Đã từ lâu nước Đức luôn là một quốc gia vô cùng hiện đại . Họ là một quốc gia dẫn đầu châu Âu về kinh tế , công nghiệp nặng , là trụ cột quan trọng trong nền kinh tế của liên minh châu âu . Nhưng hãy quay ngược lại khoảng hàng trăm năm về trước nhìn lại lịch sử của người Đức để hiểu tại sao họ có thể phát triển đến vậy
cụ thể vào thế kỷ 17 đã xảy ra một cuộc chiến ảnh hưởng đến toàn bộ châu âu vào thời điểm đó . Đó chính là cuộc chiến tranh 30 năm kéo dài từ năm 1618 đến năm 1648 chi tiết về cuộc chiến này tôi sẽ nói về sau trong một bài viết khác hoặc các bạn có thể tham khảo trên wikipedia
và giờ chúng ta chúng ta hãy nói về hậu quả của cuộc chiến này .
Trong khi cuộc chiến còn đang diễn ra thỉ trên các lãnh thổ của nước Đức vô số dịch bệnh xảy ra cũng như chiến tranh khi đó đã phá huỷ vố số tài nguyên của người Đức . Hoà ước Westphalia chấm dứt cuộc chiến này được coi là đã gây tai hại cho tương lai của nước Đức .
Các hoàng thân người Đức được công nhận để trị vì từng lãnh thổ nhỏ có khoảng 350 lãnh thổ như thế . Trong khi đó hoàng đế chỉ còn là hư vị , những trào lưu cải cách nước Đức vào thời kỳ đó hoàn toàn bị dẹp bỏ . Vào thời điểm trước cuộc chiến nước Đức được coi là cái nôi của nền văn minh châu âu , chế độ phong kiến thoái trào , các thành phố lớn được hưởng quyền tự do , nghệ thuật và mậu dịch phát triển , nông dân đức được hưởng nhiều quyền tự do so vời ở Anh và Pháp .
Giờ đây sau khi hoà ước Westphalia được ký kết , nước Đức quay trở lại tình trạng hoang dại y như là thời phong kiến , thậm chí còn hơn . chế độ nông nô không chỉ được tái lập mà còn phát triển rộng ra các vùng khác trước kia không có nông nô . Các thị trấn thì mất quyền tự chủ . Vua chúa bóc lột nông dân và công nhân , giới trung lưu bị đẩy xuống hàng tôi tớ . Nền giáo dục và nghệ thuật chấm dứt . các nhà cai trị tham lam chẳng màng gì đến tinh thần quốc gia Đức , sẵn sàng dập tắt mọi biểu tượng của tinh thần này trong dân chúng . Nền văn minh bị đình trệ ở Đức . Như các sử gia nhận xét : nước Đức và thời điểm đó ổn định một cách giả tạo và rối loạn y như thời trung cổ .
Nước Đức không bao giờ khôi phục được sau sự xuống dốc đó . Đầu óc người dân Đức dàn dà nhiễm tư tưởng dễ chấp nhận sự chuyên chế , phục tùng một cách mù quáng đối với những bậc quân vương ti tiện . Ý tưởng dân chủ hay chế độ nghị viện nở rộ ở Anh Pháp nhưng nó lại tắt ngấm ở Đức .

Đó chính là nguyên nhân mà dân tộc Đức sau này đi theo trạng thái tinh thần đã bị bóp méo .

Tuy nhiên ở phía bên kia sông Elbe , là vương quốc Phổ có phần dân chủ , thống nhất . Qua nhiều thế kỷ vương quốc này đã nằm ngoài dòng phát triển về lịch sử và văn hoá Đức. Phổ ban đầu chỉ bắt nguồn từ phiên vương quốc Brandenburg trên vùng đất cằn cỗi phía đông sông Elbe , vào thế kỷ thứ 11 vương quốc này bị các bộ tộc người Slav chủ yếu đến từ Ba Lan thôn tính . Nhưng sau đó dưới sự trị vì của dòng họ Hohenzollern họ đã đẩy lùi người Slav lui về dọc bờ biển Baltic . Những người kháng cự hoặc bị tiêu diệt hoặc là trở thành nông nô .

Vào năm 1226 Công tướcKonrad I của Masovia mời các Hiệp sĩ Teuton, một dòng tu chiến binh Đức, đại bản doanh đặt tại thành phố Acre ở Vương quốc Jerusalem, chinh phạt các bộ lạc Phổ trên vùng biên giới lãnh thổ của ông. Sau sáu mươi năm chiến tranh với người Phổ, họ đã dựng nên một quốc gia độc lập mà về sau nắm luôn quyền điều khiển Phổ. Sau khi dòng Hiệp sĩ Thanh gươm của Livonia gia nhập dòng Hiệp sĩ Teuton năm 1237, họ kiểm soát luôn vùng Livonia, bây giờ là Estonia, Latvia và tây Litva.

Các Hiệp sĩ này chỉ chịu ở dưới quyền Giáo hoàng Rôma và Hoàng đế Đức. Ban đầu, họ liên hệ mật thiết với Hoàng gia Ba Lan, nhưng về sau, mối quan hệ này bị đổ vỡ khi họ đánh chiếm các vùng đất mà Ba Lan tuyên bố sở hữu là Pomerelia và Danzig (Gdańsk), một thành phố với cư dân chủ yếu là người Đức. Dòng tu Hiệp sĩ Teuton cuối cùng bị đánh bại trong trận chiến Grunwald năm 1410 bởi Liên minh Ba Lan và Litva, thành lập thông qua Hiệp ước liên minh Krewo.

Trong cuộc "chiến tranh Mười ba năm" (1454-1466), Liên minh Phổ, bao gồm các thành phố đồng minh Hasen ở tây Phổ nổi dậy chống lại dòng Hiệp sĩ Teuton và cầu viện vua Ba Lan. Các Hiệp sĩ Teuton buộc phải chấp nhận thần phục vua Kazimierz IV Jagiellonczyk theo Hòa ước Thorn, đồng thời mất đi vùng tây Phổ cho Ba Lan.

chú thích : tôi lấy cái này trên wikipedia vì viết nó khá là dài mong mọi người thông cảm .

Sau khi cuộc chiến tranh này kết túc thì nhà hohenzolern đã phát triển vùng đất của mình vô cùng tốt .

Năm 1525, Đại Trưởng lão Albert Brandenburg-Ansbach, thuộc một chi nhánh của nhà Hohenzollern, cải theo đạo Tin lành dòng Lutheran và nhập các lãnh địa còn lại của dòng tu vào Công quốc Phổ. Đây là khu vực nằm phía đông cửa sông Vistula, về sau được gọi là lãnh thổ Phổ "gốc". Lần đầu tiên, các lãnh địa này rơi vào tay một chi nhánh của nhà Hohenzollern, chủ nhân lãnh địa Brandenburg về phía tây với trung tâm là Berlin và đã nằm dưới sự cai trị của nhà Hohenzollern từ thế kỷ 15. Hơn thế nữa, khi từ bỏ dòng tu, Albert có thể lập gia đình và có con. Phổ và Brandenburg được thống nhất hai thế hệ sau đó. Anna, cháu nội của Albert và là con gái của Công tước Albrecht Friedrich (tại vị 1568-1618), thành hôn với người anh họ là Tuyển hầu Johann Sigismund của xứ Brandenburg. sau khi Albrecht Friedrich qua đời năm 1618 thì Johann được trao quyền thừa kế Phổ khi đó vẫn là đất phong thuộc Ba Lan kể từ đó công quốc Phổ được sát nhận vào lãnh địa branderburg -Phổ bao gồm nhiều mảnh lãnh địa nằm rải rác trong Phổ, Brandenburg, cũng như các lãnh địa Cleves và Mark trong vùng Rhineland cùng năm đó vùng đất của người Đức bước vào cuộc chiến tranh 30 năm

Trong suốt cuộc Chiến tranh ba mươi năm, những lãnh địa rời rạc của nhà Hohenzollern bị nhiều đoàn quân viễn chinh khác nhau giày xéo, đặc biệt là quân của Thụy Điển. Bá tước George William (1619-1640) không có năng lực quân sự, phải chạy trốn khỏi Berlin sang Königsberg, kinh đô truyền thống của Đại công quốc Phổ vào năm 1637. Người kế vị ông ta, Friedrich Wilhelm I (1640-1688), tiến hành cải cách quân đội để bảo vệ lãnh thổ. Năm 1641, Friedrich Wilhelm I sang Warszawa triều kiến vua Ba Lan là Władysław IV Vasa để tỏ lòng trung thành của mình, do lãnh địa Phổ của ông vẫn được coi là đất phong của triều đình Ba Lan cho ông. Tuy nhiên về sau, lợi dụng tình trạng đối đầu gay go giữa Ba Lan và Thụy Điển trong các cuộc Chiến tranh Bắc Âu, cũng như mối quan hệ thân thiện của ông với nước Nga trong một loạt các cuộc chiến tranh Nga-Ba Lan, Friedrich Wilhelm đã có thể xoay xở để thoát khỏi nghĩa vụ chư hầu với vua Ba Lan. Ông giành được quyền tự chủ cho Phổ trong Hòa ước Wehlau vào năm 1657. Ông xây dựng một lực lượng Quân đội thường trực, với 30.000 quân tinh nhuệ. Mở đường cho một bản hùng ca vĩ đại của truyền thống quân phiệt của người Phổ