Đây là một bài viết có góc nhìn rất thú vị, giải thích nghịch lý rằng, việc phát triển các nguồn năng lượng mới có thể còn làm gia tăng thêm khí thải thay vì hạn chế phát thải như mục đích ban đầu của chúng. Ngoài ra, tác giả còn bàn đến những rào cản, những nghịch lý về mặt bản chất xã hội khiến cho các giải pháp thực sự bảo vệ môi trường rất khó được triển khai trong đời sống thực tế.
Bài viết bởi Samuel Miller McDonald trên tờ Current Affairs, ngày 09/06/2025.
Ngắn gọn:
Xây dựng cơ sở hạ tầng cho “năng lượng thay thế” là không đủ. Thay vì thay thế cho nhiên liệu hóa thạch, năng lượng thay thế đang phát triển song song như một lựa chọn cho năng lượng hóa thạch và còn gián tiếp kích cầu tiêu thụ năng lượng. Để ngăn chặn thảm họa khí hậu, bắt buộc phải hạn chế nhiên liệu hóa thạchhạn chế tiêu thụ năng lượng.
Đầy đủ:

Những người đầu tiên lo ngại về CO2

Năm 1917, Alexander Graham Bell, nhà phát minh nổi tiếng với mô hình thực tế đầu tiên của điện thoại, đã có bài phát biểu tốt nghiệp mà sau này trở thành một bài báo rất dài trên National Geographic. Trong đó, ông lo ngại rằng con người sẽ sử dụng than đá và dầu mỏ cho đến khi cạn kiệt. "Chúng ta có thể lấy than đá ra khỏi mỏ", ông than thở, "nhưng không thể nhét chúng trở lại. [...] Chúng ta sẽ làm gì khi chúng ta không còn than đá hay dầu mỏ nữa!" Ông gợi ý rằng khi những thứ này biến mất, con người có thể khai thác năng lượng từ thủy triều, sóng biển hoặc ethanol, "một loại nhiên liệu đẹp đẽ, sạch và hiệu quả" được tổng hợp từ mùn cưa, hoặc dùng "ánh nắng mặt trời làm nguồn năng lượng". Ông trầm ngâm, "Những mái nhà rộng lớn có sẵn ở tất cả các thành phố sẽ tận dụng được tia nắng mặt trời!"
Alexander Graham Bell (1847 - 1922) - Nhà phát minh, nhà khoa học, nhà cải cách người Scotland
Alexander Graham Bell (1847 - 1922) - Nhà phát minh, nhà khoa học, nhà cải cách người Scotland
Bell không chỉ lo ngại về khả năng cạn kiệt của "nhiên liệu hóa thạch" mà còn lo ngại rằng việc đốt chúng có thể tạo ra hiệu ứng nhà kính - một thuật ngữ có lẽ đã được John Henry Poynting sử dụng 10 năm trước đó - khi Trái Đất bị biến thành một "nhà kính". Nửa thế kỷ trước, vào năm 1856, Eunice Newton Foote đã trở thành nhà khoa học đầu tiên chứng minh bằng thực nghiệm rằng, CO2 (Carbon Dioxide) có thể giữ nhiệt. Với giả thuyết hành tinh sẽ nóng lên khi có đủ CO2 trong khí quyển, Foote trở thành nhà khoa học đầu tiên liên hệ CO2 với biến đổi khí hậu toàn cầu.
Eunice Newton Foote (1819 - 1888) - Nhà phát minh, nhà khoa học, nhà vận đồng quyền phụ nữ người Mỹ
Eunice Newton Foote (1819 - 1888) - Nhà phát minh, nhà khoa học, nhà vận đồng quyền phụ nữ người Mỹ

Kịch bản xấu ngày càng đến gần

Giờ đây, sau 169 năm thí nghiệm liên tục về khí thải carbon, chúng ta biết rằng việc đốt nhiên liệu hóa thạch với số lượng lớn như vậy thực sự đã tạo ra hiệu ứng nhà kính, làm nóng đáng kể hành tinh. Năm ngoái là năm nóng nhất được ghi nhận, với nhiệt độ trung bình toàn cầu tăng hơn 1,55 độ C so với thời kỳ tiền công nghiệp, và gần như chắc chắn sẽ bị phá kỷ lục trong năm nay, và sẽ tiếp tục bị phá kỷ lục trong năm tới. Sự nóng lên này diễn ra nhanh hơn nhiều so với bất kỳ quá trình tự nhiên nào, và chỉ có thể được quy kết cho việc đốt nhiên liệu hóa thạch (kế đó là cháy rừng và sự tan chảy của các lớp băng vĩnh cửu). Cũng giống như Bell đã lo ngại về "nhà kính", các nhà khoa học ngày nay lo ngại về kịch bản "cả Trái Đất là một nhà kính", trong đó sự nóng lên do con người gây ra sẽ kích hoạt các nguồn nóng khác - ví dụ khi băng vĩnh cửu bị tan chảy, nó sẽ giải phóng một lượng lớn khí methane, một loại khí nhà kính khác có khả năng giữ nhiệt còn cao hơn nhiều CO2 - điều này dẫn đến một mức nhiệt cực đoan, làm cho những vùng rộng lớn trên hành tinh trở nên không thể sinh sống đối với các dạng sống phức tạp như con người. Với sản lượng khai thác nhiên liệu hóa thạch và lượng khí thải nhà kính (cũng như nhiệt độ toàn cầu) đạt mức cao kỷ lục hàng năm mà không hề có dấu hiệu suy giảm, kịch bản xấu đang ngày càng gần.

Năng lượng thay thế nghe có vẻ hợp lý, nhưng...

Mọi người bắt đầu phản ứng lại kịch bản này với một tâm lý tương tự như Bell: chuyển sang các nguồn năng lượng thay thế phi hóa thạch - ví dụ như các đề xuất của Bell về thủy triều, sóng, nhiên liệu sinh học và năng lượng mặt trời - thay vì than đá, dầu mỏ và khí đốt. Nhìn chung, có vẻ đó là một phản ứng hợp lý.
Tuy nhiên có những rào cản lớn trong việc chuyển đổi triệt để từ nhiên liệu hóa thạch sang các dạng năng lượng thay thế, và có một số vấn đề mà năng lượng thay thế bản thân nó không thể giải quyết được. Bell cho rằng chúng ta chỉ bắt đầu chuyển đổi khi nhiên liệu hóa thạch cạn kiệt. Nhưng chúng ta không thể chờ đến lúc đó được. Thay vì đối mặt với sự thật đau đớn đó, nhiều nhà bình luận và phân tích chính thống lại tự thổi phồng bản thân, và nói về các nguồn năng lượng thay thế một cách cuồng nhiệt như tôn giáo, rằng những công nghệ kỳ diệu này rồi đây sẽ giải thoát nhân loại khỏi kịch bản địa ngục kia.
Ví dụ, một bài báo gần đây của CNN mở đầu bằng tuyên bố:
“Có thể tồn tại một lượng lớn hydro trắng (hydro tự nhiên ở thể khí H2) trong các dãy núi, [...] mở ra hy vọng loại khí đốt sạch này có thể được khai thác và góp phần giải quyết khủng hoảng khí hậu.”
Thực ra có 3 khẳng định được gói gọn khéo léo trong phát biểu này, và cái nào cũng mang tính cường điệu. Câu văn này đưa chúng ta vào một sự thật nghe có vẻ vô hại và trung lập: hydro trắng có thể tồn tại trong các dãy núi. Được thôi. Nhưng sau đó nó lại khẳng định một loại "khí đốt sạch" có thể được khai thác từ những dãy núi này. Điều gì làm cho loại khí này trở nên "sạch"? Nếu xét trên việc nó không phát sinh ra các hạt độc hại hoặc CO2, ví dụ, từ ống xả của xe hơi khi đốt loại khí này, thì đúng, ít nhất nó sạch hơn xăng thông thường. Nhưng để chấp nhận rằng nó "sạch", chúng ta sẽ phải gạt đi tất cả các tác nhân gây ô nhiễm khác khi chiếc xe vận hành, chẳng hạn như ô nhiễm lốp xe (lốp xe bị mòn gây ra ô nhiễm hạt gấp 2.000 lần so với khí thải) hoặc nhu cầu về nhựa đường để làm đường cao tốc phụ thuộc vào dầu mỏ, hoặc tất cả các chất thải phát sinh ra trong quá trình sản xuất, vận hành và bảo dưỡng xe hơi. Việc khai thác hydro trên núi "sạch" đối với ai? Đối với những sinh vật, con người và các loài khác, sống trên và xung quanh ngọn núi, mà giờ đây đã trở thành một nơi không thể sinh sống được nữa chỉ vì khai thác hydro, thì nơi này không được sạch sẽ cho lắm.
Phát biểu cường điệu nhất xuất hiện ở phần cuối: việc khai thác này sẽ “thúc đẩy mạnh mẽ các nỗ lực giải quyết khủng hoảng khí hậu”. Thoạt đầu, nghe có vẻ như là một luận điểm vô hại. Khí hydro, vốn không thải ra carbon khi đốt cháy, chẳng phải là một sự thay thế tuyệt vời cho các loại nhiên liệu thải ra CO2, và đóng góp vào việc giải quyết khủng hoảng khí hậu hay sao? Nghe có vẻ hợp lý cho đến khi chúng ta nhận ra rằng các nguồn năng lượng thay thế phi hóa thạch, như nguồn khí hydro này, thường có xu hướng không thay thế năng lượng hóa thạch, mà nó bổ sung thêm lựa chọn cho các nguồn năng lượng hóa thạch hiện có. Ngay cả khi năng lượng tái tạo có thể thay thế năng lượng hóa thạch - ví dụ như gió có thể thay thế than đá ở Scotland - thì nhìn chung, việc sử dụng năng lượng hóa thạch vẫn gia tăng và bắt kịp việc sử dụng các nguồn năng lượng tái tạo. Đã có một số thay đổi đầy hứa hẹn trong việc sản xuất điện ở một số nơi tại Châu Âu, nhưng hiếm có trường hợp nào chứng minh được có thể thay thế năng lượng hóa thạch hiện có. Việc sử dụng nhiên liệu hóa thạch và lượng khí thải carbon vẫn đạt kỷ lục song song với sự tăng trưởng của năng lượng thay thế. Ví dụ, Trung Quốc đang xây dựng các dự án năng lượng thay thế nhanh hơn bất kỳ quốc gia nào khác. Nhưng nước này cũng tiêu thụ than với khối lượng lớn hơn bất kỳ quốc gia nào khác. Scotland đã đạt được thành tựu đáng kể trong việc khai thác năng lượng gió và ban bố lệnh cấm khai thác khí đốt tự nhiên. Tuy nhiên, theo Bộ trưởng Năng lượng Anh, Ed Miliband, Vương quốc Anh vẫn cam kết tiếp tục dựa vào nguồn cung dầu từ Biển Bắc "trong nhiều thập kỷ tới", ngay cả khi họ đặt mục tiêu song song xây dựng các nhà máy điện gió ngoài khơi. Vương quốc Anh không phải là trường hợp duy nhất. Chi tiêu cho nhiên liệu hóa thạch đang diễn ra trên toàn cầu với một mức độ ngày càng phá vỡ các kỷ lục trước đó, cho thấy các ngành công nghiệp và công ty năng lượng sẽ tiếp tục phụ thuộc rất nhiều vào nhiên liệu hóa thạch trong tương lai, bất kể các nguồn năng lượng thay thế khác có xuất hiện hay là không.
Nếu năng lượng thay thế không thể thay thế nhiên liệu hóa thạch, vậy thì làm sao nó giảm phát thải carbon và giải quyết được khủng hoảng khí hậu? Rõ ràng là nó không giải quyết được khủng hoảng khí hậu.
Hoạt động khoan khai thác hydrogen được thực hiện bởi công ty Natural Hydrogen Energy tại vùng Trung Tây Hoa Kỳ (<a href="https://edition.cnn.com/2023/10/29/climate/white-hydrogen-fossil-fuels-climate">Nguồn</a>)
Hoạt động khoan khai thác hydrogen được thực hiện bởi công ty Natural Hydrogen Energy tại vùng Trung Tây Hoa Kỳ (Nguồn)

Nghịch lý Jevons: năng lượng thay thế hóa ra lại làm tình hình trầm trọng hơn

Trên thực tế, năng lượng thay thế có thể đang làm ngược lại và góp phần gây ra khủng hoảng khí hậu, chủ yếu thông qua hai cơ chế:
1) nó làm tăng tổng cung năng lượng, và do đó càng làm tăng cao nhu cầu tiêu thụ năng lượng, và
2) còn làm xuất hiện thêm các đầu ra mới cho việc tiêu thụ năng lượng hóa thạch: ví dụ tiêu thụ năng lượng hoá thạch để xây dựng cơ sở hạ tầng nhằm khai thác, sản xuất, bảo trì và phân phối năng lượng thay thế (!)
Nhu cầu của con người thay đổi rất linh hoạt. Việc giảm nguồn cung năng lượng có thể hạn chế việc tiêu thụ không cần thiết và buộc các nền kinh tế và con người phải sắp xếp mức độ ưu tiên khi sử dụng chúng. Chúng ta thấy khi giá nhiên liệu tăng do hạn chế nguồn cung, nhu cầu về xe cá nhân cồng kềnh sẽ giảm xuống. Nhưng mỗi khi khi nhiên liệu hóa thạch rẻ hơn, xe hơi sẽ bắt đầu có kích thước lớn hơn, dẫn đến tiêu tốn nhiều vật liệu hơn để chế tạo những chiếc xe này, từ đó đòi hỏi nhiều nhựa đường hơn cho các bãi đậu xe lớn hơn, xây dựng những con đường rộng hơn, cũng như nhiều nguồn lực hơn để bảo trì đường xá cho chúng (một chiếc SUV nặng 2 tấn sẽ gây hư hại cho đường bộ gấp 16 lần so với chiếc xe 1 tấn), và tiêu tốn nhiều chi phí khác nữa. "Việc xe hơi ngày càng trở nên cồng kềnh hơn" (Car bloat) đã khiến tiêu tốn nhiều vật liệu hơn và cuối cùng xóa bỏ hết những gì tiết kiệm được từ việc tối ưu hiệu suất nhiên liệu của động cơ đốt trong (trong đó có cả nỗ lực giảm lượng khí thải carbon từ ống xả).
Khi kích thước của xe cá nhân tăng lên, nhu cầu về nhiên liệu cũng tăng theo. Nghĩa là, cung tạo ra cầu: cầu lại tăng để đáp ứng cung. Nó giống như mở rộng đường cao tốc không làm giảm tắc nghẽn, mà xe hơi sẽ tiếp tục tăng lên để lấp đầy những con đường rộng hơn đó. Và việc xây dựng thêm nhà ở cũng không làm giảm chi phí nhà; thay vào đó, nó lại làm tăng nhu cầu. Khi nhu cầu được kích thích, nó minh chứng cho nghịch lý Jevons nổi tiếng: hiệu suất tăng dẫn đến mức tiêu thụ tăng.
Như vậy, việc tăng nguồn cung chỉ đơn giản là làm tăng nhu cầu và tốc độ tiêu thụ, do đó nó khuyến khích cho việc mở rộng các nguồn năng lượng để đáp ứng mức tiêu thụ tăng thêm đó. Khi nhu cầu liên tục tăng cao như vậy, lý do gì khiến các nhóm vận động hành lang hùng mạnh của nhiên liệu hóa thạch phải đóng cửa các nhà máy đang sinh lời và từ bỏ những mối lợi nhuận khổng lồ, ổn định hàng năm của họ?
William Stanley Jevons (1835 - 1882) - Nhà kinh tế học người Anh
William Stanley Jevons (1835 - 1882) - Nhà kinh tế học người Anh

Sự tiêu tốn năng lượng của AI

Microsoft đang nhắm tới việc mở lại nhà máy điện hạt nhân tại đảo Three Mile (một phần của nhà máy đã bị đóng cửa do sự cố rò rỉ vào năm 1979) và đang đầu tư tiếp vào một lò phản ứng thử nghiệm ở Seattle, tất cả đều nhằm cung cấp cho các trung tâm dữ liệu AI, vốn ngốn nhiều rất nhiều năng lượng của mình. Tại Ireland, các trung tâm dữ liệu AI đã làm đình trệ quá trình chuyển đổi năng lượng tái tạo vì nhu cầu năng lượng của chúng đã vượt xa các nguồn năng lượng tái tạo mới. Với sự mở rộng của AI, các trung tâm dữ liệu có thể chiếm hơn 1/5 nhu cầu năng lượng toàn cầu trong vòng 5 năm tới. Không rõ liệu những loại dự án này có đáng được ưu tiên như vậy không, nếu dựa trên tiêu chuẩn về năng lượng "sạch" - trên thực tế, hạt nhân thậm chí còn kém "sạch" hơn cả hydro - nhưng điều đó cũng không ngăn cản Tổng thống Trump gần đây ra lệnh mở rộng việc sản xuất than để cung cấp năng lượng cho các trung tâm dữ liệu AI.
Dù thế nào đi nữa, những trung tâm dữ liệu AI đó không những không có ích cho bất kỳ tiện ích xã hội nào, mà còn không nên được phép tồn tại vì những tác hại mà chúng gây ra. Không giống như sưởi ấm, điện, hay giao thông, AI tạo sinh - chiếm đoạt các từ ngữ và hình ảnh có sẵn rồi chắp ghép chúng lại thành những hình dạng kỳ lạ - không mang lại bất kỳ lợi ích tích cực nào cho con người hay các sinh vật khác. Ngoài việc ngốn năng lượng, AI tạo sinh còn gây ra rất nhiều tác hại xã hội: nó cấu thành hoặc cho phép hành vi trộm cắp sở hữu trí tuệ tràn lan, làm gia tăng đáng kể thông tin sai lệch, gây hại cho kết quả học tập của học sinh, làm ngập lụt truyền thông với nội dung chất lượng thấp, loại bỏ các công việc sáng tạo của con người, và nhiều tiêu cực khác. Việc triển khai và mở rộng AI trong các ứng dụng giám sát và các hoạt động quân sự, chẳng hạn như chiến tranh sử dụng máy bay không người lái tự động, thậm chí còn đáng sợ hơn. (Châm biếm) Một số người bảo vệ cho AI hay nói rằng, giống như lời nguyền trong hộp Pandora, giờ AI đã "ra khỏi hộp" rồi, và vì vậy, tất cả những gì chúng ta nên làm là để nó phát triển tự nhiên và đừng ngăn cản nó. Nhưng điều này cũng nực cười giống như việc nói rằng, vũ khí hạt nhân đã "ra khỏi hộp" rồi, vậy chúng ta cứ để nó tự nhiên phát triển và lan rộng. Xin lỗi mọi người, bệnh bại liệt cũng đã "ra khỏi hộp" rồi, chúc may mắn!
Trong một số bối cảnh nhất định như chăm sóc sức khỏe, một số hình thức AI có thể mang lại lợi ích. Nhưng không thể để mặc cho việc quyết định mức tiêu thụ năng lượng bao nhiêu là hợp lý rơi vào tay các thị trường tham nhũng và các quan chức độc ác được. Cách duy nhất có đạo đức để quản lý AI và các công nghệ tiêu thụ năng lượng cao khác, là thông qua sự kiểm soát dân chủ, công khai để chúng có thể được khai thác vì lợi ích xã hội. Theo lý thuyết này, bất kỳ lợi ích tiềm năng nào của công nghệ sẽ được cân nhắc so với chi phí môi trường khổng lồ của AI - điều dường như đang bị bỏ qua, do các mô hình tư nhân và các mô hình hướng-lợi-nhuận hiện đang chi phối ngành công nghiệp này.

Địa nhiệt và những nguy cơ

Một bài báo khác gần đây có tựa đề “Năng lượng địa nhiệt, một giải pháp tuyệt vời cho vấn đề khí hậu, đang ở ngay dưới chân chúng ta”, bài báo này trên tờ New Yorker, khám phá một nguồn “năng lượng sạch” tiềm năng khác.
Nhiều nơi trên thế giới sử dụng năng lượng địa nhiệt vì nhiệt từ vỏ trái đất sẽ có khuynh hướng bốc lên trên bề mặt. Microsoft, Meta và Google hiện đang sử dụng địa nhiệt để cung cấp năng lượng cho một số trung tâm dữ liệu AI của họ. Tuy nhiên, một số nhà địa chất còn đang cố tìm cách khoan sâu hơn nữa để tiếp cận nhiều hơn nữa nguồn nhiệt bên trong hành tinh. Tác giả Brent Crane bày tỏ sự vui mừng trước viễn cảnh địa nhiệt có thể “cung cấp năng lượng sạch cho hàng triệu năm tới”.
Nhưng, giống như tất cả các hoạt động khoan sâu khác, hoạt động tìm kiếm địa nhiệt này cũng tiềm ẩn nhiều rủi ro. Một số rủi ro đã được biết đến như, khả năng làm nhiễm độc nước ngầm và gây ra động đất. Crane đề cập đến một trận động đất năm 2017 ở Hàn Quốc khiến khoảng 2.000 người phải di dời và hơn 100 người bị thương. Trận động đất này do một dự án địa nhiệt gây ra. Crane chỉ ra rằng “Trong một thế giới khi mà địa nhiệt được khai thác ở khắp mọi nơi, thì chúng ta cũng sẽ cảm nhận được động đất ở khắp mọi nơi”.
(Châm biếm) May mắn thay, một nhà địa chất được hưởng lợi tài chính từ việc khai thác địa nhiệt, tỏ ra không hề lo lắng và cho chúng ta biết: "Động đất lúc nào chẳng xảy ra trên thế giới", và ông "hy vọng rằng bất kỳ địa chấn nào do các hoạt động khai thác địa nhiệt gây ra cũng sẽ khó mà cảm nhận được". Vâng, chỉ cần ông "hy vọng" là được!
Một công nhân đang vận hành máy khoan tại một điểm khai thác địa nhiệt ở miền nam nước Đức (<a href="https://techxplore.com/news/2024-03-deep-geothermal-renewable-powerhouse.html">Nguồn</a>)
Một công nhân đang vận hành máy khoan tại một điểm khai thác địa nhiệt ở miền nam nước Đức (Nguồn)
Động đất gia tăng, mạch nước ngầm ô nhiễm và kích hoạt núi lửa là một số rủi ro đã biết của các phương pháp khoan sâu hiện nay. Nhưng để thực sự đạt đến "kỷ nguyên" của năng lượng sạch này, nó đòi hỏi phải khoan sâu hơn rất nhiều so với bất kỳ phương pháp nào con người từng thực hiện! Điều này tiềm ẩn những rủi ro chưa từng được biết đến, và có thể còn thảm khốc hơn cả biến đổi khí hậu, vấn đề mà chính nó đang đi giải quyết! Sự kiện tuyệt chủng tồi tệ nhất trong lịch sử, kỷ Permi-Trias, đã xảy ra do một đợt bùng phát khí nhà kính lớn, chủ yếu là CO2, và mưa acid do hoạt động núi lửa gây ra. Nó đã giết chết gần như toàn bộ cây cối trên thế giới và 90% các loài sinh vật.
Nếu bỏ qua vấn đề núi lửa và sự hủy diệt, liệu nó có thể trở thành một "giải pháp tuyệt vời cho khí hậu" không? Có lẽ là không. Công nghệ cần thiết để tiếp cận những nguồn nhiệt sâu thẳm này, như Crane nhắc nhở độc giả, không hề tồn tại và có thể sẽ không bao giờ tồn tại. Mặc dù các công ty khai thác dầu khí đang háo hức sử dụng chuyên môn khoan dầu kỳ cựu của họ vào lĩnh vực này, nhưng rất khó để thương mại hóa chúng kịp với tốc độ biến đổi khí hậu do khí nhà kính gây ra. Ngay cả khi chúng ta có thể tiếp cận nguồn năng lượng khổng lồ này, một lần nữa, vẫn không có cách nào đảm bảo rằng nó sẽ thay thế được năng lượng hóa thạch và giảm lượng khí thải carbon, mà có thể chỉ tạo ra thêm nhiều trung tâm dữ liệu AI mới hoặc tăng thêm các hình thức tiêu thụ dư thừa khác mà hiện tại chưa được phát minh ra.
Thứ ta cần là một cơ chế quản trị để ép buộc phải thay thế năng lượng hóa thạch bằng năng lượng tái tạo (tôi sẽ quay lại vấn đề này sau).

Sự tiêu tốn năng lượng của tiền điện tử

Một hình thức tiêu thụ có hại khác là tiền điện tử. Abkhazia là một khu vực ở cực tây của Georgia, từng có nguồn năng lượng chính là thủy điện. Hiện nay, nơi này đang phải đối mặt với tình trạng thường xuyên mất điện kéo dài, đồng thời ngày càng phụ thuộc vào năng lượng hóa thạch nhập khẩu từ Nga. Nguyên nhân chính là do một mỏ tiền điện tử bất hợp pháp gần đó đang hút dòng điện sản xuất từ thủy điện ra xa tầm tay người dân. Theo CNN đưa tin, "Khu vực này phải đối mặt với tình trạng thiếu điện theo mùa khi mực nước giảm vào mùa đông, và còn nghiêm trọng hơn do hoạt động khai thác tiền điện tử, vốn đang ngốn điện 24 giờ một ngày", dẫn đến một "thảm họa nhân đạo". Thảm họa nhân tạo này không nên xảy ra, và chắc chắn không nên xảy ra do một hoạt động như khai thác tiền điện tử. Ở vùng này, chúng ta có năng lượng phi hóa thạch, tuy không hoàn hảo nhưng ít nhất nó phục vụ được cho nhu cầu của người dân, nhưng cuối cùng nó lại bị sử dụng một cách bất hợp pháp và gây hại cho xã hội.
Suy cho cùng, tiền điện tử là một trò gian lận, chủ yếu mang lại lợi ích cho tội phạm, trao đổi nội dung khiêu dâm, ma túy và các dịch vụ bất hợp pháp, và thậm chí còn chưa tồn tại trước năm 2009. Liệu còn thứ quái dị nào khác mà người ta có thể phát minh ra trong 16 năm tiếp theo với nguồn năng lượng dồi dào mà các loại năng lượng "sạch" mới có thể cung cấp? Dù là gì đi nữa, chúng ta có mọi lý do để nghi ngờ rằng, rồi đây tất cả những nguồn "năng lượng sạch" mới này cũng sẽ được dùng để cung cấp năng lượng cho AI và tiền điện tử hoặc một nguồn tiêu thụ mới, thừa thãi và có hại, thay vì cho tất cả mọi người, hoặc nhằm làm giảm việc sử dụng năng lượng hóa thạch trong những nhu cầu tiêu thụ thiết yếu.

Năng lượng thay thế vẫn đang được xây dựng nên từ... năng lượng hóa thạch!

Việc phát triển năng lượng thay thế có lẽ sẽ không làm giảm lượng khí thải carbon, và tại thời điểm này, thậm chí có thể còn làm tăng thêm khí thải. Bên cạnh việc làm tăng thêm nhu cầu năng lượng, thì hiện tại, tất cả hoạt động sản xuất năng lượng thay thế đều phụ thuộc rất nhiều vào năng lượng hóa thạch!
Không có nguồn năng lượng nào không có nguồn gốc hóa thạch. Mặt trời và gió phụ thuộc vào năng lượng hóa thạch dồi dào để sản xuất, phân phối và xây dựng, còn hạt nhân và hydro phụ thuộc vào năng lượng hóa thạch để khai thác, xây dựng và triển khai. Và do đó, nếu những dự án năng lượng thay thế này lại làm mọc ra thêm nhu cầu tiêu thụ năng lượng hóa thạch thay vì thay thế chúng, thì cuối cùng cũng sẽ chỉ làm tăng lượng khí thải carbon ròng mà thôi.

Cách duy nhất có hiệu quả

Vậy nghĩa là chúng ta không nên phát triển năng lượng thay thế và nên ưu tiên đốt nhiên liệu hóa thạch thay vì năng lượng gió và mặt trời?
Hoàn toàn không. Tất nhiên, sẽ tốt hơn nhiều khi gió tạo ra điện thay vì than và khí đốt. Nhưng đối với mọi dự án năng lượng thay thế, bao gồm cả hydro trên núi, đều phải được đánh giá thật kỹ lưỡng các tác động trước mắt và lâu dài của chúng. Không phải tất cả các "năng lượng sạch" đều có tác động giống nhau. Ví dụ khai thác năng lượng thủy triều có tác động tích cực đến môi trường biển, vì nó cấm đánh bắt bằng lưới kéo trên các khu vực rộng lớn và do đó tránh tiêu diệt các sinh vật biển một cách bừa bãi. Trong khi việc khoan vào lòng đất để khai thác khoáng sản và nhiên liệu hầu như luôn gây hại cho động vật hoang dã và con người.
Điều này khiến chúng ta nghĩ đến các cơ chế quản trị từ phía nhà nước. Để các dự án năng lượng này thực sự giảm được CO2, chúng phải đi kèm với các luật lệ nhằm hạn chế việc triển khai nhiên liệu hóa thạch. Cách duy nhất đã được chứng minh có hiệu quả là giảm khai thác và triển khai năng lượng hóa thạch ngay từ đầu. Hãy nhớ rằng, khủng hoảng khí hậu chủ yếu do khí nhà kính, đó là mối nguy mà các nhà khoa học đã hiểu rõ trong 170 năm qua. Hiện nay không có công nghệ nào loại bỏ được CO2 ra khỏi khí quyển hoặc ngăn được bức xạ mặt trời một cách hiệu quả để chống lại sức nóng của khí nhà kính cả. Cũng không có nguồn năng lượng phi carbon nào tốt đến mức khiến nhiên liệu hóa thạch trở nên lỗi thời được. Nhu cầu về năng lượng (cả hóa thạch lẫn thay thế) càng lớn thì việc giảm năng lượng hóa thạch càng khó khăn hơn. Quỹ đạo phát thải hiện tại có thể khiến hành tinh trở nên quá nóng, khiến con người và các sinh vật không thể sống được. Thực sự không có hậu quả nào tồi tệ hơn việc hành tinh trở nên không thể sống được. Đó là lý do tại sao phải ngừng sử dụng năng lượng hóa thạch càng nhanh và nếu hoàn toàn thì càng tốt, đây là cách duy nhất được biết đến để ngăn chặn hậu quả này, và là điều bắt buộc.
Điều này có vẻ là một bế tắc khủng khiếp suốt 100 năm qua kể từ khi Alexander Graham Bell nói về việc chuyển đổi từ than đá và dầu mỏ sang năng lượng thủy triều và mặt trời. Nhưng có một tin tốt: nếu hạn chế được mức tiêu thụ năng lượng, đặc biệt là của giới siêu giàu và các ngành công nghiệp, thì thế giới sẽ trở thành một nơi tốt đẹp hơn nhiều cho tất cả mọi người.

"Phát triển": cơn khát vô độ của nhân loại

Bài báo của CNN về hydro trắng, cũng như bài về địa nhiệt của tờ New Yorker phản ánh một hệ tư tưởng, trong đó coi nhẹ "cơn khát năng lượng vô độ của nhân loại".
Đó là hệ tư tưởng "tăng trưởng" - nó cho rằng nên duy trì nhu cầu năng lượng vô độ của nhân loại. Hệ tư tưởng này chứa đựng những niềm tin (thường là sai lầm) về cách thế giới vận hành và nên vận hành. Nó "tăng trưởng" theo nghĩa, mọi thứ trên đời đều được thu gọn lại thành một mệnh lệnh tối cao: "phát triển", cụ thể hơn là sự gia tăng về lợi nhuận, lãnh thổ, năng lượng hoặc tài sản. Hệ tư tưởng này thống trị khắp thế giới, với mọi đảng phái chính trị lớn, chính phủ, tập đoàn, trường đại học và các tổ chức đều đồng lòng với ý tưởng toàn năng này, thần thánh hóa việc tạo ra lợi nhuận tăng vô hạn thông qua việc tiêu thụ và khai thác tài nguyên thiên nhiên không giới hạn cùng với việc bóc lột sức lao động. (Một số người sẽ phàn nàn về việc sử dụng từ “tăng trưởng”, trong khi lẽ ra phải dùng từ “tư bản”, nhưng thực tế là trong lịch sử, kể cả các nền kinh tế “chống tư bản”, như Liên Xô và Trung Quốc, cũng đặt “tăng trưởng” lên trên các mối quan tâm khác!)
Sự "tăng trưởng" vô hạn đó không những vô lý về mặt vật lý, mà còn vô nghĩa trong việc cứ mãi duy trì mức sản xuất và tiêu thụ năng lượng ngày càng tăng vô hạn như vậy. Chắc chắn không thể dùng nó để biện minh cho việc hủy diệt sự sống trên thế giới được. Giải pháp duy nhất cho các cuộc khủng hoảng khí hậu, sinh thái và năng lượng hóa thạch đan xen là nhân loại phải từ bỏ cái ý tưởng về nhu cầu năng lượng tăng vô hạn này đi. Nói cách khác, chúng ta phải "biết đủ" với việc tiêu thụ hàng hóa, dịch vụ và năng lượng. Điều đó không chỉ cấp thiết, mà còn giúp chúng ta hạnh phúc, và khỏe mạnh hơn rất nhiều.
Ở mức độ cá nhân, chúng ta phải tiết chế tiêu thụ, và tìm kiếm sự thỏa mãn trong những niềm vui tự nhiên, thay vì chạy theo những khoái cảm chóng vánh của tiêu dùng vô độ. Ví dụ, tránh đồ nhựa dùng một lần; không mua quá nhiều quần áo thời trang nhanh; không phụ thuộc vào các thiết bị ngốn năng lượng như đổi điện thoại mới mỗi năm, hoặc một chiếc xe hơi đồ sộ; không đi máy bay nhiều trong những dịp cuối tuần; vân vân. Những bậc cha mẹ thông thái biết rằng, việc cho con cái mọi thứ chúng muốn là một hình thức "nuông chiều", và sẽ khiến chúng trở thành những con quái vật nhỏ bé tham lam, ích kỷ và bất hạnh. Vậy thì tại sao chúng ta lại không áp dụng điều đó cho người lớn?
Cái giá phải trả cho những xu hướng thời trang nhanh sớm nở chóng tàn (<a href="https://davidsuzuki.org/living-green/the-environmental-cost-of-fast-fashion/">Nguồn</a>)
Cái giá phải trả cho những xu hướng thời trang nhanh sớm nở chóng tàn (Nguồn)

Sự vô độ của giới siêu giàu và các tập đoàn

Mặc dù hầu hết mọi người đều hiểu rằng chúng ta cần tiêu dùng tiết kiệm và có trách nhiệm, nhưng thật khó để thực hiện được ý tưởng đó khi người ta nhận ra rằng, giới siêu giàu trên thế giới đang tiêu thụ và chiều chuộng bản thân một cách vô độ mà chẳng cần đắn đo suy nghĩ về việc họ cũng đang sống cùng rất nhiều người bình thường khác trên hành tinh!
Một nghiên cứu của Oxfam cho thấy, thông qua các khoản đầu tư và sinh hoạt cá nhân, một tỷ phú thải ra CO2 trong một tiếng rưỡi còn nhiều hơn cả một người trung bình thải ra trong suốt cuộc đời!
Không chỉ riêng các tỷ phú, Jag Bhalla đã chỉ ra trong ấn phẩm này: 1% dân số toàn cầu (và thậm chí cả 10% giàu nhất) cũng đang thải ra CO2 vượt xa cả mức trung bình của mọi người. Trong khi đó, người dân thường thì lại phải đối mặt với mức sống giảm sút do chính sách thắt lưng buộc bụng của chính phủ áp đặt và nạn tích trữ của cải của giới nhà giàu. Tại Anh, theo một phân tích mới, việc cắt giảm chi tiêu công có thể làm suy giảm mức sống của tất cả các gia đình Anh vào năm 2030, "những người có thu nhập thấp nhất sẽ suy giảm nhanh gấp đôi so với những người có thu nhập trung bình và cao". Tài sản quốc gia vốn được đầu tư vào các dịch vụ công như Dịch vụ Y tế Quốc gia, tiện ích và phúc lợi xã hội đang ngày càng bị chuyển hướng sang các công ty tư nhân và cá nhân giàu có. Vậy tại sao tôi phải ép bản thân cả đời chỉ được sở hữu một hoặc hai chiếc xe, trong khi một người như Andrew Tate lại được phép tích trữ hàng chục chiếc cùng một lúc? Tại sao tôi phải ép bản thân từ chối những thứ mình muốn, trong khi bản thân tôi thì đổ rất nhiều tiền vào một loạt các công ty ký sinh và chủ đất để họ có thể phung phí?
Mặt trái của vấn đề này là: các tập đoàn sản xuất, để thỏa mãn tham vọng không ngừng về việc gia tăng lợi nhuận, đã quyết định thực hiện một chiến dịch kéo dài hàng thập kỷ nhằm giảm chất lượng sản phẩm xuống để đổi lấy số lượng hàng bán ra tăng lên. Ví dụ, khi chúng ta muốn ép bản thân chỉ dùng một chiếc ô tô tốt suốt đời, tránh sử dụng đồ nhựa dùng một lần, chỉ dùng một chiếc điện thoại trong suốt 10 năm hoặc cố gắng mặc quần áo chất lượng tốt - thì các tập đoàn thống trị thị trường đã nghĩ ra cách để làm cho những nỗ lực đó trở nên khó khăn hơn. Họ nhồi nhét khái niệm "lỗi mốt" vào sản phẩm của mình, cắt giảm chi phí sản xuất và tính giá ngày càng cao cho những sản phẩm ngày càng kém chất lượng.
Xếp hàng và tạo dáng với iPhone XS khi Apple phát hành các mẫu iPhone mới nhất vào ngày 21 tháng 9 năm 2018 tại Sydney, Australia (<a href="https://www.cnbc.com/2018/11/28/apple-increases-trade-in-value-of-older-iphone-models.html">Nguồn</a>)
Xếp hàng và tạo dáng với iPhone XS khi Apple phát hành các mẫu iPhone mới nhất vào ngày 21 tháng 9 năm 2018 tại Sydney, Australia (Nguồn)

Một giải pháp có lẽ sẽ không bao giờ thực hiện được

Có lẽ giải pháp tốt nhất cho cả vấn đề hoang phí của người giàu và sản xuất quá mức các sản phẩm chất lượng thấp, cũng như ảnh hưởng chính trị và thị trường quá lớn của ngành công nghiệp nhiên liệu hóa thạch, là xây dựng một chính phủ sẵn sàng dùng vũ lực để kiềm chế họ. Chỉ có quyền lực của nhà nước mới có khả năng đặt ra giới hạn về những gì doanh nghiệp và người giàu có thể sản xuất và tiêu thụ.
Xây dựng một thực thể như vậy có thể khiến tương lai tươi sáng hơn: cấm AI và đột nhiên chúng ta sẽ không còn bị ngập trong thông tin và hình ảnh chất lượng thấp, chúng ta có thể duy trì các ngành nghề sáng tạo chất lượng cao. Mạnh tay đàn áp các hoạt động tiền điện tử sẽ cắt đứt nguồn tài chính của tội phạm và ngăn chặn đáng kể việc lãng phí năng lượng. Buộc các nhà sản xuất xe hơi chỉ sản xuất xe không thải ra CO2 và có khả năng vận hành trong nhiều thập kỷ, đột nhiên ta sẽ có ít xe hơn và tốt hơn (mang lại chất lượng cuộc sống cho tất cả mọi người, chẳng hạn như ít đường, ít chết người hơn, ít ô nhiễm gây ra bệnh hen suyễn và chứng mất trí nhớ hơn, thành phố mỹ quan hơn, v.v.). Yêu cầu tất cả các công ty công nghệ xây dựng sản phẩm hướng đến chất lượng thay vì sự lỗi thời, và buộc họ phải chịu trách nhiệm xử lý chất thải an toàn. Đánh thuế đến mức người giàu không tồn tại, và đột nhiên sẽ không còn những nhà tài phiệt tâm thần cố gắng giết chúng ta nữa, không còn sự phân phối tài nguyên bất công tàn bạo nữa, không còn những chính trị gia kiểu trùm mafia thao túng hệ thống nữa. Thêm vào đó, chúng ta có thể dùng nguồn thu đó để xây dựng hệ thống giao thông tiện nghi và các thành phố thuận tiện cho việc đi bộ, duy trì nguồn tài trợ nghiên cứu, và tái tạo môi trường sống hoang dã. Người ta sống trong những xã hội phân phối của cải bình đẳng hơn và gắn bó chặt chẽ với thế giới tự nhiên - mặc dù đôi khi họ nằm trong số những người "nghèo nhất" về thu nhập - chứ không phải trong những xã hội mà người giàu được sống như những đứa trẻ khổng lồ mới biết đi còn các ông lớn trong ngành công nghiệp được thải ra những đống rác thải xấu xí.
Tuy nhiên, vào thời điểm này, khi các quốc gia, chính trị gia và các bộ máy quản lý gần như hoàn toàn phụ thuộc vào các ngành công nghiệp và người giàu, khi hầu như mọi xu hướng đều đi ngược lại hướng cần thiết, và khi các quy định về lợi ích công cộng đang nhanh chóng bị xói mòn, thì ý tưởng về một chính phủ có thể đột nhiên thay đổi thái độ và bắt đầu kiểm soát người giàu và ngành công nghiệp trông giống như một tiểu thuyết không tưởng. Để đạt được điều đó, cần một phong trào rộng lớn và năng động, nhiều nhà hoạt động cảnh giác hơn, các nhà báo can đảm, các quan chức táo bạo, cảnh sát và lực lượng vũ trang phải đồng cảm, cùng nhiều yếu tố khác nữa... Đó là một thế giới nơi những người giàu có và các tập đoàn thực sự hiểu rằng, nếu họ không bị đánh thuế, họ sẽ bị xóa sổ bằng những cách khác (như vụ ám sát CEO ngành chăm sóc sức khỏe Brian Thompson, mặc dù yếu tố chính trị trong câu chuyện đang bị các phương tiện truyền thông doanh nghiệp che giấu, nhằm lờ đi sự phẫn nộ của người dân đối với lĩnh vực chăm sóc sức khỏe).
Ngay cả khi hiện tại chúng ta không sống trong một thế giới như vậy, thì cũng dễ dàng thấy nó tốt hơn nhiều con đường chúng ta đang đi. Các tập đoàn sẽ san phẳng những ngọn núi trên thế giới, hoặc khoan sâu vào lớp vỏ Trái Đất đến mức tạo ra những ngọn núi lửa của ngày tận thế, lấp đầy mọi khe nứt bằng chất thải phóng xạ, phủ kín mọi tấc đất bằng các tấm pin mặt trời để các công ty công nghệ có khả năng phát triển những hệ thống giám sát con người ngày càng tinh vi hơn. Mọi sự sống đã biết trong vũ trụ sẽ bị hủy diệt để một vài tỷ phú có thể trở thành nghìn tỷ phú trong một thế hệ. Sự cuồng tín tăng trưởng này đang chống lại sự sống. Đó là một hệ tư tưởng tuyên truyền rằng, chúng ta hãy hài lòng với những cuộc sống mô phỏng chạy bằng năng lượng tạm thời, thay vì chính cuộc sống. Bất kỳ ai đã từng dành thời gian cho những ngọn núi sẽ không bao giờ đánh đổi những dãy núi tuyệt đẹp như vậy để lấy cả một đại dương hydro trắng hay những tài nguyên được khai thác bất chính để tích lũy cho một danh mục đầu tư nào đó.
“Chủ nghĩa tăng trưởng” không chỉ chống lại cách chúng ta sống, mà còn chống lại chính sự sống. Dãy Alps nằm trong số những nơi đang được khoan thăm dò trong tương lai. Đây là một trong những môi trường sống cuối cùng ở châu Âu của nhiều loài động vật như gấu nâu, linh miêu, dê núi, chó sói và đại bàng vàng, chưa kể đến nhiều loài ít được biết đến hơn nhưng chúng cũng xứng đáng được sống. Nếu những ngọn núi bị khoan thăm dò, những động vật này có thể bị tuyệt chủng. Các dãy núi khác như dãy Pyrenees và dãy Himalaya, nơi sinh sống của linh miêu và báo tuyết, cùng nhiều loài khác, cũng có thể chứa lượng hydro trắng đáng kể. Nếu bị khoan thăm dò, chúng sẽ phải chịu kết cục tương tự như dãy Alps. Nếu chúng ta duy trì mức tiêu thụ năng lượng hiện tại, và khoan thăm dò cả đất liền lẫn biển để lấy năng lượng, thì số phận của tất cả mọi người và mọi sinh vật sẽ bị hủy diệt.
Không có gì đáng để phải trả một cái giá như vậy.
Vẻ đẹp của dãy Alps (<a href="https://unsplash.com/photos/mountain-and-houses-58uZCE8zrdk">Nguồn</a>)
Vẻ đẹp của dãy Alps (Nguồn)