Vi trùng phản công
Kháng sinh đã mở ra cho chúng ta một con đường mới trong cuộc chiến chống vi khuẩn. Nhưng ngày nay, con đường này đang dần biến mất... Vi khuẩn đã phản công!

Trong gần một thế kỷ, các loại kháng sinh đã trao cho chúng ta sức mạnh để chữa những căn bệnh mà trước đây chỉ nghe đến đã làm mặt người ta tái mét. Nhưng giờ đây, quy luật tự nhiên và sự tự mãn có khả năng sẽ chấm dứt thời kỳ vàng son này, khi chúng ta dần trở nên chật vật trong cuộc đua để ngăn vi khuẩn một lần nữa trở thành kẻ sát nhân vĩ đại nhất...
I. Vi khuẩn

Ảnh chụp từ kính hiển vi điện tử của vi khuẩn E.coli. Ảnh: Wikipedia

Cấu tạo vi khuẩn
Chúng đã xuất hiện kể từ thuở hồng hoang của sự sống. Chúng nhỏ bé, kích thước chỉ bằng một phần một trăm chiều dày của một sợi tóc người. Chúng ở quanh ta. Trong không khí, trong nước uống, trong đồ ăn, trên cả màn hình của chiếc máy tính hay điện thoại bạn đang dùng để đọc bài viết này. Trong người bạn, số lượng vi khuẩn nhiều gấp rưỡi số tế bào cấu thành nên cơ thể bạn (Sender et al., 2016). Sinh khối của toàn bộ vi khuẩn nhiều gấp hơn một nghìn lần của con người. Vi khuẩn có từ đáy biển sâu nhất cho tới đỉnh núi cao nhất, từ những sa mạc cát bỏng cháy cằn cỗi nhất cho đến những đài nguyên lạnh lẽo nhất.
Vi khuẩn là lũ cứng đầu nhất trong số tất cả những sinh vật cứng đầu. Chúng coi các giếng phun địa nhiệt là nhà, coi bức xạ mạnh gấp hàng trăm lần ngưỡng chịu đựng của con người là trò con nít, coi cồn là bể bơi hơi nồng mùi clo của chúng. Những chỉ có chưa đến 1% tổng số vi khuẩn là có hại, là bọn đồ tể giết người như ngóe. Nhưng hầu như toàn bộ lịch sử y khoa của nhân loại lại có thể tóm gọn vào cuộc chiến với 1% này...
II. Thời kỳ tiền kháng sinh
Trước khi bắt đầu thế kỷ 20, hầu hết các ca tử vong trên thế giời đều là do các bệnh truyền nhiễm gây ra. Tuổi thọ trung bình chỉ có 47 năm (lần lượt là 46 nam và 48 với nữ), kể cả sau khi Cách mạng Công nghiệp nở rộ và thế giới bước vào thời kỳ công nghiệp hóa. Các bệnh truyền nhiễm như dịch hạch, đậu mùa, tả, viêm phổi, thương hàn, lao, giang mai, v.v. đã lần lượt gây ra những làn sóng dịch bệnh kinh hoàng giết chết hàng trăm triệu người trong suốt lịch sử.

Dịch hạch. Ảnh: Bettmann Archive/Getty Images

Vào đầu những năm 1900, nếu ai đó mắc bệnh lao, họ sẽ thấy mình trở thành bệnh nhân trong một viện điều dưỡng nhưu thế này ở Mỹ.

Một bé bị đậu mùa ở Bangladesh năm 1973. Ảnh: Wikipedia

Một bệnh nhân mắc giang mai. Ảnh: BBC/Thư viện Y khoa Quốc gia/Thư viện Ảnh Khoa học
Thậm chí chả cần đến những cái tên vang bóng một thời kia, bất cứ con vi khuẩn ngớ ngẩn nào hầu như cũng giết được bạn. Một vết xước nhỏ, và coi như là số phận bạn đã được định đoạt. Sau khi chọc thủng hàng phòng thủ đầu tiên của con người - lớp da - vi khuẩn bắt đầu chè chén và sinh sôi nhanh một cách khủng khiếp.
Dĩ nhiên, hệ miễn dịch sẽ lập tức phản ứng và bắt đầu tiêu diệt vi khuẩn. Nhưng bè lũ vi khuẩn cũng rất giỏi trong viếc chống lại sự săn lùng ráo riết này, ví dụ như loài trực khuẩn K.pneumoniae hoặc song cầu khuẩn N. meningitidis tự tạo cho mình những cái kén bằng polysaccharide (đường đa), hay như tụ cầu vàng S.aureus tiết ra các protein làm rối loạn và ngăn không cho hệ miễn dịch tấn công. M.tuberculosis, vi khuẩn gây bệnh lao cũng là một bậc thầy ẩn nấp lão luyện, với khả năng ẩn nấp bên trong các đại thực bào trong phổi hàng thập kỷ chờ đợi cơ hội.
Bất lực, hệ miễn dịch đành khuất phục và để vi khuẩn từ từ ăn mòn cơ thể bệnh nhân. Cuối cùng là một kết cục không thể tránh khỏi. Y học thời bấy giờ đã cố gắng chữa nhiễm trùng bằng đủ thứ, từ thảo dược, trích máu, đỉa, thủy ngân, bánh mì mốc,... nhưng đều không có mấy hiệu quả.
III. Bước nhảy vọt
Đến những năm 1850-1920, y học đã biết đến và đồng ý rằng hầu hết các bệnh là do vi khuẩn gây ra, nhưng phương pháp chữa trị vẫn chưa có. Tiêu diệt vi khuẩn trong ống nghiệm thì dễ, nhưng tiêu diệt vi khuẩn mà không gây hại đến con người mới là khó.

Nhà khoa học Alexnader Fleming đang ngồi trong phòng thí nghiệm của ông ở Bệnh viên St. Mary, năm 1943. Ảnh: Bảo tàng Chiến tranh Đế quốc (IWM)
Và sự đột phá đã xảy ra khi vào năm 1928, penicillin được tìm ra bởi một nhà sinh học người Scotland, Alexander Fleming. Fleming là một nhà nghiên cứu đam mê và nhiệt huyết - ông thường không quẳng những mẻ cấy vi khuẩn cũ đi như các đồng nghiệp mà giữ lại cho đến khi chắc chắn mình không con thu được gì từ đó nữa.
Trước khi chuẩn bị cho kỳ nghỉ hè dài hai tuần của mình, Fleming đã quên không dọn dẹp phòng thí nghiệm. Khi trở về, ông nhận thấy một số đĩa nuôi cấy đã bị mốc - trên những chiếc đĩa petri đó, vi khuẩn đã bị tiêu diệt. Mốc đó là loài nấm Penicillium notatum vốn phát triển trên bánh mì và trong những tòa nhà ẩm mốc, trong quá trình giành ăn với vi khuẩn đã tiết ra chất Penicllin để tiêu diệt các địch thủ. Penicillin hoạt động bằng cách ngăn ngừa sự tổng hợp một thành tế bào ổn định ở vi khuẩn, làm chúng dễ bị tổn thương trước áp suất thẩm thấu và cuối cùng vỡ tung ra sau khi bị "ngấm" quá nhiều nước - theo cái cách mà một quá bóng bay bị bơm quá tay phát nổ. Dù phương pháp này không giết được mọi loài vi khuẩn gây hại, nhưng cũng là một phần tương đối lớn trong số đó.

Cách Penicillin hoạt động. Ảnh: SaveMyExams

Nấm Penicillium chrysogenum, hay còn gọi là P.notatum. Ảnh: Wikipedia
Mười năm sau, vào năm 1938, hai nhà khoa học, Howard Florey và Ernst Chain, tình cờ tìm lại được bài nghiên cứu của Fleming, vốn đã bị lãng quên. Xung đột tính cách và những khó khăn kỹ thuật đông nghĩa với việc sau ba năm, nhóm mới thành công chiết đủ lượng penicllin để thử nghiệm trên dộng vật. Trong số tám con chuột bị cho nhiễm liên cầu khuẩn, chỉ có bốn con được cho dùng penicllin là sống sót.
Dù nghiên cứu của nhóm nhanh chóng thu hút được sự quan tâm, năng lực sản xuất vẫn bị giới hạn nghiêm trọng. Từ hàng chục cân P.notatum, chỉ chiết xuất được có vài gram penicillin tinh khiết. Nhóm thậm chí còn phải thu thập nước tiểu bệnh nhân để lọc ra lại penicllin. Ngành công nghiệp dược phẩm bị quá tải của nước Anh lúc đó cũng không thể đáp ứng nổi để mở một dây chuyền mới nhằm sản xuất hàng loạt penicllin.

Một trong những cơ sở sản xuất Penicllin của tập đoàn dược phẩm Pfizer ở đường Marcy, Brooklyn. Ảnh: EurekAlert/Pfizer
Đến tháng Sáu năm 1941, Florey quyết định mang penicillin đến Mỹ để tìm kiếm cơ hội mới. Chính ở Mỹ, bước ngoặt thực sự mới xảy ra. Một chủng nấm Pencillium notatum mới với khả năng sản xuất penicillin nhiều gấp sáu lần so với chủng P.notatum nguyên gốc của Fleming, đã được tách ra từ một quả dưa lưới thối rữa được tìm thấy ở chợ. Việc sử dụng CSL (Corn-Steep Liquor - một sản phẩm phụ dạng lỏng giàu dinh dưỡng từ quá trình ngâm hạt ngô trong nước để lấy tinh bột) cùng với các kỹ thuật nuôi cấy mới càng làm tăng năng suất của quá trình.
III.I. Mục phụ: Kỷ nguyên vàng của kháng sinh
Penicllin nhanh chóng cứu sống hàng triệu sinh mạng khác và được coi như là một phép màu. Cuối năm 1945 đánh dấu sự bắt đầu của kỷ nguyên vàng của kháng sinh.
Kỷ nguyên vàng của kháng sinh diễn ra từ những năm 40 đến giữa những năm 60 của thế kỷ trước. Các nghiên cứu chuyên sâu về các hợp chất tự nhiên và tổng hợp đã dẫn đến tốc độ phát triển nhiều loại kháng sinh mới nhanh như chớp. Hàng tá các loại kháng sinh mới ra đời - có thể kể đến Tetracycline, Cefalexin, Vancomycin hay Colistin, v.v.
Đến những năm 70, tốc độ tìm các loại kháng sinh mới chậm lại đáng kể - từ đó đến nay, tức hơn nửa thế kỷ, chỉ mới có tám loại kháng sinh mới được tìm thấy thêm. Một trong những lý do cho sự chóng tàn của thời kỳ vàng son này là sự chuyển đổi trọng tâm sản xuất của các hãng dược phẩm lớn. Các hãng chuyển hướng sang tập trung vào các phương pháp điều trị bệnh mãn tính có lợi nhuận cao hơn, mang lại doanh thu ổn định, lâu dài so với thuốc kháng sinh, loại thuốc thường chỉ được sử dụng trong thời gian ngắn và bán với giá thấp. Không chỉ vậy, có vẻ tự nhiên càng ngày càng đem lại cho chúng ta ít ý tưởng - các nỗ lực tìm kiếm kháng sinh mới thường trả lại những hợp chất đã được biết đến từ lâu.
IV. Vi trùng phản công
Dù đã cứu sống hàng tỉ người trên khắp thế giới, cuối cùng thì kháng sinh cũng không phải là một vũ khí hoàn hảo. Kháng sinh là những sát thủ tí hon - mỗi loại thuốc sở hữu một cách thức tiêu diệt vi khuẩn riêng biệt: Ngăn chặn quá trình sinh sản (của vi khuẩn), ngăn vi khuẩn sản xuất protein hay tấn công thành tế bào của chúng, v.v. Sau khi hoàn thành nghĩa vụ, các "sát thủ" sẽ được cơ thể đào thải.
Nguyên tắc khi dùng kháng sinh là: nhổ cỏ phải nhổ tận gốc. Viên cuối cùng trong liều cần phải tiêu diệt đến con cuối cùng trong bè lũ xâm lăng. Chỉ cần tên giặc cuối cùng còn sống sót, mọi thứ sẽ quay trở lại y như ban đầu - chỉ có điều là tệ hơn: Vì vi khuẩn đã trở nên kháng kháng sinh.
Chuyện là vi khuẩn sinh sản bằng nhân bản vô tính, tức là chúng tự Ctrl+C và rồi Ctrl+V chính bản thân mình. Trước khi vi khuẩn có thể phân chia, chúng cần tạo ra hai bản sao giống hệt nhau của DNA trong nhiễm sắc thể của chúng; một bản cho mỗi tế bào. Nhưng không phải lần copy nào cũng hoàn hảo: Lỗi có thể xảy ra, gây ra những đột biến ngẫu nhiên trên con vi khuẩn - con sinh ra có thể chết vì lỗi nặng, có thêm protein, hay biến thành thứ linh tinh quái gở gì đó khác.
Trung bình tỉ lệ đột biến ở vi trùng tương đối thấp, chỉ cuất hiện trong 1/100.000 cho đến 1/1.000.000 con. Nhưng vấn đề là vi khuẩn sinh sôi cực nhanh, một lần sau mỗi 20 phút, và chúng không nghỉ bao giờ. Chỉ sau một giấc ngủ đêm dài bảy tiếng, 1000 con vi khuẩn sẽ trở thành 2,1 tỷ con vi khuẩn. Vậy nên chúng không bao giờ thiếu đột biến - trong 2,1 tỷ con sẽ có ít nhất hơn 200 đột biến.
Dù có đột biến thế nào đi nữa, chúng không hề được ưu tiên. Dù là đột biến hay không, mỗi cá thể vi khuẩn đều phải đối mặt với hai mối đe dọa chính: Hệ miễn dịch đang tích cực lùng sục lũ thích khách và chính những đồng loại xung quanh đang tranh ăn với chúng. Mà không gian có hạn với những cú bùng nổ dân số theo cấp số nhân không phải một môi trường hay ho với cả những họ hàng tầm thường của chúng, chứ nói gì đến vi khuẩn đột biến. Ở thời kỳ tiền kháng sinh, vi khuẩn chỉ có hai số phận: Một là bị hệ miễn dịch thanh toán hết, hai là đi cùng với vật chủ xuống mồ. Dù chúng có lây được sang người khác thì vẫn chỉ là vỏng luẩn quẩn cũ.
Giờ hãy đến với một ví dụ mang tính minh họa ở thời hiện đại. Anh Năm bị các triệu chứng như ho nhiều, khó thở. Anh đi khám và được bác sĩ chẩn đoán mắc bệnh N, được kê đơn 2 vỉ kháng sinh loại Y uống liên tục trong sáu ngày, mỗi ngày 2 viên. Kháng sinh Y hoạt động bằng cách tấn công chọc thủng thành tế bào của vi khuẩn, giết chết chúng.

Hiện giờ, có khoảng 15 triệu con vi khuẩn đang gọi cổ họng của anh Năm là home sweet home. Trong số đó, có khoảng vài chục đột biến linh tinh, nhưng hãy đặc biệt chú ý đến những cá thể vi khuẩn này. Nó - vì một lý do ngẫu nhiên - có vỏ dày bất thường, một điều vô tình gây khó khăn cho hoạt động của thuốc.
Hai ngày uống thuốc đầu tiên, những viên thuốc đầu tiên được uống đã cùng với hệ miễn dịch xóa sổ được 27% tổng số vi khuẩn. Các vi khuẩn vỏ dày cùng những đồng loại còn sống tiếp tục sinh sản. Sang ngày thứ ba và thứ tư, vi khuẩn ít hơn nên "liên quân" tiêu diệt được đến 50% số vi khuẩn còn lại và bắt đầu tiếp cận được lũ vi khuẩn mặc áo giáp - có điều là một lần đâm chưa đủ để giết chúng, nên chúng cùng tàn dư lũ vi khuẩn thường tiếp tục sinh sản. Đến ngày thứ năm, ưu thế vượt trội về hỏa lực và nhân lực của thuốc tiếp tục gia tăng - bọn vi khuẩn đã hoàn toàn bị bao vây và lũ đột biến linh tinh cùng với vi khuẩn thường lần lượt bị tiêu diệt không khoan nhượng trước sức mạnh áp đảo của phe thuốc. Lũ vi khuẩn vỏ dày cũng dần chịu chung một số phận khi bị thuốc đâm tới tấp và chết ngày một nhiều. Tới cuối ngày, vi khuẩn đã bị tàn sát xong xuôi, chỉ còn một nhóm nhỏ vi khuẩn vỏ dày bị đánh tơi tả cầm cự được. Nhưng số của chúng đã tận. Những binh đoàn kháng sinh đến tiếp theo vào ngày thứ sáu, cũng là ngày cuối cùng sẽ tới và dồn lực nghiền nát tất cả bọn chúng.
Có điều anh Năm không nghĩ vậy. Do lũ vi khuẩn đã bị các trận chiến liên miên làm kiệt quệ, các triệu chứng của bệnh đã gần như biến mất. Nghĩ rằng bệnh đã khỏi, anh Năm quăng những viên kháng sinh còn lại của toa thuốc vào xó nào đấy.

Chọn lọc tự nhiên của vi khuẩn kháng thuốc kháng sinh. Trong ví dụ này, điểm khởi đầu là một quần thể vi khuẩn lớn trong đó hầu hết vi khuẩn đều nhạy cảm với thuốc kháng sinh, nhưng một số vi khuẩn lại kháng thuốc kháng sinh một cách tình cờ. Một loại kháng sinh được cho vào, tiêu diệt hầu hết các vi khuẩn nhạy cảm trong quần thể trong khi vi khuẩn kháng thuốc vẫn sống sót. Kết quả cuối cùng là một quần thể chủ yếu là vi khuẩn kháng thuốc.
Giờ thì trong cổ họng anh Năm chỉ còn mỗi lũ vi khuẩn vỏ dày. Tất cả những họ hàng xấu số từng tranh ăn với chúng đã bay màu cả, còn hệ miễn dịch, mất đi một đồng minh quan trọng, không kịp tiêu diệt chúng. Tất cả những viên kháng sinh anh Năm đã uống hóa ra lại là trận bom rải thảm dọn đường cho lũ vi khuẩn này - không bị cản trở, chúng thoải mái sinh sôi thành một siêu quần thể cả triệu con vi khuẩn vỏ dày, và thế là anh Năm bị tái nhiễm bệnh N.
Nếu chỉ có vậy thì chưa đáng lo, vì dù ai đó có mắc sai lầm thêm hai, ba lần nữa giúp vi khuẩn có được những lớp vỏ siêu dày nhờ chọn lọc tự nhiên thì họ có thể dùng những loại kháng sinh mạnh hơn nữa, hoặc dùng liều nặng đô hơn. Lũ vi khuẩn gian manh còn một thủ đoạn nữa: Chúng có thể trao cho những con vi khuẩn khác mà chúng tiếp xúc ADN ưu việt chứa chiếc vỏ dày cộp của chúng thông qua một quy trình gọi là chuyển gene ngang (HGT - Horizontal Gene Transfer).

Các con đường của HGT. Ảnh: From Cure to Crisis: Understanding the Evolution of Antibiotic-Resistant Bacteria in Human Microbiota, Hamed et al., 2025
HGT có thể thông qua nhiều con đường, như biến nạp (transformation - vi khuẩn hấp thu vật chất di truyền từ ngoài môi trường), tải nạp (transduction - khi một con virus lây nhiễm cho một con vi khuẩn, có khả năng nó sẽ mang theo ADN của con vi khuẩn đó sang con vi khuẩn tiếp theo mà nó lây nhiễm, như quá trình thụ phấn của côn trùng vậy)... Nhưng con đường phổ biến nhất chính là tiếp hợp (conjugation - một con vi khuẩn cho con kia plasmit của mình thông qua một cấu trúc gọi là pili)
Giờ thì không chỉ một, mà có rất nhiều loài vi khuẩn có thêm vỏ dày nữa.

Chuyển gen ngang qua tiếp hợp giữa hai cá thể E. coli, trong đó DNA plasmit được "di truyền" sang cá thể cùng thế hệ qua tiếp hợp. Tế bào vi khuẩn bị "mất" DNA-plasmit gọi là tế bào cho (donor), còn vi khuẩn được kế thừa DNA-plasmit đó là tế bào nhận (recipient). Ảnh: Adenosine/Wikipedia
Vậy là vòng lặp cứ thế tiếp diễn: Vi khuẩn đầu tiên lây cho một ai đó, Lợi dụng kháng sinh để chọn lọc ra các đột biến có khả năng sống sót cao, rồi di truyền chéo cho nhiều loài vi khuẩn khác. Dần dà, những con siêu vi khuẩn tích lũy khả năng kháng nhiều loại thuốc kháng sinh dần thành hình trong cơ thể một người nào đó mà ta không thể theo dấu được nữa - bất cứ ai cũng có khả năng trở thành vật chủ của siêu vi khuẩn.
Đó, vậy là sự kháng thuốc bắt đầu với một lỗi ngẫu nhiên của vi khuẩn , và kết thúc với sự chủ quan và tự tin của con người. Những kịch bản như vậy đã xuất hiện ngày từ buổi bình mình của thuốc kháng sinh. Các kháng sinh sulfonamide bắt đầu được phân phối và sử dụng một cách có hệ thống từ năm 1935 thì kháng thuốc xuất hiện năm 1938. Năm 1940, lần đầu tiên hiện tượng kháng penicillin ở vi khuẩn được quan sát, đến năm 1948 thì tụ cầu khuẩn (Staphylococcus) kháng penicillin lan rộng.
Vào năm 1959, kháng sinh Methicillin được phát triển để chống tụ cầu khuẩn kháng penicillin nhưng chỉ một năm sau, chủng tụ cầu vàng kháng Methicillin (MRSA - Methicillin-resistant S.aureus) đã xuất hiện. Năm đó cũng là năm người ta phát hiện các chủng Shigella đã có được khả năng kháng Tetracycline, một loại thuốc kháng sinh được phát hiện chín năm trước đó.
Vancomycin được phát triển vào năm 1972 thì 16 năm sau, các chủng vi khuẩn Enterococcus kháng Vancomycin xuất hiện. Daptomycin được phát triển vào năm 2003, thì chỉ một năm sau đã xuất hiện những ca nhiễm vi khuẩn tụ cầu vàng S.aureus và các chủng Enterococcus kháng-Daptomycin. Kháng sinh Ceftaroline, được phát triển vào năm 2010, cũng chỉ một năm sau, vào năm 2011, là xuất hiện các chủng tụ cầu khuẩn kháng Ceftaroline.
Hiện tại, có tới hơn một triệu người chết mỗi năm vì các vi khuẩn kháng kháng sinh mà các bác sĩ bó tay. Chỉ riêng trong năm 2019, đã có 1,27 triệu người chết trên toàn cầu do hiện tượng kháng kháng sinh. Không phải là con người đã hoàn toàn đầu hàng trước vi khuẩn, chúng ta vẫn đang liên tục nghiên cứu các loại kháng sinh mới - chỉ có điều đây là một cuộc đua không cân sức - loài người là xe đạp còn vi khuẩn là xe đua. Con người có thể phải mất đến gần 100.000 giờ và trên dưới một tỷ đô-la Mỹ để nghiên cứu ra được một loại kháng sinh mới, trong khi một vòng sinh sản của vi khuẩn chỉ mất chưa đầy 20 phút.
Thực tế là từ những năm 70 của thế kỷ trước trở đi, chúng ta gặp rất nhiều khó khăn trong việc tìm kiếm các loại kháng sinh mới do chúng ta đã xới tung các ngóc ngách của thế giới trước đó rồi. Nhiều loại kháng sinh mới ngày nay thực chất chỉ là bản nâng cấp của thuốc cũ. Ví dụ như, Augmentin vốn là amoxicillin pha thêm acid clavulanic (nhằm ức chế khả năng sản xuất β-lactamase - một enzyme mà vi khuẩn sản xuất có khả năng vô hiệu hóa các kháng sinh họ β-lactam). Hay như kháng sinh Zerbaxa, là kháng sinh Ceftolozane pha thêm tazobactam (cũng là một chất ức chế β-lactamase). Hay thậm chí là Vabomere, một kháng sinh dùng để điều trị nhiễm trùng đường tiết niệu phức tạp (cUTI) từ 18 tuổi trở lên, cũng chỉ là Meropenem pha thêm vaborbactam (lại là một chất ức chế β-lactamase).

Augmentin. Có lẽ các bạn đã quá quen thuộc với loại kháng sinh này rồi. Tương đối hiệu quả, và rẻ.

Kháng sinh Zerbaxa. Ảnh
Cùng lúc đó, các bác sĩ phải chuyển sang kê những loại kháng sinh tuyến cuối (tức kháng sinh được dùng để chống kháng kháng sinh) mạnh hơn cho bệnh nhân, và dùng song song nhiều loại để đảm bảo diệt sạch lũ vi khuẩn - nhưng đây vốn là phương án bất đắc dĩ vì kháng sinh như bọn robot sát thủ bị lỗi mà ta thấy trên phim ấy, chúng tiêu diệt gần như mọi thứ chúng gặp, vi khuẩn có hại cũng như lợi khuẩn - một tác dụng phụ không tốt. Thậm chí, có những loại kháng sinh quá nguy hiểm, đến mức mà các bác sĩ sẽ không bao giờ dùng và sẽ không bao giờ muốn dùng nếu còn có một lựa chọn khác. Các kháng sinh nhóm Fluoroquinolone là một ví dụ tiêu biểu, với các tác dụng phụ bao gồm đứt gân (đặc biệt là gân Achilles), gây biến chứng thần kinh (như ảo giác, động kinh...) và rối loạn nhịp tim. Hoặc như các kháng sinh nhóm Aminoglycoside thậm chí gây suy thận và điếc tai.

"Florence bên dòng Elbe". Dresden bị san phẳng sau các cuộc oanh tác dữ dội của không quân Đồng Minh. 25.000 người chết.
Trong khi các bác sĩ, nhà nghiên cứu và nhà khoa học còn đang quay cuồng, chật vật trước "thế chẻ tre" của vi khuẩn ở con người, vi khuẩn đã sớm mở một cuộc tổng phản công mới - mục tiêu là động vật (gia súc, gia cầm,...).

Poster của CDC về cách vi khuẩn kháng thuốc kháng sinh có khả năng lây lan từ động vật trang trại
Bạn biết đấy, vi khuẩn và dịch bệnh là thứ khó chịu nhất đối với những người nông dân - chứng kiến cả một đàn gia súc mình gây dựng mất bao nhiêu công sức và tiền của chết như ngả rạ thì thật thảm họa. Rõ ràng là những người chăn nuôi không thể kỳ cọ cho từng con, cho mỗi con sống trong một gian riêng rộng rãi thoáng mát, thức ăn 100% chất lượng được.
Vậy nên họ trút cả tá kháng sinh vào thức ăn của động vật. Thực tế, ngành chăn nuôi dùng đến 70% tổng lượng kháng sinh được dùng toàn cầu, tức là hơn gấp đôi so với con người. Nhưng sẽ có những trường hợp kháng sinh dùng cho động vật không đủ liều, gây ra tình trạng kháng kháng sinh - kết hợp với điều kiện thiếu sạch sẽ của chuồng nhốt và tình trạng nhồi động vật chật như nêm - tạo ra một tốc độ lây lan khủng khiếp. Nó đã xảy ra, đang xảy ra và sẽ tiếp tục xảy ra. Không chỉ vậy, sự lạm dụng kháng sinh trong chăn nuôi còn dẫn đến ô nhiễm môi trường và ảnh hưởng xấu đến sức khỏe người tiêu dùng.
V. Giải pháp
Rõ ràng là trên tất cả các chiến trường, vi khuẩn đang chiếm ưu thế. Sau một lúc bị bất ngờ, chúng đã quay trở lại và còn lợi hại hơn xưa.

Vậy chúng ta phải làm gì? Không uống kháng sinh nữa, thì sẽ không có vi khuẩn kháng kháng sinh nữa? Dĩ nhiên là không. Chúng ta không thể phủ nhận những lợi ích của các thành tựu y học vượt bậc đó. Làm ơn đi, bọn antivaxxer đã đủ ngu rồi...
Thay vào đó, chúng ta nên hạn chế sử dụng kháng sinh. Có rất nhiều cách để tăng cường hệ miễn dịch đơn giản và hiệu quả như tập thể dục, ngủ đủ giấc, ăn uống khoa học hay vệ sinh cá nhân sạch sẽ. Chi bằng mượn quân bên ngoài mỗi lúc bị tấn công, sao chúng ta không xây dựng hàng phòng thủ đầu tiên cho bản thân?

Ảnh: Beef Runner/The Samuel Roberts Noble Foundation
Đối thủ nặng ký nhất của sứ mệnh ngăn chặn kháng kháng sinh là lợi ích kinh tế. Ví dụ, thay vì tập trung vào làm chuồng sạch sẽ hơn, hệ thống xử lý chất thải tốt hơn, điều kiện nuôi nhốt tốt hơn thì các công ty đơn giản là spam kháng sinh để chống lại, một cách làm đối phó dễ dàng và rẻ tiền. Các công ty còn "khám phá" ra rằng nếu cho gia súc và gia cầm dùng kháng sinh với liều thấp khi chúng không bị bệnh, tốc độ tăng trưởng sẽ cao hơn - thêm một lý do để càng spam kháng sinh tợn.
Vì vậy, chỉ uống kháng sinh khi thực sự cần thiết, và phải theo đúng đơn và chỉ dẫn của bác sĩ. Sau khi khám lâm sàng/cận lâm sàng (ví dụ như xem xét tiền sử bệnh, nhìn triệu chứng, chụp X-quang, MRI,...), bác sĩ sẽ kê một hoặc vài loại kháng sinh phổ rộng (có tác dụng với nhiều loại vi khuẩn) để tung một đòn diện rộng nhằm xóa sổ tất cả các loại vi khuẩn bị tình nghi gây bệnh. Phương pháp này gọi là điều trị theo kinh nghiệm (empiric therapy), với liều được kê đơn phụ thuộc vào tiêu chuẩn y tế. Mà tiêu chuẩn thì đôi khi sai, nên có khi bạn không uống đủ liều mà vẫn khỏi hoàn toàn, hoặc nếu vi khuẩn nhiều hơn tiêu chuẩn dự kiến thì sẽ xảy ra "nối giáo cho giặc". Tệ hơn, có những trường hợp mà kháng sinh còn vô tình tác động lên một số loại vi khuẩn có hại đang ủ trong cơ thể bạn, nhưng ở mức độ nhẹ thôi, kiểu như bạn bị ù tai do bom nổ ý, còn thằng khác thì lại banh xác pháo. Thế là một lúc sau, khi có bom nổ tiếp thì bọn vi khuẩn "đeo nút tai" rồi.
Tóm lại, kháng kháng sinh đã và đang trên đà trở thành một trong những mối đe dọa lớn tới nhân loại, đặc biệt là với những phần nghèo hơn của thế giới, nơi người dân còn không có quyền tiếp cận nước sạch hay chăm sóc y tế ở mức tối thiểu. Vi khuẩn không biết biên giới, hay chủng tộc, hay giới tính. Nhưng bạn có thể góp phần - chỉ cần bạn đừng có ném vỉ kháng sinh mới uống một nửa vào ngăn tủ sau khi đọc tin lá cải trên Facebook rằng kháng sinh hại gan...
P/S: Và hãy nghe lời bác sĩ, vì bác sĩ chắc chắn có chuyên môn cao hơn con tim của bạn. Bạn sẽ không phải hối tiếc vì đã uống đúng đơn đâu.

Khoa học - Công nghệ
/khoa-hoc-cong-nghe
Bài viết nổi bật khác
- Hot nhất
- Mới nhất

Foxday
Upvote, bài viết hay và chi tiết, còn dễ hiểu nữa
- Báo cáo
sonquangle
Bài viết hay mà lỗi ảnh nhiều quá ạ
- Báo cáo

Chúa Cao Su
Lỗi ảnh...? Bên mình và các bạn độc giả khác vẫn hiển thị bình thường mà? Kết nối mạng của bạn có ổn không?
- Báo cáo
sonquangle
Có lẽ vậy, mình xem được đầy đủ trên thiết bị khác rồi nhé, cảm ơn bạn ^^
- Báo cáo

Chúa Cao Su
OK 

- Báo cáo
cây trầu bà
Cảm ơn, bài viết hay quá
- Báo cáo