua vài gương mặt tiêu biểu trong giai đoạn triết học này.

a. Søren Kierkegaard (1813 - 1855) - Vị cha đẻ bị ngó lơ

Søren Kierkegaard là một thần học gia, triết gia, nhà văn và thi sĩ người Đan Mạch, ông được người đời sau coi như "cha đẻ của triết học hiện sinh", mặc dù những "đồng môn" của ông lại đi con đường hoàn toàn khác. Nhận thấy ảnh hưởng của Cơ đốc giáo tới niềm tin và ý nghĩa cuộc sống của người dân ngày càng phai nhạt, ông dấn thân vào việc giúp phục hồi đức tin cá nhân, coi đó là trung tâm của đời sống con người.
Tượng Søren Kierkegaard tại Sân vườn Thư viện Hoàng gia nằm trên hòn đảo Slotsholmen tại trung tâm Copenhagen, Đan Mạch.
Tượng Søren Kierkegaard tại Sân vườn Thư viện Hoàng gia nằm trên hòn đảo Slotsholmen tại trung tâm Copenhagen, Đan Mạch.
Kierkegaard không quan tâm tới triết học trừu tượng, mà tập trung vào vấn đề hiện sinh, tức cuộc sống con người hiện tại trong cõi đời. Đối với ông, cuộc sống là bất định, chúng ta dễ dàng bị dòng đời đưa đẩy tới nơi ta không kiểm soát được, vậy nên thứ giúp chúng ta neo đậu bản thân chính là đức tin vào chân lý, và Thiên Chúa là chân lý duy nhất. Ông cho rằng việc tin vào Chúa là "bước nhảy vào nghịch lý", vì rõ ràng ta chẳng thể chứng minh Thiên Chúa, nhưng ta cần Ngài là chân lý tuyệt đối giúp giữ cán cân đạo đức ở thế gian này. Mà tin vào chân lý tuyệt đối là sống chết vì nó. "Cần" ở đây không phải như ta cần ăn, cần uống, mà sự tồn tại của Thiên Chúa là thiết yếu cho những gì đang diễn ra trong thực tại này. Nếu không có Thiên Chúa, mọi thứ rơi vào hỗn loạn, điều mà những nhà hiện sinh vô thần sau này phải giải quyết. Với ông, mục đích và ý nghĩa sống của con người là hiệp thông với Thiên Chúa.
Dù bị ngó lơ vào lúc sinh thời, nhưng Kierkegaard đã ảnh hưởng sâu sắc tới các tư tưởng sau này: Thần học hiện đại (Karl Barth, Paul Tillich); Chủ nghĩa hiện sinh (Sartre, Camus – dù là vô thần); Tâm lý học hiện sinh (Viktor Frank).
"Chân lý không phải điều bạn tin, mà là điều bạn sống chết vì nó." Søren Kierkegaard

b. Friedrich Nietzsche (1844 - 1900) - Chúa đã chết, và chúng ta đã giết Ngài

Nietzsche là một triết gia theo hư vô luận, tin rằng không có Thiên Chúa, và bản chất cuộc sống này hoàn toàn vô nghĩa. Nhưng ông là một người thú vị bởi ông thành thật, và sự thành thật của ông vẽ nên một bức tranh u ám đáng sợ về một thế giới sau khi không còn Thiên Chúa. Để nói về tư tưởng của Nietzsche có lẽ khó mà tóm tắt, nên chúng ta hãy cùng xem xét đoạn văn nổi tiếng của ông trong tác phẩm The Gay Science mục 125, sau đây là trích dịch:
"Chúa đã chết. Chúa vẫn chết. Và chúng ta đã giết Ngài. Làm sao chúng ta, sát nhân của mọi sát nhân, có thể tự an ủi? Thứ gì đã chảy máu đến chết dưới lưỡi dao của chúng ta, nếu không phải thứ thánh thiêng và vĩ đại nhất mọi sự mà thế giới từng nắm giữ. Ai sẽ rửa sách máu trên chúng ta? Thứ nước nào có thể thanh tẩy chúng ta? Buổi lễ rửa tội nào, nghi thức thánh thiêng nào mà ta cần phải sáng tạo thêm nữa? Phải chăng sự vĩ đại của hành động này quá vĩ đại với chúng ta? Phải chẳng chính ta cũng phải trở thành một vị chúa chỉ để xứng đáng với sự vĩ đại ấy?"
Ở đây, ta thấy, Nietzsche không hề hả hê, hay tự hào con người đã không cần đến Thiên Chúa, mà ông bộc lộ nỗi lo âu triết học sâu sắc về một thế giới nơi chuẩn mực đạo đức tuyệt đối đã không còn. Cũng giống Kierkegaard, ông nhận ra xã hội phương Tây đã mất niềm tin vào Thiên Chúa, vào nền đạo đức Cơ đốc giáo, vào ý nghĩa siêu việt. Nhưng sau khi con người đánh đổ những giá trị siêu việt, đánh đổ nền đạo đức lâu đời đó, con người lại không có gì để thay thế. Con người vẫn sống như cũ, mà giờ đây lại còn thiếu thiếu nền tảng, nên dễ rơi vào hư vô luận thuần túy – tin rằng không có gì có ý nghĩa cả, từ đó bác bỏ các giá trị nghệ thuật, giá trị đạo đức, rơi vào hố sâu khủng hoảng. Nietzsche không chỉ dừng tại chỗ cuộc sống không có ý nghĩa, mà tìm cách vượt khỏi chính cái hư vô đó.
Vậy, giải pháp của ông là gì? Ông đặt ra khái niệm "siêu nhân", chắc chắn không phải siêu nhân màn ảnh hay người có sực mạnh cơ bắp siêu phàm, mà là người:
- Tạo ra giá trị mới cho đời mình.
- Không cần dựa vào Thiên Chúa hay xã hội.
- Sống trung thực với bản năng, ý chí, và sự thật trần trụi của cuộc sống.
Đây phải là người mặc dù chấp nhận bản chất cuộc sống là vô nghĩa, chấp nhận bản năng thú tính của mình, nhưng nhờ ý chí, vẫn tự tạo ra và sống theo giá trị riêng mà không cần theo xã hội hoặc Thiên Chúa. Dĩ nhiên, không phải ai cũng có thể làm được, vì vậy ông phân biệt kẻ mạnh (siêu nhân) và kẻ yếu (những người chưa vượt qua được sự thật trần trụi, vẫn mù quàng bám chấp vào xã hội, Thiên Chúa, và kẻ mạnh). Tuy nhiên, Nietzsche không cho rằng kẻ mạnh lập nên đạo đức, nhưng ông quả thực tin những con người mạnh mẽ, sáng tạo là nguồn gốc của hệ giá trị đầu tiên. Dù vậy, đáng buồn thay khi tư tưởng của ông bị diễn giải sai lầm bởi một họa sĩ, khi gã gây nên cuộc hỗn loạn toàn cầu chấn động lịch sử.
“Mọi giá trị đều đã được tạo ra... không có sự thật khách quan, mà chỉ có các diễn giải.” Friedrich Nietzsche

c. Jean-Paul Sartre (1905 - 1980) - Con người có tự do tuyệt đối, không có ràng buộc

Triết học cổ điển và thần học cho rằng mỗi người sinh ra đã có một bản chất (essence), như "con người là sinh vật có lý trí", hay "được tạo ra để thờ phượng Thiên Chúa". Sartre lật ngược điều này: ông nói con người tồn tại trước, rồi mới tự tạo ra bản chất của mình.
Jean-Paul Sartre là một triết gia, nhà văn và nhà hoạt động chính trị tại Pháp. Trái với tư tưởng cổ điển, ông bác bỏ tư duy về một bản chất tự nhiên vốn có của con người. Ông cho rằng: "Con người trước tiên hiện hữu, đối mặt với chính mình, xuất hiện trong thế giới – rồi sau đó mới định nghĩa mình." Gần giống với Nietzsche, ông quan niệm chính con người mới là chủ thể đặt ra ý nghĩa sống cho chính bản thân, tự định nghĩa và dẫn dắt bản thân, không cần tới Thiên Chúa, con người tự do tuyệt đối. Nhưng, cũng như Nietzsche, ông nhận thấy trách nhiêm bỗng chốc đè nặng lên mỗi cá nhân một cách ghê gớm: mỗi người phải tự chịu trách nhiệm cho bản thân vì ta tự tạo ý nghĩa sống cho mình, không được đổ thừa chính quyền, truyền thống, số phận hay Thiên Chúa.
Không những thế, trong tác phẩm Buồn nôn (La Nausée), Sartre mô tả một thế giới phi lý, trống rỗng, không ý nghĩa, khiến nhân vật chính cảm thấy ghê tởm sự tồn tại của tất cả mọi thứ. Đây cũng là cảm giác mà bất cứ ai khi nhận ra sự thật phũ phàng này phải thốt lên: "Vậy tôi tồn tại để làm gì?" Đây là sự tồn tại với tự do tuyệt đối, theo Satre. Tức tôi tự đặt ra ý nghĩa của chính tôi, tôi tự làm những gì tôi cho là đúng, vì không có chân lý tuyệt đối nên tôi được tuyệt đối tự do, không ràng buộc.
"Tha nhân là địa ngục." (L’enfer, c’est les autres)
Một câu nói cho thấy sự cô đơn và trống rỗng của chính cái tự do tuyệt đối này. Chỉ với một ánh nhìn của người khác hướng tới mình, khi đó mình đã không còn tự do tuyệt đối, vì ngay lúc đó mình đã bị đóng khung trong cái nhìn và quan điểm của người khác. Đây quả là một ý tưởng quái đản, nhưng nó lại là hệ quả khả thi của một thế giới không có chân lý tuyệt đối, chỉ có con người tự đặt ra ý nghĩa cho mình.
“Thiên Chúa không tồn tại, nên con người bị kết án phải tự do.” Jean-Paul Sartre
Một bản lên án sâu sắc: không ai cứu rỗi bạn, không có luật đạo đức khách quan, không có bản chất có sẵn để theo đuổi. Mọi thứ tùy vào chính bạn lựa chọn và tạo dựng, thông qua tự do tuyệt đối và trách nhiệm cá nhân.

d. Albert Camus (1913 - 1960) - Nổi loạn thôi

Có vẻ tới đây các bạn cũng bắt đầu ngầm hiểu chủ nghĩa hiện sinh, hay cụ thể hơn là hư vô luận, đang tìm cách giải quyết vấn đề gì rồi phải không: Thiên Chúa không tồn tại, vậy ta làm sao đây?
Albert Camus là một trong những nhà văn, triết gia hiện sinh quan trọng nhất của thế kỷ 20, nhưng khác với Sartre, ông từ chối dán nhãn mình là “hiện sinh”. Camus có một hướng tiếp cận rất đặc biệt: triết học của sự phi lý (absurde).
Ông khẳng định Thiên Chúa không tồn tại, tức cuộc sống hoàn toàn vô nghĩa, không có chân lý tuyệt đối. Nhưng con người lại vẫn luôn tìm kiếm ý nghĩa sống của chính mình, vẫn luôn muốn ở đó có một chân lý tuyệt đối, vẫn luôn cầu nguyện cho một ý nghĩa sống. Nhưng vũ trụ thì im lặng. Con người tìm kiếm ý nghĩa trong một vũ trụ câm lặng: đây là sự phi lý.
"Chỉ có một vấn đề triết học thực sự nghiêm túc: đó là tự sát." Albert Camus
Camus bắt đầu triết học không từ lý trí, cũng không từ bản thể luận, mà từ đau khổ sâu thẳm nhất của con người: cảm giác cuộc đời vô nghĩa, không có mục tiêu, không có Chúa, không có nền tảng đạo đức tuyệt đối. Nếu vậy, làm sao ngăn bản thân tự kết liễu đời mình, vì sống thì có ích gì? Sự thật là con người vẫn sống, và đa số không muốn phải chết. Nhưng nếu cuộc đời vốn dĩ vô nghĩa, thì tại sao con người lại bám chấp vào cái vô nghĩa tới vậy? Đây là sự phi lý.
Vậy, nếu vũ trụ hay cuộc sống không có ý nghĩa, thì ta phải làm sao đây? Đối với Camus, khi con người đòi hỏi thế giới phải có ý nghĩa nhưng thế giới không đáp lại, thì ta có ba lựa chọn:
- Tự sát: vì cuộc sống không có ý nghĩa.
- Nhảy vào tôn giáo: tạo ra ý nghĩa hư cấu để xoa dịu mình (ông gọi đó là “nhảy vọt” – le saut – như Kierkegaard).
- Nổi loạn và sống tiếp với sự phi lý: Camus.
Phải, Camus chính là đứa con nổi loạn bậc nhất của triết học, không phải nổi loạn để phá hoại, mà nổi loạn để vượt qua cái nghịch lý khủng khiếp đó. Ta phải sống, và sống không ảo tưởng hay dựa vào niềm tin giả tạo. Ta phải yêu cuộc sống, phải đam mê, phải yêu tự do cho dù sống trong sự phi lý. Làm việc thiện không vì phần thưởng vĩnh cửu, mà vì con người xứng đáng với điều đó.
Camus kể câu chuyện Sisyphe bị thần linh trừng phạt phải lăn tảng đá lên núi, đá lại rơi xuống, lặp lại mãi mãi. Với Camus, Sisyphe chấp nhận số phận và nổi loạn bằng cách không tuyệt vọng.
“Ta phải tưởng tượng Sisyphe hạnh phúc.”
Giống như con người, dù cuộc sống vô nghĩa, dù ta có tìm kiếm ý nghĩa mà không được đáp lại, thì ta phải nổi loạn bằng cách không tuyệt vọng, coi đó là hạnh phúc. Vì ý nghĩa không đến từ kết quả, mà từ ý chí sống, sự chấp nhận, và hành động có ý thức.
Cách tiếp cận của Camus thật sự khác biệt. Nếu Nietzsche muốn con người trở thành Siêu nhân đặt ra đạo đức, Satre muốn con người tự chịu trách nhiệm trong tự do tuyệt đối, thì Camus muốn con người nổi loạn chống lại cái vô nghĩa của cuộc sống đang đẩy con người tới tuyệt vọng.

3. Tóm lại

Chúng ta có thể thấy một sự chuyển dịch chóng mặt từ triết học cổ điển đến hiện sinh. Triết học cổ điển mang đến cái nhìn về một chân lý tuyệt đối làm kim chỉ nam cho con người. Chủ nghĩa hiện sinh, cụ thể là hư vô luận, tuy mang đến một thế giới u ám khi không có chân lý, nhưng lại đưa ra cách giải quyết đến từ chính bản thân mỗi người. Tuy nhiên, hư vô luận cũng có hệ quả khôn lường, như Camus, Schopenhauer và Dostoevsky đã cảnh báo trong những đoạn văn về hậu quả đạo đức từ vô thần của mình:
“Nếu hư vô luận là thật, thì chết là khôn ngoan nhất.”
Trong phần này mình chỉ liệt kê hai hệ tư tưởng lớn nhất trong triết học, chắc chắn là có sót nhiều vị triết gia đại tài khác, mong các bạn thông cảm và bổ sung dưới phần bình luận. Phần sau mình sẽ bước tới lĩnh vực tôn giáo Đông-Tây. Và phần cuối sẽ là phân tích của riêng mình. Cảm ơn các bạn đã theo dõi đến đây. Chúc con đường đi tìm chân lý của các bạn luôn được soi sáng.