Thưa độc giả. Dạo gần đây trên không gian mạng xảy ra rất nhiều cuộc tranh luận liên quan đến việc có nên công nhận nhà nước Nam Việt của Triệu Đà là nhà nước chính thống của nước ta hay không. Nhiều cuộc tranh luận rất sôi nổi, thậm chí còn dẫn tới miệt thị, chửi bới lẫn nhau chỉ vì bất đồng quan điểm. Nhận thấy chủ đề này thực sự rất khó nhằn. Nay, từ những hiểu biết có phần nông cạn của mình, xin thử phân tích tính đúng sai của chủ đề này, mong phần nào kết lại, tránh gây mất đoàn kết trong cộng đồng. Bài viết này chỉ là ý kiến chủ quan nên còn nhiều thiếu sót. Mong các bạn góp ý.
Thứ nhất, thế nào là một triều đại chính thống? Để đi đến vấn đề này thì cần lật ngược lại mà hỏi rằng, tại sao lại phải phân biệt triều đại chính thống với triều đại ngoại thuộc. Để giảm tải chương trình học lịch sử cho học sinh ư? Không. Không phải như vậy. Mọi quốc gia trên thế giới này, từ khi hình thành nhà nước đều luôn phân biệt đâu là chính thống, đâu là không chính thống. Bởi vậy mới có khái niệm chính sử để phân biệt với ngoại sử. Việc phân định này vốn thuộc phạm trù quan điểm lịch sử, và nó gần gũi với mảng chính trị triết học hơn là so với bộ môn khoa học lịch sử. Lịch sử đơn thuần chỉ bao gồm và đúng ra nên chỉ bao gồm các dòng sự kiện đi kèm theo các mốc thời gian. Nhưng nếu như vậy thì còn có gì để mà nghiên cứu, cái đó chỉ có thể gọi là khảo cứu vì các nhà sử học chỉ đi tìm sự thật, không lôi kéo các vấn đề chính trị vào lịch sử. Và như bao ngành khoa học khác, lịch sử cũng bị cuốn vào guồng quay của thời đại. Nó luôn đi song hành với từng triều đại, từng nhà nước, trở thành công cụ của nhà nước hiện thời. Vấn đề nhà nước Nam Việt cũng vậy. Dù có công nhận là nhà nước chính thống hay không thì trong  thời kỳ đó, đã có một triều đại ngự trị trên mảnh đất này. Đã đến đây rồi, bạn nào còn giữ tư duy nghiên cứu lịch sử thuần lịch sử có thể dừng đọc bài này đi mà làm việc có ích hơn. Còn bạn nào muốn tiếp tục đi sâu vào chủ đề rối rắm này thì xin mời tiếp tục.
Từ tiền đề trên mới thấy, các triều đại phân biệt chính thống hay không chính thống chủ yếu là ở tính kế thừa. Khi một nhà nước công nhận một triều đại là chính thống, nghĩa là nhà nước đó muốn kế thừa di sản mà triều đại đi trước kia để lại. Thường là đất đai và truyền thống văn hóa.
Thứ hai, sự thật lịch sử. Trước hết, trong thời phong kiến ở nước ta, chí ít là ở ba triều đại lớn: Trần, Hậu Lê và Nguyễn, nhà nước Nam Việt luôn là nhà nước chính thống được công nhận. Như trong Bình Ngô Đại Cáo, Nguyễn Trãi có viết từ Triệu, Đinh, Lý, Trần bao đời gây nền độc lập. Cùng Hán, Đường, Tống, Nguyên mỗi bên xưng đế một phương. Trong Đại Việt sử ký đời Trần, Đại Việt sử ký toàn thư đời Hậu Lê hay các sách do Quốc sử quán triều Nguyễn biên soạn đều ghi như vậy. Các triều đại trước như nhà Lý, Đinh, vân vân thì không rõ có như vậy không. Một phần vì không có thư tịch từ các đời đó truyền lại, phần vì theo suy đoán, các triều đại đó mới dựng nền tự chủ, có lẽ chưa có quan điểm lịch sử rõ ràng. Vậy thì tại sao đến ngày nay nhà nước Nam Việt lại bị bác bỏ khỏi dòng chảy chính thống trong lịch sử Việt Nam.
Ở đây có bạn nào học các môn khoa học chắc đều biết. Để phân loại bất kỳ một danh sách nào, chúng ta đều phải đưa ra các tiêu chí để lọc chúng. Lịch sử cũng là một môn khoa học, và thực sự đó là cách mà việc phân loại chính thống hay ngoại thuộc hoạt động. Các cụ nhà ta xưa dù có lạc hậu, song cũng biết đưa ra các tiêu chí để nhặt chọn đâu là triều đại của ta, đâu là triều đại của người phương Bắc. Ngày nay cũng vậy. Các nhà sử học ngày nay cũng có những tiêu chí của riêng mình. Vậy thì hẳn là bộ tiêu chí của chúng ta ngày nay phải khác với các cụ ngày xưa nên Nam Việt mới bị bay màu. Vậy thì, xưa kia các cụ đã phân loại như thế nào. Để giải đáp vấn đề này chúng ta phải quay ngược thời gian mới mong hiểu được.
Thuyết Thiên Mệnh
Học thuyết thiên mệnh là một học thuyết cổ xưa phản ánh thế giới quan của con người cổ đại. Không biết nó ra đời từ khi nào nhưng có thể chắc chắn đó là học thuyết đầu tiên được các bậc đế vương sử dụng để nâng cao tính chính danh của triều đại mình. Theo học thuyết này, mọi vật đều vận động theo các quy luật tự nhiên, vốn đã có sự an bài của thiên ý hay ý trời. Thuận trời thì sống, chống trời thì chết. Mọi cuộc khởi nghĩa, binh biến đều dựa vào 2 chữ này mà thu phục nhân tâm. Đây là học thuyết chủ đạo của cả nền văn hóa Á Đông nói chung chứ không chỉ ở Việt Nam ta. Dù vậy chúng ta cũng có thể suy đoán rằng học thuyết này du nhập vào nước ta từ các cuộc xâm lăng của người phương Bắc. Tuy nhiên, càng về sau này, các triều đại phong kiến phương Bắc bắt đầu nhận ra những điểm yếu chí tử trong học thuyết này. Một thế lực nào đó hoàn toàn có thể lợi dụng thiên mệnh để làm phản. Không từ thủ đoạn, tất cả đều có thể lấy danh nghĩa là tuân theo thiên mệnh để biện minh. Từ đó, học thuyết này được phát triển lên trở thành thiên mệnh chính thống. Ban đầu Thiên mệnh chính thống được hiểu là nắm giữ vùng đất trung nguyên rộng lớn với ý nghĩa giữ được trung nguyên là chiếm được thiên hạ, được quyền hiệu triệu thần linh quỷ thần. Bởi vậy, trong lịch sử hàng ngàn năm của Trung Hoa, các thế lực cát cứ luôn chăm chăm mục tiêu chiếm được vùng đất ở trung tâm vùng đồng bằng châu thổ rộng lớn để mưu cầu đại nghiệp. Khi du nhập vào nước ta, vùng đất linh thiêng nắm giữ thiên mệnh chính là thành Thăng Long hay rộng hơn là vùng đồng bằng sông Hồng màu mỡ dân cư đông đúc. Tuy nhiên, đến thế kỷ 12, với việc triều đình nhà Tống phải lui khỏi vùng đồng bằng phía bắc, lui về vùng đồng bằng Hoa Nam lập ra nhà Nam Tống. Học thuyết này có một sự biến đổi mạnh mẽ. Không còn là Thiên mệnh gắn liền với đất đai nữa mà là thiên mệnh gắn liền với huyết thống. Theo đó, việc chiếm được vùng đất kinh đô cũng không đảm bảo cho tính chính danh của triều đại. Chính huyết thống đế vương mới là điều kiện hàng đầu. Học thuyết này dù ra đời sau nhưng lại được cổ vũ bởi giới sử quan khắp cả đông Á từ đó đến sau này và trở thành học thuyết quan trọng bậc nhất nhằm xác định tính chính danh của một triều đại. Minh chứng rõ nhất chính là trong bộ tiểu thuyết Tam Quốc Diễn Nghĩa nổi tiếng của La Quán Trung. Trước La Quán Trung, đã có rất nhiều bộ sách viết về thời kỳ tam quốc, tất cả đều lấy nhà Ngụy làm chính thống, các nhà Ngô, Thục chỉ được coi là các thế lực cát cứ. Chỉ đến Tam Quốc Diễn Nghĩa, nhà Thục Hán mới được tính là chính danh vì huyết thống đế vương của họ Lưu. Chắc các bạn còn nhớ cuộc đối luận trong bộ tiểu thuyết này khi Gia Cát Lượng biện luận trước ba quân với Quan tư đồ Vương Lãng. Dù chi tiết này chỉ là hư cấu, song nó là đoạn đối luận kinh điển thể hiện sự đối trọi giữa hai học thuyết Thiên mệnh trung tâm và thiên mệnh huyết thống.
Khi du nhập vào nước ta, học thuyết này cũng được các triều đại phong kiến nước ta triệt để sử dụng. Chẳng phải thế mà Lê Lợi phải tôn một người họ Trần làm vua để chính danh đánh giặc. Rồi khi đã nắm quyền, mỗi triều đại ở nước ta đều phải vội vã phái người sang thiên triều phương Bắc để xin cho được một sắc phong vương, lấy đó làm chính danh để bố cáo với thiên hạ trong nước.
Tư duy nhị nguyên: Phi Hoa tất Việt
Đây có lẽ là điều đáng trăn trở nhất trong nếp nghĩ của dân ta từ xưa đến nay. Có lẽ vì phải tiếp xúc với người Trung Hoa quá nhiều, tiếp nhận quá nhiều ảnh hưởng của họ. Đến mức vừa kiêng nể, vừa khinh thường mà sinh ra tâm lý nếu có một cái gì đó mà người Hán Hoa Hạ không nhận là của họ thì ắt nó thuộc về ta. Trong chuyện phân loại chính thống cũng vậy. Trong tất cả các triều đại đã từng cai trị trên đất nước ta, các sử quan đời trước hễ cứ thấy một triều đại nào đó không phải thiên triều thường nhận luôn đó là triều đại chính thống của mình. Và ngẫu nhiên thay, trong suốt quá trình lịch sử nước ta, chỉ duy nhất nhà nước Nam Việt nằm vào vị thế như vậy.
Nhận thức sai lầm về nguồn gốc dân tộc.
Dưới triều Nguyễn, có một bộ sách được dày công biên soạn là Đại Nam Thực lục. Bộ sách này phản ánh lịch sử triều đại nhà Nguyễn trải qua các triều vua. Đồng thời, như tiêu đề bộ sách, nó còn ghi chép rất nhiều điều về xã hội nước ta dưới triều đại ấy. Có thể kể đến như dân cư, xã hội, kinh tế, một chút về đặc sắc văn hóa, danh lam thắng cảnh. Như vua Tự Đức từng ra chỉ dụ: “Đã gọi là Thực lục, thì các việc cứ thực mà chép, cho có trước sau thứ tự, mới là tín sử”. Đáng chú ý là thông qua các ghi chép trong bộ sách này, các nhà sử học hiện nay đã gián tiếp hiểu được thế giới quan nhận thức của các tầng lớp tinh hoa lãnh đạo nước ta trong thời kỳ phong kiến. Cụ thể, tầng lớp vua quan ta ngày trước dù là người Kinh, song lại không tự nhận như vậy. Họ tự gọi mình là "Hán nhân", cho rằng người Kinh vốn di cư từ phương Bắc xuống, văn hóa cũng có gốc từ thời Hán mà làm dựng nên. Trong khi đó, những người gốc Hoa lại được gọi là những người Minh Hương, theo quê hương nhà Minh của họ. Còn đối với các dân tộc thiểu số ở Tây Nguyên và Nam bộ như Ê đê, Gia rai, Khơ me, vân vân thì lại được gọi bằng những cái tên là thổ, man, di và coi các cuộc đi chinh phạt mở đất là đi khai phá văn minh cho các dân tộc đó.
Hiện tượng tâm lý kỳ lạ này không chỉ được tìm thấy trong chính sử. Trong các ghi chép lẻ tẻ của các nhà truyền giáo phương Tây, các thương buôn nước ngoài và các sứ quan cũng cho thấy điều tương tự.
Nó cho thấy một xã hội bị phân hóa rất sâu về nhận thức giữa tầng lớp vua quan thống trị với tầng lớp bần nông áo vải. Trong khi vua quan xưa trọng nho giáo, luôn đề cao chữ Hán, lễ nghi thì trong dân gian lại thích dùng chữ Nôm, thờ đạo tứ phủ và tự cải biên các nề thói nho giáo cho phù hợp với nếp nghĩ của mình. Có thể thấy rõ sự khác biệt giai tầng này thông qua các chỉ dấu. Tất cả các bộ quốc sử đều dùng chữ Hán để ghi lại. Trong khi văn học dân gian lại hay dùng chữ nôm vì tính nôm na dễ hiểu của nó. Giới văn nhân mặc khách bình thường ngâm thơ phú họa với nhau thì nôm na, đến khi gặp việc trọng đại, in thơ, viết điếu lại đều dùng chữ Hán. Họ cho rằng chữ Hán mới là thượng đẳng. Ai đó dù có tài năng thơ phú đến đâu mà chưa có một tập Hán văn để lưu truyền thì chưa thể gọi là tài tử. Trong tín ngưỡng dân gian cũng vậy, dù cho tín ngưỡng thờ mẫu tứ phủ mới là tín ngưỡng thuần Việt. Song vì đề cao nho giáo, tín ngưỡng này từng nhiều lần bị liệt vào dị giáo tín mê.
Nguyên nhân của hiện tượng tâm lý sùng Hán bài Việt này trong giới vua quan quý tộc là do:
Một, các tồn dư Hán hóa suốt một nghìn năm Bắc Thuộc chưa gột sạch hết.
Hai là sự phụ thuộc vào hệ tư tưởng của người phương Bắc. Sự phụ thuộc này còn thấy rõ qua độ trễ trong tiếp nhận hệ tư tưởng. Đời Lý Trần coi văn hóa đời Đường là mẫu mực, đời Lê thích lấy văn hóa Tống để noi theo, trong khi thời Nguyễn lại nhìn vào Minh triều để học tập
Ba là do dòng người phương Bắc chạy nạn xuống nước ta. Họ vốn tinh thông Hán học nên dễ dàng len lỏi vào bộ máy quan lại. Từ đó mà dần củng cố cho quan điểm dân tộc ta từ phương Bắc di cư xuống, văn hóa ta cũng gốc văn hóa Hán mà gây dựng nên.
Rõ ràng, những nhận thức đó ngày nay đã bị bác bỏ hoàn toàn, coi là cổ hủ. Người viết nhận thấy, với việc các cụ nhà ta tự nhận mình là Hán nhân thì việc công nhận nhà nước Nam Việt cũng chẳng có gì là lạ. Dù cho đó chỉ là nhận thức ở tầng lớp vua quan quý tộc vốn chỉ là thiểu số trong cộng đồng. Nhưng dù sao, đó cũng là tầng lớp tinh hoa của dân tộc, quan điểm của họ là chính thống trong thời kỳ đó.
Như vậy, nguyên nhân khiến Nam Việt trở thành một nhà nước chính thống chính là mối quan hệ tương hỗ bổ trợ của thuyết Thiên mệnh, tư duy nhị nguyên Phi Hoa Tất Việt và nhận thức sai về nguồn gốc và bản chất dân tộc.
Ở bài sau, chúng ta sẽ cùng tìm hiểu hệ thống phân loại của nhà nước Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam hiện tại để hiểu được nguyên nhân Nam Việt trở thành một triều đại ngoại thuộc. Mong các bạn chú ý đón đọc.