Mở bài

Xuyên suốt bề dày lịch sử, không ít xung đột đã nổ ra giữa Israel và các quốc gia Ả Rập. Trong đó, tiêu biểu nhất là Chiến tranh Ả Rập - Israel lần thứ nhất (1948) sau khi người Do Thái tuyên bố thành lập nhà nước Israel, Chiến tranh Yom Kippur nổ ra vào đúng thời điểm người Do Thái đang tận hưởng kỳ nghỉ lễ đặc biệt. Người Ả Rập chưa bao giờ và sẽ không bao giờ từ bỏ mục tiêu giành lại vùng đất thánh Jerusalem nói riêng hay toàn bộ Israel nói chung. Tuy nhiên, mỗi cuộc chiến đi đến hồi kết là một lần người Do Thái tuyên bố giành chiến thắng trước những quốc gia Hồi Giáo.
Ngày 07 tháng 10 năm 2023, Hamas mở một cuộc tấn công bất ngờ vào lãnh thổ Israel, gây chấn động toàn cầu bởi quy mô và mức độ thương vong chưa từng có. Chiến dịch quân sự với tên gọi “Lũ lụt Al-Aqsa” đã khiến khoảng 1.300 người thiệt mạng và 215 con tin bị bắt cóc. Có thể coi đây là ngày đẫm máu nhất lịch sử Israel, gợi nhớ về chiến tranh Yom Kippur bi kịch hơn 50 năm trước. Đây là cuộc xung đột vũ trang khốc liệt nhất giữa Israel và Palestine trong nửa thập kỷ trở lại đây và có thể mở rộng ra toàn Trung Đông bất kỳ lúc nào. 
Ngày 19 tháng 01 năm 2025, Israel và Hamas đã đạt thỏa thuận đình chiến sau 15 tháng đấu tranh vũ trang. Theo đó, Hamas đồng ý thả các con tin Israel để đổi lấy các tù binh Palestine đang bị giam tại Israel. Thỏa thuận đình chiến mở ra triển vọng kết thúc cuộc chiến tại dải Gaza. Nhưng chỉ hai tháng sau, Israel phát động một cuộc tấn công vào Gaza khiến hơn 400 người thiệt mạng, trực tiếp chấm dứt thỏa thuận đình chiến. 
Đằng sau những cuộc giao tranh quyết liệt là một dòng chảy lịch sử phức tạp giữa Israel và Palestine. Để trả lời cho những câu hỏi về thực trạng hiện nay giữa Israel và Palestine, ta cần nhìn lại những dấu mốc lịch sử đã định hình mâu thuẫn giữa hai bên. 

Căn nguyên xung đột

Khu vực bao quanh Israel và Palestine ngày nay có một lịch sử phức tạp kéo dài hơn 5000 năm. Với vị trí nằm tại ngã ba giữa ba châu lục: châu Á, châu Âu và châu Phi, nơi đây đã từng là điểm trung tâm của nhiều nền văn minh, tôn giáo và đế chế khác nhau.
Từ năm 1200 - 586 TCN, khu vực này chủ yếu do hai vương quốc Israel cổ đại kiểm soát, với vương quốc Israel cai quản ở phía bắc và vương quốc Judah ở phía nam. Vào năm 586 TCN, Đế chế Babylon đã phá hủy Jerusalem và Đền Thờ Thứ Nhất, nơi không chỉ là thánh địa linh thiêng nhất của Do Thái Giáo mà còn là biểu tượng cho thời kỳ thịnh vượng nhất của người Do Thái dưới thời vua Solomon và David. Sau khi Đền Thờ bị phá hủy, người Do Thái bắt đầu sống trong cảnh lưu đày. Đến năm 539 TCN, người Do Thái hành hương và xây dựng Đền Thờ Thứ Hai tại Jerusalem sau khi Đế chế Ba Tư đánh bại Babylon.
Vào năm 332 TCN, Alexander Đại Đế chinh phục thành công Jerusalem và kể từ đó, vùng đất thánh bắt đầu có nhiều nét tương đồng về văn hóa và chính trị với Hy Lạp. Sau cuộc khởi nghĩa Maccabe chống lại sự cai trị của Hy Lạp và chủ nghĩa Hy Lạp hóa, người Do Thái đã giành lại quyền kiểm soát Jerusalem vào năm 141 TCN. Nhưng chẳng bao lâu sau, Jerusalem lại bị xâm chiếm bởi Pompey và ông đã sáp nhập Jerusalem vào lãnh thổ của Đế Chế La Mã. Sau cuộc khởi nghĩa Bar Kokhba thất bại (132 - 136 TCN), Jerusalem được đặt tên lại là Palestine. Người Do Thái không được phép vào thành phố này và một lần nữa chịu cảnh tha hương khắp nơi trong khi Jerusalem trở thành một địa điểm trung tâm cho Thiên Chúa Giáo trong thời kỳ Đế Chế Byzantine cai quản. Vào năm 638 Công nguyên, đội quân Hồi Giáo đánh chiếm Jerusalem và người Hồi Giáo đã xây hai công trình Hồi Giáo tồn tại đến tận ngày nay, Mái vòm Đá và Thánh đường Hồi giáo Al-Aqsa
Trong thời kỳ Thập tự chinh (Crusades), Jerusalem nhiều lần đổi chủ, bị quân Thập tự chiếm vào năm 1099 và bị Saladin chiếm lại vào năm 1187. Thành phố này tiếp tục nằm dưới sự kiểm soát của người Hồi giáo qua các thời kỳ và trở thành một phần của Đế chế Ottoman vào năm 1517.
Vào năm 1917, quân đội Anh đánh chiếm Palestine từ đế chế Ottoman trong Chiến tranh thế giới thứ nhất và chịu trách nhiệm thành lập một quê hương quốc gia cho người Do Thái tại Palestine theo Tuyên bố Balfour. Đây là một thông điệp của Ngoại trưởng Anh Arthur Balfour gửi đến Baron Rothschild, một lãnh đạo cộng đồng Do Thái tại Anh về quyết định thành lập nơi ăn chốn ở cho người Do Thái tại Palestine. Và đây là điểm khởi đầu cho xung đột giữa người Do Thái và người Ả Rập đang sinh sống ở Palestine. 
Ở châu Âu, kể từ khi Chiến tranh thế giới thứ hai bùng nổ, phong trào bài Do Thái diễn ra mạnh mẽ, khiến khoảng 90.000 người Do Thái di cư tới Palestine. Theo góc nhìn của người Do Thái, đây là chuyến hồi hương sau hàng ngàn năm lưu lạc, quay về miền đất hứa. Đến năm 1940, dân số giữa hai cộng đồng Do Thái và Ả Rập gần như bằng nhau, làm cho mâu thuẫn giữa họ trở nên vô cùng gay gắt. 
Cùng lúc đó, làn sóng phản đối sự ủy trị của Anh ngày càng trở nên mạnh mẽ hơn trong cộng đồng người Ả Rập tại Palestine. Năm 1923, quyền cai trị của Anh đối với Palestine chấm dứt trên lý thuyết nhưng thực tế, mâu thuẫn giữa người Do Thái và người Ả Rập leo thang đến mức nằm ngoài khả năng kiểm soát. Khi Đệ Nhị Thế Chiến nổ ra, các nỗ lực sắp xếp lại trật tự cho vùng đất này buộc phải dừng lại. Phải tới tận năm 1947, khi Chiến tranh Thế giới thứ hai đi đến hồi kết, dựa theo Nghị quyết 181, Liên Hợp Quốc đã chia tách xứ Palestine thành hai nhà nước, một nhà nước Ả Rập Palestine (chiếm 45% diện tích) và một nhà nước Do Thái (chiếm 55%) và Jerusalem được quyết định là một vùng lãnh thổ quốc tế riêng biệt. 
Với kết quả nêu trên, tất nhiên người Do Thái vô cùng hài lòng trong khi người Ả Rập thì rất phẫn nộ. Họ cho rằng không có lý lẽ gì người Do Thái được phép thành lập một nhà nước riêng ngay tại miền đất đã thuộc về tổ tiên của họ từ hàng trăm, hàng ngàn năm về trước. Từ đây, xung đột vũ trang giữa người Ả Rập và người Do Thái chính thức diễn ra, với hàng loạt cuộc chiến tranh nhằm phản đối thành lập nhà nước Israel nhưng đều thất bại trước đội quân Do Thái. Năm 1948, Israel tuyên bố độc lập và thành lập Nhà nước Israel. Ngay sau đó, cuộc chiến Ả Rập - Israel lần thứ nhất nổ ra. Các lực lượng Ả Rập xung quanh Palestine, đầu tiên là Ai Cập lập tức tham chiến. Quân đội Israel dù còn thiếu kinh nghiệm trận mạc nhưng đã chiến đấu rất hiệu quả. 
Không còn đường cùng, Ai Cập buộc phải ngồi vào bàn đàm phán với Israel và hai bên đã đạt được một thỏa thuận đình chiến vào tháng 2. Cùng vào thời điểm này, hơn 750.000 người Palestine đã bị các lực lượng dân quân theo chủ nghĩa phục quốc Do Thái cưỡng bức di dời khỏi nhà cửa của họ. 
Chiến tranh Sáu ngày diễn ra trong bối cảnh Chiến tranh Lạnh đã đẩy xung đột lên đỉnh điểm. Chiến tranh nổ ra giữa Israel và liên minh các quốc gia Ả Rập, bao gồm Ai Cập, Syria, và Jordan, cùng sự hậu thuẫn của Liên Xô, Iraq, và Ả Rập Xê Út. Đứng trước nguy cơ bị tấn công tổng lực, Israel đã chủ động phát động một cuộc tấn công với quy mô toàn diện, phá hủy đại đa số không quân của Ai Cập, Jordan và Syria ngay ngày đầu tiên. Đòn đánh của Israel khiến các lực lượng phe liên minh bất ngờ. Chỉ trong vòng 6 ngày giao tranh, Israel đã mở rộng lãnh thổ rất nhanh: họ chiếm Dải Gaza và bán đảo Sina từ Ai Cập, cao nguyên Golan từ Syria và giành quyền cai quản Bờ Tây và Đông Jerusalem từ Jordan. Kể từ thời điểm này, sau hàng nghìn năm rời xa quê hương, tất cả thánh địa thiêng liêng của người Do Thái đã trở về với quyền kiểm soát của chính họ. 

Hiệp định Oslo

Tuy nhiên, những thất bại không khiến người Ả Rập nản lòng mà họ thậm chí quyết tâm hơn, thể hiện rõ nét qua một tổ chức có tên là Tổ chức Giải Phóng Palestine (PLO). PLO được quốc tế công nhận là đại diện chính thức của người Palestine ở các vùng lãnh thổ Palestine bị chiếm đóng và trong cộng đồng người tị nạn Palestine. Ban đầu, PLO kiên định với con đường đấu tranh vũ trang, khiến căng thẳng và bạo lực tồn tại trong nhiều năm. Một trong những sự kiện nổi bật là cuộc khởi nghĩa Intifada lần thứ nhất (từ năm 1987 đến năm 1993) xảy ra sau một vụ tai nạn giao thông làm 4 người thiệt mạng do xe Israel gây ra. Con số thương vong tăng lên rất nhanh trong khi sức mạnh quân sự của Israel vượt xa khả năng của các đội quân Ả Rập. Tương quan lực lượng quá chênh lệch đã buộc PLO, với Fatah là điểm cốt lõi, phải tìm kiếm một cách tiếp cận ôn hòa hơn, hướng tới giải pháp hai nhà nước đồng thời mang lại những lợi ích thiết thực nhất cho người Palestine.
Năm 1993, Thủ tướng Israel Yitzhak Rabin và Tổng thống Palestine Yasser Arafat đã ký hiệp định Oslo, cho phép hai nhà nước chung sống trong hòa bình trong khoảng thời gian 5 năm. Theo Hiệp định Oslo, Israel sẽ trao lại cho chính quyền Palestine một số khu vực ở Gaza và Bờ Tây để đổi lấy cam kết chấm dứt các hành động bạo lực của các nhóm vũ trang Palestine, trong đó có Hamas. Hai bên đã đạt được tiếng nói chung và đây là lần đầu tiên trong lịch sử, Israel và Palestine ghi nhận nền độc lập của mỗi bên. 

Điểm nghẽn cho giải pháp hòa bình mang tên Hamas

Ngỡ như chuỗi domino xung đột giữa Israel - Palestine sẽ chấm dứt, nhưng Chính quyền Palestine và Fatah không thể đạt tiếng nói chung về đường lối chính trị với các tổ chức giải phóng Palestine, đặc biệt là Hamas - tổ chức theo đường lối cực đoan và kiên định với mục tiêu giành lại toàn bộ vùng lãnh thổ của Israel. 
Theo Hiệp định Oslo, Israel tiếp tục nắm quyền kiểm soát nền kinh tế Palestine, các vấn đề an ninh - quốc phòng và dân sự tại hơn 60% khu vực Bờ Tây. Điểm đáng nói này là cơ sở chính khiến Hamas và các tổ chức giải phóng Palestine khác không đồng tình với Chính quyền. Vì thế, các cuộc xung đột vũ trang vẫn diễn ra, trực tiếp khiến Hiệp định Oslo đổ bể. Trước các cuộc xung đột đẫm máu diễn ra không hồi kết, Thủ tướng Israel Ariel Sharon lần đầu đề cập đến kế hoạch dỡ bỏ các khu định cư của người Do Thái tại Israel. Hai năm sau, trước áp lực từ người dân và cộng đồng quốc tế, Israel chính thức từ bỏ quyền cai quản Gaza, rút toàn bộ khoảng 9.000 người định cư và lực lượng quân sự khỏi vùng đất này. 
Về tổng quát, Hamas là kẻ thù lớn nhất đối với Israel sau khi tổ chức này bất ngờ tấn công Israel ngày 07 tháng 10 năm 2023, nhưng với một góc nhìn cụ thể hơn, Hamas đóng vai trò như thế nào trong xung đột giữa Palestine và Israel ? 
Hamas ra đời năm 1987 vào kỳ Intifada đầu tiên, là một nhánh của hội Anh em Hồi giáo (Muslim Brotherhood) và nắm quyền quản lý dải Gaza kể từ năm 2007 sau khi lật đổ Chính quyền Palestine trong cuộc nội chiến Fatah - Hamas. Trước đó một năm, Hamas giành được đa số phiếu trong kỳ bầu cử của Quốc Hội, trở thành đảng cầm quyền của Palestine và từ đó không có thêm cuộc bầu cử nào khác. 
Khác với Fatah - tổ chức theo phương hướng ôn hòa, đã công nhận Israel với tư cách một nhà nước độc lập và đồng ý giải pháp hai nhà nước trong Hiệp định Oslo, Hamas lại nhấn mạnh vào sử dụng vũ lực và vì chịu ảnh hưởng mạnh từ tư tưởng Hồi giáo chính trị, Hamas coi vùng đất người Israel đang sở hữu là không thể nhượng bộ. Hamas bị nhiều quốc gia phương Tây cô lập và liệt vào danh sách khủng bố. Với Fatah, bạo lực chỉ đem lại đau khổ và con đường hòa bình là giải pháp tối ưu, điều hoàn toàn trái ngược có thể nói về Hamas, khi họ một mực tin rằng công lý chỉ được thực thi qua một con đường duy nhất - con đường bạo lực và đấu tranh vũ trang. 
Dẫu biết rằng mang tư tưởng cực đoan và cứng rắn, song mục tiêu duy nhất của Hamas chỉ đơn giản là đem lại hòa bình cho người Palestine. Tuy nhiên, những gì diễn ra kể từ khi chiến sự dải Gaza bùng nổ năm 2023 gần đây hay xa hơn là trăm năm về trước lại cho thấy một sự thật rằng: những nhà lãnh đạo Palestine và Israel cũng như các bên trung gian đang lạc lối trong một vòng mê cung tìm kiếm lời giải cho bài toán về hòa bình dành cho người Israel và Palestine. 

Liệu xung đột Israel - Palestine sẽ là một bài toán không lời giải trong quan hệ quốc tế ?

Ngày 29 tháng 4 năm 2025, trong phiên họp Hội đồng Bảo an Liên Hợp Quốc về tình hình chiến sự tại Dải Gaza, Tổng Thư ký Antonio Guterres cảnh báo giải pháp hai nhà nước đang có nguy cơ sụp đổ sau khi thỏa thuận đình chiến giữa Israel - Hamas vào đầu năm đổ vỡ. Theo đó, Tổng Thư ký cảnh báo về các điều kiện nhân đạo tàn khốc mà người dân Gaza phải chịu đựng trong bối cảnh lệnh phong tỏa của Israel tiếp tục chặn viện trợ thiết yếu, thuốc men và nhu yếu phẩm cơ bản vào vùng lãnh thổ Palestine này. 
Đại sứ Palestine tại Liên Hợp quốc Riyad Mansour cho rằng Thủ tướng Israel Benjamin Netanyahu đã không thực tế khi nói rằng giải pháp hai nhà nước cũng có nghĩa là hủy diệt Israel. Ông Mansour kêu gọi Israel và Hamas nối lại thỏa thuận đình chiến để người dân Gaza không còn phải sống trong cảnh uất ước, đau thương. Ông cũng nêu lên một điểm đáng lưu ý rằng Tổng thống Mỹ Donald Trump có lẽ có một cách tiếp cận khoan dung hơn đối với Israel.
Theo góc nhìn của các nhà nghiên cứu, những vấn đề trong lòng nội bộ chính quyền Israel và Palestine là một nguyên nhân khiến xung đột hai bên mãi không có câu trả lời. Hầu hết lãnh đạo hai bên đều có quan điểm cứng rắn, khó đạt tiếng nói chung, đặc biệt là với các vấn đề nhạy cảm như: vùng đất thánh Jerusalem, dân tị nạn Palestine…
Đáng nói, quyền lực chính trị của Thủ tướng Benjamin Netanyahu sẽ bị ảnh hưởng nặng nề nếu công nhận Palestine là một nhà nước độc lập. Sự kiện Cố Thủ tướng Israel Yitzhak Rabin bị sát hại sau khi ký kết Hiệp định Oslo bởi một phần tử cực đoan người Do Thái là một lời cảnh tình đối với ông Netanyahu. 
Về Palestine, sự chia rẽ trong quan điểm chính trị giữa Fatah và PLO là điểm nghẽn lớn nhất. Vì vậy, khả năng thống nhất về quan điểm giữa hai tổ chức nêu trên vô cùng thấp, ảnh hưởng nghiêm trọng tới quá trình đàm phán. Với Israel, họ chỉ công nhận Tổ chức Giải phóng Palestine (PLO) là đại diện chính thức duy nhất của người Palestine trong các cuộc đàm phán. 
Toan tính, kế hoạch riêng của các quốc gia có liên quan cũng khiến quá trình tìm kiếm một giải pháp hòa bình liên tục bị gián đoạn. Một lần nữa, vùng đất thánh Jerusalem là ví dụ tiêu biểu nhất cho luận điểm nêu trên khi thủ đô của Israel mang ý nghĩa linh thiêng đối với cả Do thái giáo và Hồi Giáo. Trong khi Nga và Trung Quốc đồng ý với phương án chia Jerusalem theo ranh giới trước năm 1967 với Đông Jerusalem là thủ đô của nhà nước Palestine, Hoa Kỳ lại đồng tình với quan điểm của Israel rằng Jerusalem không thể bị chia cắt. Những mâu thuẫn liên quan trực tiếp tới Jerusalem thậm chí leo thang sau khi Tổng thống Donald Trump đơn phương quyết định chuyển Đại Sứ quán Mỹ tại Israel từ Tel-Aviv về Jerusalem trong nhiệm kỳ đầu tiên tại Nhà Trắng. 
Xung đột Israel - Palestine là một trong những cuộc xung đột dai dẳng và phức tạp nhất, không chỉ trong quá khứ và hiện tại mà còn tiềm ẩn trong tương lai. Dù đã có nhiều nỗ lực ngoại giao và các tiến trình hòa bình, nhưng đến nay, giải pháp tối ưu vẫn còn nằm ngoài tầm tay của các nhà chính trị và cộng đồng quốc tế. Chừng nào các bên liên quan chưa thể nhượng bộ, người dân vô tội sẽ tiếp tục phải chịu đựng. Xung đột Israel - Palestine không những là một đòn giáng mạnh vào nền kinh tế và tình hình nội bộ của Israel, mà còn gây ra một khủng hoảng nhân đạo chưa từng có tại Dải Gaza. Một nền hòa bình chỉ có thể đạt được khi chúng ta đặt sự bình yên và hạnh phúc của người dân lên trên các lợi ích về quyền lực và chính trị./.