Rất nhiều người nghĩ: “Tôi không có cổ phiếu, không có vàng, không mua đất... khủng hoảng tài chính liên quan gì tới tôi?”
Câu hỏi này chạm vào một nghịch lý mà giới tài chính thường né: tại sao người nghèo hoặc người thu nhập thấp lại phải quan tâm đến những “khủng hoảng” dường như chỉ làm rung chuyển thế giới của kẻ giàu? Thực ra, họ không chỉ nên quan tâm, mà chính họ là người bị ảnh hưởng mạnh nhất, dù không hề tham gia cuộc chơi.
Mối quan hệ đó không trực tiếp, nhưng cực kỳ thực qua 3 kênh: (1) thị trường lao động và việc làm (2) giá cả hàng hóa thiết yếu (3) chính sách công và phúc lợi. Ở Việt Nam, cả ba kênh này đã chứng minh câu chuyện ấy qua ít nhất ba giai đoạn gần đây.

Việc làm: khi doanh nghiệp “thắt dây an toàn”, người thuê lao động trả giá đầu tiên

Khủng hoảng tài chính không chỉ làm mất giá cổ phiếu, nó làm khô hạn dòng tiền cho doanh nghiệp. Ở Việt Nam, câu chuyện này lặp lại nhiều lần:
Giai đoạn 2008–2011: sau cú sốc toàn cầu, các doanh nghiệp xuất khẩu (dệt may, da giày) rơi vào tình trạng cắt đơn hàng từ châu Âu và Mỹ. Kết quả là nhiều nhà máy giảm giờ làm, sa thải lao động thời vụ; thu nhập của các công nhân khu công nghiệp giảm mạnh.
COVID-19 (2020): dù GDP Việt Nam vẫn dương so với nhiều nước, nhưng nhiều lao động trong ngành dịch vụ, du lịch, logistics mất việc hoặc bị giảm thu nhập. Đó là hậu quả của đứt gãy chuỗi cung ứng và giảm cầu toàn cầu... một diễn biến bắt nguồn từ cú sốc hệ thống, không phải lỗi của người lao động.
Diễn biến 2024–2025: thanh khoản ngân hàng biến động, lãi suất liên ngân hàng từng tăng sốc; khi các ngân hàng thận trọng hơn, dòng tín dụng chảy vào doanh nghiệp sản xuất bị chặn lại... điều này khiến các doanh nghiệp nhỏ khó vay để trả lương hoặc mở rộng sản xuất.
Người thu nhập thấp, thường làm công ăn lương, hưởng lương theo giờ hoặc theo hợp đồng ngắn hạn... là nhóm bị ảnh hưởng ngay lập tức khi doanh nghiệp thắt chi phí. Họ không có “đệm tài sản” để cầm cự khi bị mất thu nhập một vài tháng.

Giá cả thiết yếu: lạm phát là “thuế vô hình” ăn vào túi tiền người nghèo

Khi hệ thống tài chính cần thanh khoản, một giải pháp ngắn hạn là bơm/liệu pháp nới lỏng tiền tệ... nhưng nếu dòng tiền không được hút lại kịp thời, hoặc nếu niềm tin tiền tệ bị lung lay, hậu quả là lạm phát.
Ở Việt Nam, lạm phát từng tăng cao sau các giai đoạn bơm tín dụng ồ ạt. Người có ít tài sản chịu thiệt nhất vì phần lớn thu nhập họ chi cho thực phẩm, điện, xăng... những nhóm giá nhạy cảm với lạm phát.
Khi vàng/đô được coi là kênh trú ẩn (xu hướng 2025), áp lực lên VND có thể khiến giá nhập khẩu, xăng dầu tăng... người nghèo lại là người chi trả.
Với một thu nhập cố định (lương tối thiểu vùng, lương công nhân), chỉ cần vài phần trăm CPI tăng lên thì sức mua thực tế của đồng lương sụt đi rõ rệt.
Tóm lại, người nghèo không “thua” vì không đầu tư, họ thua vì giá cả sinh hoạt tăng, trong khi thu nhập không điều chỉnh kịp.

Chính sách công: cứu ngân hàng ≠ cứu dân nghèo

Trong khủng hoảng lớn, chính phủ thường phải đưa ra các gói giải cứu (rescue packages) hoặc ưu tiên ổn định hệ thống tài chính. Việc bảo toàn hệ thống ngân hàng và doanh nghiệp lớn có thể dẫn tới:
- Ưu tiên chi cho cứu trợ thị trường tài chính, làm giảm nguồn lực cho các chương trình an sinh (trợ cấp thất nghiệp, hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ), hoặc buộc chính phủ phải tăng thuế/siết chi tiêu công sau đó.
- Cắt giảm chi tiêu xã hội gây tác động trực tiếp đến người nghèo (dịch vụ y tế, trợ cấp, trường công).
Ở Việt Nam, lịch sử cho thấy khi phải xử lý khủng hoảng tín dụng/bất động sản, việc “giải cứu” có thể diễn ra dưới nhiều hình thức, trong khi các chương trình hỗ trợ người nghèo không phải lúc nào cũng được mở rộng phù hợp.

Ví dụ cụ thể ở Việt Nam: vòng xoáy nghèo bền vững

Hãy tưởng tượng một khu công nghiệp tỉnh Bắc Giang hoặc Bình Dương... nơi nhiều công nhân dệt may, điện tử làm việc. Kịch bản điển hình khi xảy ra cú sốc tài chính toàn cầu hoặc dòng vốn ngoại rút khỏi thị trường mới nổi:
Khách hàng nước ngoài cắt đơn, nhà máy giảm công suất.
Công nhân bị giảm giờ làm / sa thải tạm thời, thu nhập giảm.
Nhu cầu nội địa sụt, nhà hàng, tiệm tạp hóa khu công nghiệp thu hẹp, lan tới dịch vụ cấp hai.
Chính quyền địa phương thiếu nguồn thu thuế, giảm chi cho các chương trình hỗ trợ (học bổng, y tế miễn phí cho người nghèo).
Gia đình công nhân cạn dự trữ, phải bán tài sản nhỏ, rút trẻ ra khỏi trường để phụ giúp, vòng xoáy nghèo bền vững bắt đầu.

Vậy người nghèo/thu nhập thấp cần làm gì?

Không phải để đầu cơ hay chống lại thị trường... mà để tăng tính chống chịu:
- Xây quỹ dự phòng cá nhân: mục tiêu ngắn hạn 3 - 6 tháng chi tiêu cơ bản (dù khó, nhưng tích lũy dần là cần thiết).
- Giữ chi tiêu linh hoạt: ưu tiên tiết kiệm cho nhu yếu phẩm thiết yếu, hoãn mua sắm lớn khi có dấu hiệu rủi ro vĩ mô.
- Đa dạng thu nhập: tìm việc làm thêm, nghề gia công, hoặc học kỹ năng có thể chuyển đổi (digital skills, nghề sửa chữa, logistics…).
- Giảm nợ có lãi cao: nếu vay tiêu dùng với lãi suất cao, tìm cách trả sớm hoặc hoán đổi sang khoản vay lãi thấp hơn.
- Sử dụng dịch vụ an sinh công: tận dụng các chương trình hỗ trợ, BHYT, BHXH, khi cần thì tiếp cận tư vấn pháp lý/kinh tế cộng đồng.
- Cộng đồng là tài sản: tổ chức tiết kiệm theo nhóm, hỗ trợ nhau trong chuỗi cung ứng địa phương... bản năng cộng đồng cứu được nhiều gia đình.
Ngoài biện pháp cá nhân, cần giải pháp hệ thống:
- Mở rộng mạng lưới an sinh (trợ cấp thất nghiệp tạm thời, hỗ trợ lương tối thiểu cho doanh nghiệp thuê lại lao động).
- Chính sách tín dụng vi mô cho doanh nghiệp nhỏ, để họ không phải sa thải lao động khi gặp khó.
- Minh bạch chính sách tiền tệ và lộ trình điều hành, niềm tin được xây từ thông điệp rõ ràng, giúp kìm hãm hoảng loạn lan rộng.
Bảo vệ người lao động thông qua đào tạo lại, nhà nước và doanh nghiệp cùng tài trợ các chương trình reskilling.

...

Người nghèo không cần sợ khủng hoảng theo nghĩa hoảng loạn, nhưng họ cần chuẩn bị: vì trong mọi chu kỳ khủng hoảng tài chính, hệ quả cuối cùng thường dội vào tầng lớp yếu thế nhất.
Ở Việt Nam, lịch sử đã cho thấy mối liên hệ này qua mất việc, tăng giá, và cắt giảm chi phí xã hội. Chuẩn bị cá nhân + yêu cầu cải thiện chính sách an sinh là hai hướng cần đi song song... đó mới là con đường tránh vòng xoáy nghèo bền vững.