Chào các bạn. Dạo gần đây trên không gian mạng xảy ra rất nhiều cuộc tranh luận liên quan đến việc có nên công nhận nhà nước Nam Việt của Triệu Đà là nhà nước chính thống của nước ta hay không. Nhiều cuộc tranh luận rất sôi nổi, thậm chí còn dẫn tới miệt thị, chửi bới lẫn nhau chỉ vì bất đồng quan điểm. Nhận thấy chủ đề này thực sự rất khó nhằn. Nay, từ những hiểu biết có phần nông cạn của mình, xin thử phân tích tính đúng sai của chủ đề này, mong phần nào kết lại, tránh gây mất đoàn kết trong cộng đồng. Bài viết này chỉ là ý kiến chủ quan nên còn nhiều thiếu sót. Mong các bạn góp ý.
I. Hệ thống phân loại của người xưa
Thứ nhất, thế nào là một triều đại chính thống? Để đi đến vấn đề này thì cần lật ngược lại mà hỏi rằng, tại sao lại phải phân biệt triều đại chính thống với triều đại ngoại thuộc. Để giảm tải chương trình học lịch sử cho học sinh ư? Không. Không phải như vậy. Mọi quốc gia trên thế giới này, từ khi hình thành nhà nước đều luôn phân biệt đâu là chính thống, đâu là không chính thống. Bởi vậy mới có khái niệm chính sử để phân biệt với ngoại sử. Việc phân định này vốn thuộc phạm trù quan điểm lịch sử, và nó gần gũi với mảng chính trị - triết học hơn là với bộ môn khoa học lịch sử. Lịch sử đơn thuần chỉ bao gồm và đúng ra nên chỉ bao gồm các dòng sự kiện đi kèm theo các mốc thời gian. Nhưng nếu như vậy thì còn có gì để mà nghiên cứu, cái đó chỉ có thể gọi là khảo cứu vì các nhà sử học chỉ đi tìm sự thật, không lôi kéo các vấn đề chính trị vào lịch sử. Và như bao ngành khoa học khác, lịch sử cũng bị cuốn vào guồng quay của thời đại. Nó luôn đi song hành với từng triều đại, từng nhà nước, trở thành công cụ của nhà nước hiện thời. Vấn đề nhà nước Nam Việt cũng vậy. Dù có công nhận là nhà nước chính thống hay không thì trong  thời kỳ đó, đã có một triều đại ngự trị trên mảnh đất này. Đã đến đây rồi, bạn nào còn giữ tư duy nghiên cứu lịch sử thuần lịch sử có thể dừng đọc bài này đi mà làm việc có ích hơn. Còn bạn nào muốn tiếp tục đi sâu vào chủ đề rối rắm này thì xin mời tiếp tục.
Từ tiền đề trên mới thấy, các triều đại phân biệt chính thống hay không chính thống chủ yếu là ở tính kế thừa. Khi một nhà nước công nhận một triều đại là chính thống, nghĩa là nhà nước đó muốn kế thừa di sản mà triều đại đi trước kia để lại. Thường là đất đai và truyền thống văn hóa.
Thứ hai, sự thật lịch sử. Trước hết, trong thời phong kiến ở nước ta, chí ít là ở ba triều đại lớn: Trần, Hậu Lê và Nguyễn, nhà nước Nam Việt luôn là nhà nước chính thống được công nhận. Như trong Bình Ngô Đại Cáo, Nguyễn Trãi có viết từ “Triệu, Đinh, Lý, Trần bao đời gây nền độc lập. Cùng Hán, Đường, Tống, Nguyên mỗi bên xưng đế một hương”. Trong Đại Việt sử ký đời Trần, Đại Việt sử ký toàn thư đời Hậu Lê hay các sách do Quốc sử quán triều Nguyễn biên soạn đều ghi như vậy. Các triều đại trước như nhà Lý, Đinh, v.v, thì không rõ có như vậy không. Một phần vì không có thư tịch từ các đời đó truyền lại, phần vì theo suy đoán, các triều đại đó mới dựng nền tự chủ, có lẽ chưa có quan điểm lịch sử rõ ràng. Vậy thì tại sao đến ngày nay nhà nước Nam Việt lại bị bác bỏ khỏi dòng chảy chính thống trong lịch sử Việt Nam.
Ở đây có bạn nào học các môn khoa học chắc đều biết. Để phân loại bất kỳ một danh sách nào, chúng ta đều phải đưa ra các tiêu chí để sàng lọc chúng. Lịch sử cũng là một môn khoa học, và thực sự đó là cách mà việc phân loại chính thống hay ngoại thuộc hoạt động. Các cụ nhà ta xưa dù có lạc hậu, song cũng biết đưa ra các tiêu chí để nhặt chọn đâu là triều đại của ta, đâu là triều đại của người phương Bắc. Ngày nay cũng vậy. Các nhà sử học ngày nay cũng có những tiêu chí của riêng mình. Vậy thì hẳn là bộ tiêu chí của chúng ta ngày nay phải khác với các cụ ngày xưa nên Nam Việt mới bị bay màu. Vậy thì, xưa kia các cụ đã phân loại như thế nào. Để giải đáp vấn đề này chúng ta phải quay ngược thời gian mới mong hiểu được.
A.Thuyết Thiên Mệnh
Học thuyết thiên mệnh là một học thuyết cổ xưa phản ánh thế giới quan của con người cổ đại. Không biết nó ra đời từ khi nào nhưng có thể chắc chắn đó là học thuyết đầu tiên được các bậc đế vương sử dụng để nâng cao tính chính danh của triều đại mình. Theo học thuyết này, mọi vật đều vận động theo các quy luật tự nhiên, vốn đã có sự an bài của thiên ý hay ý trời. Thuận trời thì sống, chống trời thì chết. Mọi cuộc khởi nghĩa, binh biến đều dựa vào 2 chữ này mà thu phục nhân tâm. Đây là học thuyết chủ đạo của cả nền văn hóa Á Đông nói chung chứ không chỉ ở Việt Nam ta. Dù vậy chúng ta cũng có thể suy đoán rằng học thuyết này du nhập vào nước ta từ các cuộc xâm lăng của người phương Bắc. Tuy nhiên, càng về sau này, các triều đại phong kiến phương Bắc bắt đầu nhận ra những điểm yếu chí tử trong học thuyết này. Một thế lực nào đó hoàn toàn có thể lợi dụng thiên mệnh để làm phản. Không từ thủ đoạn, tất cả đều có thể lấy danh nghĩa là tuân theo thiên mệnh để biện minh. Từ đó, học thuyết này được phát triển lên trở thành thiên mệnh chính thống. Ban đầu Thiên mệnh chính thống được hiểu là nắm giữ vùng đất trung nguyên rộng lớn với ý nghĩa giữ được trung nguyên là chiếm được thiên hạ, được quyền hiệu triệu thần linh quỷ thần. Bởi vậy, trong lịch sử hàng ngàn năm của Trung Hoa, các thế lực cát cứ luôn chăm chăm mục tiêu chiếm được vùng đất ở trung tâm vùng đồng bằng châu thổ rộng lớn để mưu cầu đại nghiệp. Khi du nhập vào nước ta, vùng đất linh thiêng nắm giữ thiên mệnh chính là thành Thăng Long hay rộng hơn là vùng đồng bằng sông Hồng màu mỡ, dân cư đông đúc. Tuy nhiên, đến thế kỷ 12, với việc triều đình nhà Tống phải rút khỏi vùng đồng bằng phía bắc, lui về vùng đồng bằng Hoa Nam lập ra nhà Nam Tống. Học thuyết này có một sự biến đổi mạnh mẽ. Không còn là Thiên mệnh gắn liền với đất đai nữa mà là thiên mệnh gắn liền với huyết thống. Theo đó, việc chiếm được vùng đất kinh đô cũng không đảm bảo cho tính chính danh của triều đại. Chính huyết thống đế vương mới là điều kiện hàng đầu. Học thuyết này dù ra đời sau nhưng lại được cổ vũ bởi giới sử quan khắp cả đông Á từ đó đến sau này và trở thành học thuyết quan trọng bậc nhất nhằm xác định tính chính danh của một triều đại. Minh chứng rõ nhất chính là trong bộ tiểu thuyết Tam Quốc Diễn Nghĩa nổi tiếng của La Quán Trung. Trước La Quán Trung, đã có rất nhiều bộ sách viết về thời kỳ tam quốc, tất cả đều lấy nhà Ngụy làm chính thống, các nhà Ngô, Thục chỉ được coi là các thế lực cát cứ. Chỉ đến Tam Quốc Diễn Nghĩa, nhà Thục Hán mới được tính là chính danh vì huyết thống đế vương của họ Lưu. Chắc các bạn còn nhớ cuộc đối luận trong bộ tiểu thuyết này khi Gia Cát Lượng biện luận trước ba quân với Quan tư đồ Vương Lãng. Dù chi tiết này chỉ là hư cấu, song nó là đoạn đối luận kinh điển thể hiện sự đối trọi giữa hai học thuyết Thiên mệnh trung tâm và thiên mệnh huyết thống.
Khi du nhập vào nước ta, học thuyết này cũng được các triều đại phong kiến nước ta triệt để sử dụng. Chẳng phải thế mà Lê Lợi phải tôn một người họ Trần làm vua để chính danh đánh giặc. Rồi khi đã nắm quyền, mỗi triều đại ở nước ta đều phải vội vã phái người sang thiên triều phương Bắc để xin cho được một sắc phong vương, lấy đó làm chính danh để bố cáo với thiên hạ trong nước.
B. Tư duy nhị nguyên: Phi Hoa tất Việt
Đây có lẽ là điều đáng trăn trở nhất trong nếp nghĩ của dân ta từ xưa đến nay. Có lẽ vì phải tiếp xúc với người Trung Hoa quá nhiều, tiếp nhận quá nhiều ảnh hưởng của họ. Đến mức vừa kiêng nể, vừa khinh thường mà sinh ra tâm lý nếu có một cái gì đó mà người Hán Hoa Hạ không nhận là của họ thì ắt nó thuộc về ta. Trong chuyện phân loại chính thống cũng vậy. Trong tất cả các triều đại đã từng cai trị trên đất nước ta, các sử quan đời trước hễ cứ thấy một triều đại nào đó không phải thiên triều thường nhận luôn đó là triều đại chính thống của mình. Và ngẫu nhiên thay, trong suốt quá trình lịch sử nước ta, chỉ duy nhất nhà nước Nam Việt nằm vào vị thế như vậy.
C. Nhận thức sai lầm về nguồn gốc dân tộc.
Dưới triều Nguyễn, có một bộ sách được dày công biên soạn là Đại Nam Thực lục. Bộ sách này phản ánh lịch sử triều đại nhà Nguyễn trải qua các triều vua. Đồng thời, như tiêu đề bộ sách, nó còn ghi chép rất nhiều điều về xã hội nước ta dưới triều đại ấy. Có thể kể đến như dân cư, xã hội, kinh tế, một chút về đặc sắc văn hóa, danh lam thắng cảnh. Như vua Tự Đức từng ra chỉ dụ: “Đã gọi là Thực lục, thì các việc cứ thực mà chép, cho có trước sau thứ tự, mới là tín sử”. Đáng chú ý là thông qua các ghi chép trong bộ sách này, các nhà sử học hiện nay đã gián tiếp hiểu được thế giới quan nhận thức của các tầng lớp tinh hoa lãnh đạo nước ta trong thời kỳ phong kiến. Cụ thể, tầng lớp vua quan ta ngày trước dù là người Kinh, song lại không tự nhận như vậy. Họ tự gọi mình là "Hán nhân", cho rằng người Kinh vốn di cư từ phương Bắc xuống, văn hóa cũng có gốc từ thời Hán mà làm dựng nên. Trong khi đó, những người gốc Hoa lại được gọi là những người Minh Hương, theo quê hương nhà Minh của họ. Còn đối với các dân tộc thiểu số ở Tây Nguyên và Nam bộ như Ê đê, Gia rai, Khơ me, v.v, thì lại được gọi bằng những cái tên là thổ, man, di và coi các cuộc đi chinh phạt mở đất là đi khai phá văn minh cho các dân tộc đó.
Hiện tượng tâm lý kỳ lạ này không chỉ được tìm thấy trong chính sử. Trong các ghi chép lẻ tẻ của các nhà truyền giáo phương Tây, các thương buôn nước ngoài và các sứ quan cũng cho thấy điều tương tự.
Nó cho thấy một xã hội bị phân hóa rất sâu về nhận thức giữa tầng lớp vua quan thống trị với tầng lớp bần nông áo vải. Trong khi vua quan xưa trọng nho giáo, luôn đề cao chữ Hán, lễ nghi; thì trong dân gian lại thích dùng chữ Nôm, thờ đạo tứ phủ và tự cải biên các nề thói nho giáo cho phù hợp với nếp nghĩ của mình. Có thể thấy rõ sự khác biệt giai tầng này thông qua các chỉ dấu sau. Tất cả các bộ quốc sử đều dùng chữ Hán để ghi lại. Trong khi văn học dân gian lại hay dùng chữ nôm vì tính nôm na dễ hiểu của nó. Giới văn nhân mặc khách bình thường đối thơ, thi phú họa với nhau thì nôm na, đến khi gặp việc trọng đại như: in thơ, viết điếu lại đều dùng chữ Hán. Họ cho rằng chữ Hán mới là thượng đẳng. Ai đó dù có tài năng thơ phú đến đâu mà chưa có một tập Hán văn để lưu truyền thì chưa thể gọi là tài tử. Trong tín ngưỡng dân gian cũng vậy, dù cho tín ngưỡng thờ mẫu tứ phủ mới là tín ngưỡng thuần Việt. Song vì đề cao nho giáo, tín ngưỡng này từng nhiều lần bị liệt vào dị giáo tín mê.
Nguyên nhân của hiện tượng tâm lý sùng Hán bài Việt này trong giới vua quan quý tộc là do:
Một, các tồn dư Hán hóa suốt một nghìn năm Bắc thuộc chưa gột sạch hết.
Hai là sự phụ thuộc vào hệ tư tưởng của người phương Bắc. Sự phụ thuộc này còn thấy rõ qua độ trễ trong tiếp nhận hệ tư tưởng. Đời Lý - Trần coi văn hóa đời Đường là mẫu mực, đời Lê thích lấy văn hóa Tống để noi theo, trong khi thời Nguyễn lại nhìn vào Minh triều để học tập
Ba là do dòng người phương Bắc chạy nạn xuống nước ta. Họ vốn tinh thông Hán học nên dễ dàng len lỏi vào bộ máy quan lại. Từ đó mà dần củng cố cho quan điểm dân tộc ta từ phương Bắc di cư xuống, văn hóa ta cũng gốc văn hóa Hán mà gây dựng nên.
Rõ ràng, những nhận thức đó ngày nay đã bị bác bỏ hoàn toàn, coi là cổ hủ. Người viết nhận thấy, với việc các cụ nhà ta tự nhận mình là Hán nhân thì việc công nhận nhà nước Nam Việt cũng chẳng có gì là lạ. Dù cho đó chỉ là nhận thức ở tầng lớp vua quan quý tộc vốn chỉ là thiểu số trong cộng đồng. Nhưng dù sao, đó cũng là tầng lớp tinh hoa của dân tộc, quan điểm của họ là chính thống trong thời kỳ đó.
Như vậy, nguyên nhân khiến Nam Việt trở thành một nhà nước chính thống chính là mối quan hệ tương hỗ bổ trợ của: thuyết Thiên mệnh, tư duy nhị nguyên Phi Hoa Tất Việt và nhận thức sai về nguồn gốc và bản chất dân tộc.
II. Hệ thống phân loại của nền sử học nhà nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam hiện nay.
 Như đã đề cập ở bài trên, việc phân định chính thống hay ngoại thuộc nhằm chọn lựa ra yếu tố muốn kế thừa từ một triều đại. Điều này liên quan mật thiết đến các yếu tố mà nhà nước hiện tại muốn đề cao, cũng như muốn trở thành đặc tính của cả dân tộc mà phát triển lên.
Cũng như các thời kỳ trước, chúng ta lại phải bám sát vào các đặc tính của dân tộc mà nhà nước hiện nay muốn gìn giữ và phát triển để đi sâu phân tích thì mới ra được vấn đề. Trong nhiều đặc tính của dân tộc, những đặc tính quan trọng nhất có thể kể đến là: lòng yêu nước, tự lực tự cường, hoà hiếu, bất khuất và chăm chỉ lao động,... Hệ thống phân loại phải luôn bám sát vào các đặc tính dân tộc đó xây dựng lên các tiêu chí để làm chuẩn.
Hệ thống phân loại hiện nay kể lể thì dài dòng nhưng nếu tóm gọn lại thì chỉ có ba chữ: Dân Làm Gốc. Nó trở thành nền tảng và là kim chỉ nam cho mọi sự phát triển văn hoá mà nhà nước hiện nay muốn định hướng. Và người đặt nền tảng cho hệ thống nhận thức văn hoá này không ai khác, chính là chủ tịch Hồ Chí Minh vĩ đại.
Theo đó một triều đại muốn được công nhận là chính thống thì triều đại đó phải có:
Thứ nhất, nền tảng văn hoá phải lấy nền văn hoá dân tộc ta để phát triển lên. Khi suy tàn thì dân tộc ta cũng phải là người được thừa kế di sản văn hoá đó. Nói cách khác, đây là sự tự chủ về văn hoá. Nhưng nó thường gắn liền với sự tự chủ của giới cầm quyền. Nghĩa là tầng lớp vua quan của ta phải có nguồn gốc từ chính dân tộc ta.
Thứ hai, tầng lớp lãnh đạo phải gắn bó với lợi ích dân tộc, lấy dân làm trọng tâm cho mọi hành động.
Thứ ba, phải để lại cho hậu thế những bài học truyền thống hoặc đức tính quý báu dần trở thành đặc trưng của dân tộc.
Có thể thấy, hệ thống tiêu chí này bao quát hơn. Nó chú trọng vào yếu tố văn hoá và kế thừa truyền thống tốt đẹp. Các yếu tố như đất đai lãnh thổ hay hệ thống tư tưởng dần mờ nhạt và được cài cắm vào những tiêu chí rộng lớn hơn. Nó bám sát vào tinh thần chủ đạo lấy Dân Làm Gốc.
Giờ chúng ta cùng phân tích để thấy rõ vì sao nhà nước Nam Việt của nhà Triệu bị bác bỏ khỏi dòng chính thống.
Nguyên nhân đầu tiên dễ nhận thấy nhất chính là nền văn hoá mà triều đại này mang đến cho nước ta là một nền văn hoá ngoại lai hoàn toàn đến từ phương Bắc. Từ phong tục tập quán đến mô hình nhà nước đều khác xa hoàn toàn nếu so với hai nhà nước tiền nhiệm là Văn Lang và Âu Lạc. Đáng chú ý nhất, dù đây có coi là sự phát triển nhưng không phải từ nội tại dân tộc ta phát triển nên mà là du nhập từ bên ngoài vào.
Thứ hai, là tính kế thừa. Điều này có dính dáng một chút tới vấn đề lãnh thổ. Như ta đã biết, kinh đô của Nam Việt nằm tại thành Phiên Ngung tận bên đất Quảng Đông. Không nằm trong địa giới nước ta hiện nay và cũng tất nhiên không nằm trong vùng đất của hai dân tộc Âu Việt và Lạc Việt xưa. Trong khi kinh đô của một quốc gia luôn là nơi tập trung tầng lớp lãnh đạo của một quốc gia hay còn gọi là “giới tinh hoa”. Là nơi kết tụ những gì tinh túy nhất về mọi mặt. Mọi sự phát triển đều khởi đầu từ đây. Điều này dẫn đến hai hệ quả. Thứ nhất, vì không nằm trong đất của dân tộc ta nên trong thời kỳ tồn tại của Nam Việt, sự can thiệp của dân ta vào nội trị của triều đại này rất hạn chế. Điều này vi phạm về tính tự chủ của dân tộc. Thứ hai là về sự kế thừa văn hoá. Cũng giống như tinh hoa con người, tính hoa văn hoá cũng sẽ ngưng tụ tại kinh đô. Việc kinh đô Phiên Ngung nằm ngoài địa hạt của tộc Lạc Việt vừa cho thấy văn hoá triều đại này không phải được phát triển trực tiếp từ văn hoá Lạc Việt. Mặt khác, mọi tinh hoa văn hoá mà trong chín mươi ba năm mà nhà nước này phát triển được, đến khi suy tàn thì cũng không phải được tộc Lạc Việt trở thành những người kế thừa. Người thừa kế nền văn minh Nam Việt nói rộng thì là nhân dân vùng Quảng Đông, hẹp thì là dân cư kinh đô Phiên Ngung thời đó. Hãy thử tưởng tượng thế này. Nếu như công nhận Nam Việt, thì trong lịch sử văn hoá của nước ta sẽ xuất hiện một vết đứt gãy lớn. Có một triều đại tồn tại nhưng lại không thể tìm được vết tích văn hoá. Ngược lại, nếu bác bỏ Nam Việt, coi như ngoại thuộc, mạch văn hoá coi như liền mạch nối từ Âu Lạc tới Trưng nữ Vương. Điều này vô cùng hợp lý.
Nguyên nhân thứ ba là về các truyền thống tốt đẹp lưu lại cho hậu thế. Phải thừa nhận là tất cả các triều đại, dù là tự chủ hay ngoại thuộc, đều ít nhiều có những truyền thống tốt đẹp đáng để lưu truyền. Song, nhà nước Nam Việt trong suốt quá trình tồn tại của nó lại để lại một vài đặc tính không tốt, từ đó làm vị thế chính thống của nó bị lung lay.
Một là tính phản trắc. Nguồn gốc của Nam Việt, vốn được dựng lên từ một bộ tướng nhà Tần, đi chinh phạt mà tự lập nước xưng vương. Trong khi nhà Tần đang trong cơn hoạn nạn, chính quyền Nam Việt không những không cứu giá mà còn lợi dụng thời cơ để tăng cường ảnh hưởng, chiếm thêm đất đai lãnh thổ. Hơn thế, khi tiến hành các cuộc chính phạt lại luôn lấy danh nghĩa nhà Tần để tiến quân. (Triệu Đà lập Nam Việt trước, sau mới đánh Âu Lạc. Dù đã tự lập là Nam Việt Vương nhưng khi đánh Âu Lạc vẫn dùng cờ xí nhà Tần).Xét theo tiêu chuẩn nho giáo xưa, đây là tội lớn. Còn như ngày nay, điều này cũng là không tốt, không nên học theo. Các sự kiện ly khai đang là mối hoạ bất ổn trên thế giới mà nhà nước ta luôn kịch liệt phản đối.
Tính hiếu chiến, tham lam, gian giảo. Trong thời kỳ đầu tồn tại, dưới sự lãnh đạo của Triệu Đà, quân Nam Việt không ít lần chủ động phát động tiến đánh vùng đất của nhà Hán. Khi đó nhà Hán mới lập, thế đứng còn chưa vững. Sau này, nhận ra không đủ lực đối chọi, bèn quay ra xin thần phục. Điều này không hợp với đạo nghĩa hoà hiếu của dân tộc ta và cùng có chút thủ đoạn, ma giáo.
Tính bất tín. Nam Việt cho kết thông gia với Âu Lạc nhằm liên minh chống Hán, Sở. Rồi lại cất quân diệt Âu Lạc. Đó là điều bất tín. Ngày này giới sử học cho rằng, cuộc hôn nhân chính trị này nằm trong toan tính của Triệu Đà. Khiến cho  An Dương Vương lơi lỏng mặt đông, đưa quân trấn thủ mặt bắc rồi bị đánh úp mà bại trận.
Tính bất nhất, thiếu trung thực, dùng người lại không tin người. Triệu Đà khi mới lập nước Nam Việt, thân tín đi cùng vốn cũng xuất thân từ phương Bắc, theo Triệu Đà đi chinh phạt. Sau vì Triệu Đà có hành động phản trắc, tự ý xưng vương, đánh mất lòng trung. Quan quân dưới quyền luôn tỏ ra bất mãn. Triệu Đà nhận ra, sợ bị họ nổi dậy giành binh quyền mà dần dần thay thế họ bằng các tộc trưởng địa phương. Ông đề ra chính sách Hoà Tập Bách Việt để thu phục lòng dân sở tại. Tuy nhiên, Triệu Đà lại tỏ rõ thái độ khinh miệt đối với nhân dân các bộ tộc này. Trong sử ký của Tư Mã Thiên có trích lại lá thư Triệu Đà gửi cho Lã Hậu. Trong đó, ông đã tỏ rõ sự miệt thị, gọi dân xứ đó là man di và xin Lữ Hậu cho dân phương Bắc di cư xuống để đồng hoá. Chính bằng chứng này là nguyên nhân căn bản nhất khiến Nam Việt không thể được công nhận. Bởi nó đi ngược lại hoàn toàn cái cốt văn hoá Dân Làm Gốc mà nhà nước hiện nay muốn xây dựng.
Phân tích đến đây, người viết nhận thấy, với những đặc tính kể trên, thật khó để một quốc gia nào hiện nay có thể công nhận Nam Việt như là một nhà nước chính thống của mình. Bởi không một nhà nước nào muốn nhân dân của mình dựa vào những dấu ấn đó làm tiêu chuẩn của hành động.
Như vậy. Nguyên nhân khiến Nam Việt bị bác bỏ khỏi dòng chảy chính thống của Việt Nam bao gồm: có nguồn gốc ngoại lai, không kế thừa được văn hoá và sở hữu những đặc tính mà thời đại hiện nay không muốn noi theo.
Con người Việt Nam luôn trân trọng quá khứ. Nhưng để đưa lên bàn cân thì dân ta vẫn luôn coi trọng tương lai hơn là những dĩ vãng xa xôi. Việc phân định hiện nay có lợi cho sự phát triển của đất nước trong cả hiện tại và tương lai.
III. Giải đáp một vài câu hỏi và phản biện một vài quan điểm.
 Câu hỏi thứ nhất:
Nếu không công nhận Nam Việt chỉ vì lý do ngoại lai thì có bất công với triều đại này không? Trung Quốc hiện nay cũng công nhận những triều đại như nhà Nguyên hay Mãn Thanh làm triều đại chính thống của họ. Dù người Thát và người Mãn vốn cũng chỉ là những kẻ ngoại lai xâm lược vùng đất của người Hán.
Trả lời:
Quan điểm này sai ở hai điểm cơ bản.
Thứ nhất, mỗi nước có một hệ thống phân loại của riêng mình. Nước ta khác, nước Tàu khác. Cái thời nước ta phải phụ thuộc vào hệ tư tưởng của người Trung Hoa đã qua rồi. Cha ông ta dưới thời đại Hồ Chí Minh vĩ đại đã phải đánh đổi biết bao nhiêu xương máu, chả nhẽ không thể đổi được một sự tự chủ trong tư tưởng hay sao, mà giờ đây lại nghĩ: nhất nhất gì cũng nghe theo người Trung Quốc, học theo họ cả ở nếp nghĩ.
Thứ hai, sai ở cách hiểu. Hệ thống phân loại của Trung Quốc khác nước ta. Tuy nhiên, nếu cố tình bê vào để áp dụng ở nước ta thì nhà nước Nam Việt vẫn không thể trụ lại trong dòng chảy chính thống. Nguyên do là bởi:
Thứ nhất,  trong cộng đồng nhân dân Trung Quốc hiện nay vẫn còn con cháu trực hệ của hai triều đại Nguyên, Thanh.
Thứ hai, Người Mãn và người Thát vốn cũng đã góp mặt trong tiến trình lịch sử Trung Hoa từ trước khi hai triều đại Nguyên, Thanh thành lập.
Thứ ba, trong suốt quá trình phát triển của hai triều đại này, họ cũng luôn khẳng định họ kế thừa hai triều đại trước đó, là nhà Tống và nhà Minh trong việc nắm giữ vai trò thiên triều.
Ngược lại, nhà nước Nam Việt không có được điều đó.
Thứ nhất, trước khi Triệu Đà cất quân đến Âu Lạc, người Hoa Hạ chưa từng ở đây.
Thứ hai, ngày nay, tại đất Việt Nam này, không hề tồn tại con cháu trực hệ của triều đại này. Những người gốc Trung Hoa ở nước ta, phần lớn đến từ triều đại nhà Minh, xưa gọi là người Minh Hương. Họ không hề nhận là con dân dưới sự cai trị của nhà nước Nam Việt.
Thứ ba, trong quá trình tồn tại của Nam Việt, triều đại này chưa hề khẳng định sự kế thừa đối với nhà nước Âu Lạc. Coi Âu Lạc là chính thống.Từ đó mà mất đi sự tiếp nối tính chính thống.
Tất nhiên đây chỉ là luận giải theo học thuyết của Trung Quốc hiện đại nếu như nước ta áp dụng. Trên thực tế, nước ta có hệ thống tư tưởng của riêng mình. Không phải vay mượn. Chúng ta chỉ giống họ ở điểm, dần dần loại bỏ yếu tố nguồn gốc dân tộc về di truyền trong hệ thống phân loại. Bởi ngày nay, phần lớn các quốc gia trên thế giới đều đã trải qua một quá trình lịch sử lâu dài và phức tạp, nhà nước hiện đại nào cũng từng có dấu vết của ngoại tộc. Làm lu mờ và dần thay thế nó bằng yếu tố văn hoá là một xu thế tất yếu.
Câu hỏi thứ hai:
Nên công nhận nhà nước Nam Việt vì cuộc chiến Âu Lạc - Nam Việt nên coi là cuộc nội chiến của các dân tộc Bách Việt. Nếu coi Nam Việt xâm lược Âu Lạc thì cuộc chiến Âu Việt - Lạc Việt phải hiểu thế nào?
Trả lời:
Đúng như câu hỏi,  một cuộc chiến tranh muốn được công nhận là nội chiến phải được diễn ra trên nền tảng một nhà nước thống nhất từ trước. Điều này dẫn tới hai vấn đề.
 Thứ nhất, cái nhà nước thống nhất được lấy làm nền tảng để tính ở đây là nhà nước nào? Cộng đồng Bách Việt chưa từng có một nhà nước thống nhất. Nhà nước Xích Quỷ trong huyền sử đến nay vẫn chưa có đủ cơ sở để khẳng định sự tồn tại của nó. Chủ yếu là do thiếu các thông tin cơ bản như: tổ chức bộ máy nhà nước, các hoạt động thể hiện quyền lực nhà nước và đặc tính văn hoá đặc trưng. Thậm chí, khoa học hiện đại còn bác bỏ sự tồn tại của nó, xếp nó vào huyền sử. Bởi theo ngành khoa học chuyên nghiên cứu  về các mô hình tổ chức nhà nước, ở thời kỳ đó, với mật độ dân số thấp và cách tổ chức cộng đồng còn ban sơ, không thể tồn tại được một nhà nước có đất đai rộng lớn như thế. Phía bắc thì tới Động Đình hồ, phía nam giáp với nước Hồ Tôn, phía tây giáp với Ba Thục, đông giáp biển Nam Hải. Các địa danh được nhắc đến vốn chỉ là ước lệ với nhiều giả thuyết xung quanh. Minh chứng rõ nét nhất cho luận điểm này là các nhà nước hình thành sau này trên lãnh thổ Trung Quốc. Các nhà Hạ, Thương, Chu ban đầu đều sở hữu đất đai nhỏ hơn rất nhiều lần so với diện tích Xích Quỷ theo huyền sử. Nhà Chu sau này mở rộng đất đai đến cực đại tuy nhiên kéo theo đó là sự suy yếu quyền lực của chính nhà Chu. Họ dần dần phải san sẻ quyền lực và cuối cùng chỉ còn quyền lực trên danh nghĩa. Thường xuyên phải thực hiện cắt đất phong Vương, chia sẻ quyền lực mới mong giữ được. Đến thời Tần, dù đã thống nhất được nhưng không thể cai quản được, dẫn tới biến loạn và sụp đổ. Phải đến nhà Hán, với sự cải cách mô hình nhà nước, mới có thể dần dần làm chủ được một vùng diện tích rộng lớn tương đương như vậy.
Vấn đề thứ hai là về niên đại và tính chính danh. Đặt giả sử sau này nhà nước  Xích Quỷ được công nhận là có thật, không còn là huyền sử tưởng tượng thì cũng không thể dùng nhà nước này làm nền tảng để biến cuộc chiến Âu Lạc - Nam thành một cuộc nội chiến, bởi:
Thứ nhất, nhà nước Xích Quỷ tồn tại trong giai đoạn từ năm  2879 đến năm 2524 trước Công Nguyên. Xét theo niên biểu, cuộc chiến Âu Lạc - Nam Việt diễn ra khoảng năm 208 trước Công nguyên hoặc năm 179 trước Công nguyên tùy tài liệu. Các mốc thời gian của cuộc chiến này cách rất xa thời điểm tồn tại của nhà nước Xích Quỷ. Nói cho dễ hình dung thì cuộc chiến tranh Âu Lạc - Nam Việt còn gần chúng ta ngày nay hơn thời kỳ Xích Quỷ. Có nghĩa là, tại thời điểm cuộc chiến tranh nổ ra, nhà nước Xích Quỷ đã tan rã từ rất lâu. Cuộc chiến không nổ ra trên nền tảng của một nhà nước sẵn có nên không thể gọi là nội chiến.
Thứ hai, nhà nước Xích Quỷ sau khi tan rã đã hình thành nên một loạt các quốc gia nhỏ hơn. Trong các nhà nước ấy, thì đâu là nhà nước hậu duệ chính danh của Xích Quỷ? Chúng ta không biết. Nhưng chúng ta biết một điều. Cả hai nhà nước Âu Lạc và Nam Việt đều không tự nhận là hậu duệ chính thống của Xích Quỷ. Đồng thời cũng không giơ cao ngọn cờ nhân danh Xích Quỷ để thống nhất đất đai lãnh thổ. Vậy thì làm sao có thể coi là nội chiến cho được.
Nói thêm về việc phân loại nội chiến với xâm lược. Các cuộc chiến Âu Việt - Văn Lang và  Âu Lạc - Nam Việt, xét theo tiêu chuẩn hiện nay đều phải coi là xâm lược. Duy chỉ có cuộc chiến Âu Việt - Văn Lang là có những đặc trưng khiến tính chất xâm lược bị giảm nhẹ. Đó là:
Thứ nhất, tại thời điểm cuộc chiến nổ ra, ranh giới giữa hai quốc gia cổ này không rõ ràng, nhiều vùng chồng lấn, xen kẽ lẫn nhau. Dân cư cũng sinh sống xen kẽ nhau nhiều đời. Bằng chứng là các di chỉ khảo cổ cho thấy người Lạc Việt và Âu Việt đã sống cạnh nhau từ rất lâu. Thậm chí cố đô của Âu Việt còn nằm ở tỉnh Cao Bằng nước ta ngày nay.
Thứ hai, nền văn hoá của hai quốc gia này có nhiều điểm tương đồng, nhất là về tổ chức bộ máy nhà nước và nền văn hoá đồng thau phát triển rực rỡ.
Thứ ba là tính kế tục. Âu Lạc kế thừa toàn bộ nét văn hoá của Văn Lang, thậm chí còn chuyển đô về Cổ Loa, nơi vốn thuộc lãnh thổ của Văn Lang cũ. Như vậy, tinh hoa văn hoá mà Âu Lạc phát triển được đều được truyền lại cho dân cư ở đây. Tiêu biểu là kiến trúc thành Cổ loa, truyền thống chống giặc, truyền thuyết nỏ thần, vân vân, tràn ngập trong văn hoá dân gian của tộc Lạc Việt.
Thứ tư, trong cuộc chiến này, theo nhiều tài liệu sử học, một phần cư dân Lạc Việt đã ủng hộ và giúp sức cho Thục Phán chiếm ngôi của Hùng Vương. Đây là nơi học thuyết Dân làm gốc lên tiếng. Dữ kiện lịch sử này khiến cho cuộc chiến Âu Việt - Lạc Việt giống như một cuộc chiến tranh giành ảnh hưởng trên một nền văn hoá tương đồng, dân cư hoà thuận, triều đại sau kế thừa lại triều đại bị lật đổ, nên tính xâm lược bị mất đi.
Điều quan trọng nhất, trong xã hội Việt Nam hiện tại, cộng đồng dân tộc Tày, Nùng vốn là hậu duệ của dân tộc Âu Việt xưa, có số lượng đáng kể, chỉ đứng sau hai dân tộc Kinh, Mường vốn là hậu duệ của Lạc Việt.
Câu hỏi thứ ba:
Có rất nhiều kênh về lịch sử  yêu nước có trích dẫn bài thơ Lịch sử nước ta của chủ tịch Hồ Chí Minh. Trong đó có hai câu thơ nói về Triệu Đà là:
“Triệu Đà là đấng hiền quân.
Quốc danh Nam Việt trị dân năm đời”
Chẳng phải Bác Hồ cũng công nhận Nam Việt là nhà nước chính thống của nước ta hay sao? Tại sao giới sử học hiện nay lại làm trái ý Bác?
Trả lời:
Vấn đề này không khó và có chút bịp bợp ở đây.
Thứ nhất, phải khẳng định là một áng thơ, một bài văn hay ý kiến phát biểu của một ai đó, dù là người nổi tiếng cũng chỉ có thể coi là quan điểm cá nhân của riêng người đó, không phải là quan điểm của nhà nước hay một tổ chức mà người đó tham gia. Do đó bài thơ Lịch sử nước ta của Chủ tịch Hồ Chí Minh dù có nội dung gì cũng không thể hiện quan điểm của Nhà nước ta.
Thứ hai, sự nhập nhèm về thông tin. Người nêu ra câu hỏi đã đưa sót thông tin dẫn tới hiểu sai về quan điểm lịch sử của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Cụ thể như sau:
Bài thơ Lịch sử nước ta được Bác Hồ viết năm 1941, xuất bản lần đầu năm 1942 với đầy đủ nội dung. Sau năm 1945, bài thơ được in lại nhiều lần và bị lược bỏ hai câu thơ nói về Triệu Đà. Bây giờ hãy phân tích một chút.
Lúc Bác Hồ sáng tác bài thơ này, nước ta vẫn chưa giành được độc lập. Trên danh nghĩa, nước ta vẫn ở dưới triều đại phong kiến của nhà Nguyễn, và Bác Hồ khi đó cũng chỉ là một người dân áo vải bình thường mà thôi. Như phần trước đã đề cập, nhà Nguyễn công nhận Nam Việt là một triều đại chính thống. Nên khi Bác Hồ viết bài thơ này để cổ vũ tinh thần yêu nước, thì việc phải viết theo quan điểm lịch sử của nhà Nguyễn là điều bắt buộc.
Sau năm 1945, nước ta đã giành được độc lập, hệ thống tư tưởng của thời đại mới bắt đầu được xây dựng. Bài thơ bắt đầu bị cắt bỏ hai câu thơ nêu trên ở thời kỳ này. Đáng chú ý, lúc đó, Bác vẫn còn sống và đang là chủ tịch nước.
Ở đây, bạn nào làm trong ngành xuất bản chắc điều biết. Một bài thơ, một bản văn khi đã đến với nhà xuất bản thì họ chỉ có hai lựa chọn là: in, hoặc không in. Mọi sửa đổi về nội dung đều phải được tác giả đồng ý mới được phép thực hiện. Chưa kể đến việc lúc đó Bác đang là người quyền lực nhất nước ta. Cho nên không bao giờ có chuyện một ai đó dám tự ý sửa thơ của Bác. Việc bài thơ bị cắt bỏ hai câu thơ phải được hiểu rằng đó chính là ý của Bác, tác giả của bài thơ. Còn việc Bác cắt bỏ đi để làm gì thì như ở bài viết thứ hai cũng đã giải thích. Đó là để phù hợp với hệ thống tư tưởng mới của đất nước mà Bác đã dày công xây dựng.
Đây chính là sự bịp bợp. Hãy tưởng tượng, việc này giống như bạn bị bạn bè mang một sai lầm trong quá khứ từ rất xa xưa để lấy làm đại diện cho bạn ở hiện tại.
Có một câu nói nổi tiếng rằng: “Một nửa cái bánh mì thì là bánh mì, nhưng một nửa sự thật thì không bao giờ là sự thật”. Tôi không biết kênh lịch sử nào lại dẫn bài thơ này làm dẫn chứng để chứng minh Bác Hồ công nhận nhà nước Nam Việt nhưng việc cung cấp chỉ một phần nhỏ sự thật hòng lợi dụng Bác để chia rẽ người xem với nhà nước thì không thể gọi là yêu nước được. Các bạn nên cảnh giác với những kênh như vậy. Riêng cá nhân tác giả thấy mấy kênh như vậy có hơi hướm bị phản động giật dây.
Nói thêm một chút ngoài lề. Cái dấu mốc mùng 2 tháng 9 năm 1945 không chỉ là cái khẩu hiệu suông, được tô vẽ cho đẹp. Đó là dấu mốc sang trang mới của cả dân tộc ta theo đúng nghĩa đen của nó. Từ thời điểm đó, chúng ta đã thực sự rũ bùn đứng dậy sáng loà. Thoát khỏi xiềng xích kìm kẹp thân xác là ở bên ngoài. Còn thoát khỏi cái xiềng xích kìm kẹp bên trong tâm hồn, nhận thức mới thật sự là vĩ đại. Sau mấy nghìn năm, chúng ta mới thực sự được giải phóng trong đầu óc, tâm hồn, không còn phải chịu ảnh hưởng hay nghe theo những hệ tư tưởng của người Trung Quốc. Chúng ta tự xây dựng nên một hệ thống tư tưởng lý luận của riêng mình. Không còn coi nguồn gốc dân tộc là từ người phương Bắc, không còn dùng  thứ chữ của họ như là quốc văn. Và nhất là, không còn gọi Triệu Đà là vua. Đối với nền khoa học lịch sử hiện nay, việc công nhận Triệu Đà trước kia là tàn dư của việc chưa gột sạch hết ảnh hưởng của  Hán hoá. Việc bác bỏ Nam Việt khỏi dòng chảy chính thống là sửa sai cho tiền nhân, để trở về đúng với gốc gác, bản ngã dân tộc.
Câu hỏi thứ tư:
Có quan điểm cho rằng: Việc không công nhận tính chính thống của nhà nước Nam Việt chẳng qua là muốn làm vừa lòng Trung Quốc. Họ sợ chúng ta dựa vào Nam Việt để đòi lại đất ở vùng lưỡng Quảng của họ. Việc đề ra các tiêu chí chỉ là tấm bình phong che đậy sự yếu kém của Nhà nước ta hiện tại mà thôi. Người viết bình luận thế nào về quan điểm này?
Trả lời:
Quan điểm này sai cơ bản về mặt nhận thức và có thể dễ dàng bác bỏ như sau.
Năm 1990, Việt Nam và Trung Quốc bắt đầu đàm phán về vấn đề phân định biên giới trên bộ. Trong quá trình đàm phán, hai bên đã nhất trí lấy Công ước Pháp - Thanh 1887 và Công ước Pháp - Thanh 1895 làm căn cứ chính để tiến hành phân định. Đây là hai văn bản pháp lý duy nhất có kèm bản đồ được quốc tế công nhận lúc bấy giờ.
Như vậy, có thể thấy quan điểm nêu trên sai ở hai điểm:
Thứ nhất, việc phân định biên giới đã có một bản Công ước kèm bản đồ làm chuẩn. Việc công nhận hay không công nhận nhà nước Nam Việt không làm thay đổi việc phân định này. Chúng ta có thể công nhận bất cứ nhà nước nào mà chúng ta muốn, với lãnh thổ bao trùm đến đâu cũng được. Nhưng một khi đã đặt lên bàn đàm phán, mọi thứ đó đều vô giá trị vì chúng ta đã xác định được căn cứ để đàm phán từ đầu. Đã không dựa vào bản đồ nhà nước Nam Việt  để phân định, thì có công nhận hay không cũng không hề ảnh hưởng.
Thứ hai, nói rằng nhà nước hiện tại chỉ vì lãnh thổ Nam Việt chồng lấn với lãnh thổ Trung Quốc ngày nay mà bác bỏ là không biết gì về lịch sử. Các bạn chỉ cần lên google và tìm kiếm bản đồ của nước ta qua các thời kỳ sẽ thấy. Dù lãnh thổ đất đai nhiều lúc biến động rộng hẹp khác nhau, nhưng lúc nào cũng có những vùng lãnh thổ chồng lấn với các quốc gia  xung quanh. Đặc biệt là với Trung Quốc, từ thời nhà nước Văn Lang, Âu Lạc, tới thời Nguyễn, lãnh thổ nước ta đều vượt ra ngoài biên giới hiện nay mà lẻm vào lãnh thổ Trung Quốc, Lào hay Căm Pu chia. Nếu theo quan điểm trên, thì còn các triều đại khác chúng ta vẫn đang công nhận sẽ phải hiểu thế nào cho đúng đây?
Sau cùng, tôi muốn kết lại vấn đề bằng nhận xét. Luận điểm trên thực chất chỉ là suy nghĩ nông cạn của những người bất mãn với chế độ, hay cho rằng nhà nước ta không giữ được đất của cha ông, phải bán đất, bán biển cho Trung Quốc.
Người Việt Nam ta vốn thực thà, có sao nói vậy. Cái gì của mình thì bằng mọi giá phải bảo vệ. Còn cái gì không phải của mình thì tuyệt đối không dòm ngó. Vùng đất bên lưỡng Quảng cũng từng một thời được ghi vào bản đồ cổ của nước ta. Song, đó chỉ được coi là vùng chịu ảnh hưởng. Chủ nhân thực sự của vùng đất đó là nhân dân lưỡng Quảng. Họ cũng sở hữu một nền văn minh rực rỡ không kém gì người Hoa Hạ và người Lạc Việt. Trong suốt quá trình lịch sử của Việt Nam, người Lạc Việt luôn giữ vị thế là dân tộc chủ đạo trong mọi biến cố. Hệ quy chiếu lịch sử luôn phải lấy điểm nhìn là tộc Lạc Việt để đánh giá mọi việc. Các dân tộc ở lưỡng Quảng vốn không đồng cam cộng khổ với chúng ta trong phần lớn thời gian bốn ngàn năm qua. Làm sao có thể coi họ là con dân của ta được.
Câu hỏi thứ năm:
Tại sao lại phải mất công đập đi xây lại hệ tư tưởng làm gì? Cứ lấy tư tưởng của cha ông ta thời phong kiến truyền lại làm chuẩn mực có phải hơn không? Như trong Bình Ngô đại cáo có viết:
“Từ: Triệu, Đinh, Lý, Trần bao đời gây nền độc lập.
Cùng: Hán, Đường, Tống, Nguyên mỗi bên xưng đế một phương.”
Rõ ràng, nhà Triệu nước Nam Việt từng được cha ông ta vào những thời kỳ huy hoàng nhất công nhận. Nay lại bác bỏ thì khác gì chửi thẳng vào mặt tổ tiên? Tại sao không làm như thế này: công nhận mọi triều đại đã được công nhận trong sách chính sử đời trước, sau đó luận công tội mà công nhận thêm các triều đại khác không có trong chính sử?
Trả lời:
Trước hết phải nói rằng, quan điểm này được khá nhiều người Việt hiện nay đồng tình một phần vì nó dễ dàng thực hiện lại không bị mang tiếng là cãi lời tổ tiên. Nay xin phân tích đôi điều để mọi thứ được rõ ràng.
Thứ nhất, như bài viết đầu tiên trong chuỗi bài viết này đã đề cập. Việc xây dựng một hệ thống tư tưởng của thời đại mới là cần thiết, thậm chí là cấp thiết ngay sau khi nước nhà giành được độc lập, bởi các yếu tố sau:
Một là, hệ tư tưởng của cha ông ta đời trước đã lạc hậu với thời cuộc, trở thành vật cản đối với sự phát triển đi lên của dân tộc, đất nước. Đó là hệ tư tưởng đề cao và tôn sùng nho giáo đã kéo nước nhà tụt hậu, trở thành miếng mồi ngon của các thế lực thực dân, và thực tế nước ta đã phải trở thành thuộc địa, hậu quả sâu xa là do sự trì trệ của nho giáo gây nên.
Hai là, đó là một nền tư tưởng vay mượn, luôn luôn chịu sự phụ thuộc vào người Trung Hoa, lấy các triều đại bên thiên triều làm chuẩn mực. Điều này một mặt không phù hợp với thực tế tâm lý xã hội của dân tộc ta, mặt khác về lâu dài sẽ là mầm hoạ gây mất nước.
Bà là, hệ tư tưởng đó đầy rẫy những mâu thuẫn. Mỗi triều đại phong kiến lại có chút khác biệt, chính các sử quan đời sau cũng hay phê phán các sử quan đời trước. Như giữa Ngô Sỹ Liên với Lê Văn Hưu hay giữa Ngô Thì Sỹ với cả hai vị tiền bối kia. Bây giờ, nếu bảo lấy một hệ tư tưởng làm chuẩn để học theo thì lấy của thời nào? Lấy kiểu gì cũng bị chê trách. Lấy ở đâu cũng không hoàn toàn phù hợp với nhận thức của xã hội lúc bấy giờ. Chớ quên, việc loại bỏ nhà Triệu khỏi dòng chính đã manh nha xuất hiện từ thời hậu Lê với Việt Sử Tiêu Án. Đến cuối thời Nguyễn, với việc phong trào dân tộc độc lập nên cao, sự ủng hộ đối với việc loại bỏ nhà Triệu còn lớn hơn nhiều. Một ví dụ khác, nếu như lấy trọn vẹn hệ thống phân loại của triều đại phong kiến cuối cùng là nhà Nguyễn, triều đại được coi là mang những giá trị tiến bộ văn minh hơn cả, thì cũng sẽ phát sinh các vấn đề lịch sử sau: khi đó các triều đại như nhà Hồ, nhà Mạc và nhà Tây Sơn sẽ phải coi là giặc, hoàn toàn bay màu khỏi dòng chính thống. Công lao của họ đối với đất nước sẽ không được ghi nhận, khiến cho nền tảng văn hoá, lịch sử dân tộc xuất hiện những vết đứt gãy lớn.
Như vậy, chúng ta không thể bê nguyên si hệ thống tư tưởng nhận thức của bất kỳ một triều đại phong kiến nào vào thời hiện đại bởi sự lạc hậu, mâu thuẫn lẫn nhau của các hệ tư tưởng đó.
Lật lại vấn đề, hãy đặt giả sử chúng ta làm theo cách mà câu hỏi đã đặt ra. Chúng ta sẽ công nhận mọi triều đại mà tổ tiên đã thừa nhận. Sau đó sẽ luận công tội của các triều đại Hồ, Mạc, Tây Sơn để công nhận họ hay sao? Vấn đề là, nếu làm như thế thì chúng ta dựa vào cơ sở nào để luận công định tội họ? Dùng hệ tư tưởng nho giáo thì họ có mà mang tội tày đình, nghìn năm không gột sạch. Chả nhẽ lại dùng cách hiểu của xã hội thời nay để đánh giá? Không thể được. Đó là việc làm đầy cảm tính, sẽ dẫn đến một hệ tư tưởng đầy mâu thuẫn và rối như mớ bòng bong. Sau này, chúng ta sẽ không thể trả lời được câu hỏi của hậu thế, vì sao nhà Nguyễn bác bỏ nhà Tây Sơn mà chúng ta lại công nhận họ? Vì nhà Tây Sơn có công thống nhất đất nước ư? Thế vì sao nhà Hán lại không được công nhận? Vì họ là người Trung Quốc ư? Nhưng họ cũng có công thống nhất đất đai cơ mà? Vả lại Triệu Đà cũng là người Trung Quốc cơ mà?
Một vòng luẩn quẩn sẽ khiến tư duy chúng ta không còn mạch lạc. Và theo tôi, đó là một cách làm cực kỳ phản khoa học. Lịch sử là một bộ môn khoa học. Nó cũng cần có những nền móng vững chắc và phải được xây dựng bằng những tư duy mạch lạc. Từ đó cho thấy việc xây dựng hệ thống nhận thức tư tưởng mới của Nhà nước hiện nay là hoàn toàn đúng.
Vấn đề thứ hai, việc không công nhận nhà nước Nam Việt như vậy có làm nhà nước ta mang tiếng là không nghe theo tổ tiên hay nặng hơn là vả thẳng vào mặt tổ tiên hãy không? Theo người viết thì không. Dựa vào các nguyên nhân sau đây.
Thứ nhất, nhà nước hiện tại không dùng tới hệ lý luận nhận thức của các triều đại trước chứ không hề vứt bỏ. Chúng ta coi đó là quá khứ, và trân trọng nó, biểu hiện là việc chúng ta trân trọng các giá trị nhân văn tốt đẹp mà các triều đại trước để lại.
Bình Ngô đại cáo viết ra không phải để nhằm công nhận nhà nước Nam Việt. Chính cái tư tưởng “Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân” của nó mới là thứ khiến tác phẩm này được người đời sau ca tụng. Là câu đề mục ăn tiền, ăn giải của cả tác phẩm. Cái câu trích về nhà Triệu trên chỉ là dẫn chứng cho một mệnh đề khác mà thôi. Tương tự như vậy, ở thời Trần, Hưng Đạo đại Vương từng nói một câu để đời, đó là: "Khoan thư sức dân để làm kế sâu rễ bền gốc. Đó là thượng sách giữ nước." Có thể thấy, nhà nước hiện nay đang kế thừa cái căn cốt gốc rễ của truyền thống dân tộc là lấy dân làm gốc. Việc công nhận hay không công nhận nhà nước Nam Việt chẳng qua chỉ là phần ngọn của cả một nền văn hoá. Người không hiểu gì mới lấy đó làm cái cớ để bôi xấu nhà nước.
Thứ hai, theo quan điểm lịch sử của giới sử học hiện nay, việc các triều đại phong kiến trước kia công nhận nhà nước Nam Việt chính là hệ quả tàn dư của quá trình Hán hoá dân tộc ta chưa được gột sạch hết. Các học thuyết được sử dụng để công nhận Nam Việt đều từ người phương Bắc truyền tới, một vài đặc tính tâm lý cũng do họ ảnh hưởng mà ra. Nếu quay ngược lịch sử mà nhìn nhận, tổ tiên xa hơn của chúng ta không hề coi Triệu Đà là vua. Như Trưng Trắc từng muốn dựng lại nghiệp xưa họ Hùng, chứ không phải họ Triệu, dù rằng đất đai lãnh thổ dưới thời Nam Việt rộng lớn hơn thời Văn  Lang khá nhiều. Còn hiện nay, các đền thờ Triều Đà ở Việt Nam đều có niên đại còn khá mới, tất cả đều chỉ mới được xây dựng dưới những thời kỳ chịu ảnh hưởng sâu của Hán hoá. Các thời kỳ  trước  quá trình Hán hoá thì không hề có. Nói một cách hình tượng, chính giới sử gia hiện tại đang sửa lỗi cho các vị tiền nhân đã chót công nhận Nam Việt.
Câu hỏi thứ sáu:
Có thuyết cho rằng, Triệu Đà vốn dòng dõi Hùng Vương, lưu lạc đất Bắc, sau về đòi lại đất của tổ tiên. Nếu thuyết này là đúng thì công nhận Nam Việt là hợp lẽ vì đã có công giành lại đất từ tộc Âu Việt. Cho nên, vấn đề này nên hiểu là đang tranh cãi chứ không nên loại bỏ thẳng thừng như hiện nay. Ý kiến của người viết ra sao?
Trả lời:
Câu hỏi này đặt ra một vấn đề hết sức cơ bản của bộ môn nghiên cứu lịch sử. Đó là việc minh định sử liệu.
Trước hết phải nói rằng, người viết cũng đã từng đọc qua rất nhiều tài liệu có đề cập tới giả thuyết này. Khi đi tra ngược để tìm nguồn sử liệu thì mọi tài liệu đó dù dẫn trực tiếp hay gián tiếp đều đưa đến một tài liệu duy nhất. Đó là cuốn Cổ Lôi Ngọc Phả truyền thư. Đây vốn là cuốn ngọc phả của một dòng họ Nguyễn ở làng Cổ Lôi, Đông Anh, Hà Nội.
Điều đáng nói là mặc dù cuốn ngọc phả này đã bị bác bỏ tính sử liệu, coi là ngụy thư, đồng thời các sách sử dụng nội dung của nó làm sử liệu đều đã bị thu hồi và tiêu hủy. Song, sức ảnh hưởng của nó vẫn rất lớn, và nhiều người vẫn tin vào những gì được viết trong cuốn ngọc phả này. Đây là một sự kiện có thật, đã làm chấn động giới sử học nước nhà cách đây chỉ chục năm. Khi mà một loạt các tựa sách lịch sử đã bị thu hồi và tiêu hủy. Các bạn có thể lên mạng tra cứu để có thêm thông tin.[1]
Trở lại vấn đề chính, nước Việt Nam ta có một dòng chảy lịch sử trên bốn ngàn năm. Tuy nhiên, những tài liệu chính sử chỉ bao quát được một phần rất nhỏ của quá trình lịch sử lâu dài đó. Chủ yếu là do thất thoát qua chiến tranh, loạn lạc.
Từ đó, các nhà sử học nước ta từ xưa đã phải tìm thêm các nguồn ghi chép khác ngoài chính sử để bổ sung thêm cho các khoảng trống lịch sử. Tuy nhiên, các nguồn sử liệu ngoài chính sử lại có nhược điểm là tính chính xác không cao, rời rạc và nhuốm màu thần thoại lẫn định kiến cá nhân. Việc minh định sử liệu trở thành việc đầu tiên trong nghiên cứu lịch sử, và là bài học vỡ lòng của bất kỳ sử gia nào muốn dấn thân vào con đường nghiên cứu.
Nguồn tư liệu ngoài chính sử ở nước ta vốn rất phong phú, như các truyện truyền thuyết dân gian của các dân tộc; bút ký, thơ, văn  của những tao nhân mặc khách, quan lại, lái buôn, vân vân. Ngoài ra, các cuốn ngọc phả của các dòng họ lớn cũng có nhiều dữ liệu lịch sử có giá trị.
Này xin cung cấp một số thông tin về việc này. Việc phân định sử liệu được diễn ra theo quy trình: lấy chính sử làm cột trụ, các tài liệu khác sẽ bổ khuyết cho những phần mà chính sử còn thiếu. Các tài liệu lịch sử ngoài chính sử, được mổ xẻ phân tích để triết lấy các yếu tố lịch sử theo các tiêu chí rất cụ thể, có thể kể đến như:
Một là niên đại, một tài liệu đề cập đến sự kiện lịch sử càng gần thời gian nó được viết nên thì càng chính xác. Ví như một cuốn sách thời Lê viết về tình hình nước ta thời Trần hẳn sẽ đáng tin cậy hơn một cuốn sách ở thời Nguyễn viết về cùng nội dung đó.
Hai là tính đối chiếu chéo. Các tài liệu sẽ được đối chiếu chéo lẫn nhau ở từng sự kiện. Ở đây việc đối chiếu với chính sử là quan trọng nhất. Sự kiện nào được ghi chép đồng nhất ở nhiều tài liệu sẽ coi như sự thật lịch sử hiển nhiên, không cần phải tranh cãi.
Ba là, dựa vào những dữ kiện đã được minh định để đánh giá một tài liệu lịch sử. Một tài liệu lịch sử thường chứa trong nó nhiều dữ kiện lịch sử. Khi càng nhiều dữ kiện được xác minh là đúng thì tài liệu đó cũng tăng tính tin cậy của nó. Từ đó mà các dữ kiện khác có trong tài liệu, dù chưa được xác minh, cũng được tăng độ tin cậy phần nào.
Bốn là độ phổ quát của tài liệu lịch sử. Theo đó, một tài liệu lịch sử càng được phổ biến rộng rãi, được nhiều người biết đến thì càng đáng tin cậy. Nguyên do là bởi, càng có nhiều người biết tới thì càng có nhiều sự giám định nội dung bên trong, nhận được nhiều sự phản biện. Từ đó mà tin cậy hơn. Mặt trái của việc này là sự xuất hiện của các dị bản, tiêu biểu là các truyền thuyết dân gian.
Năm là về quan điểm, mục đích cá nhân của người viết, mỗi tài liệu lịch sử đều hàm chứa góc nhìn của riêng cá nhân người viết ra nó. Do góc nhìn, cảm nhận của mỗi người khác nhau, có thể không đồng nhất với góc nhìn, quan điểm của cả cộng đồng, cả dân tộc nên dễ xảy ra trường hợp một số dữ kiện lịch sử bị thêm bớt, sửa đổi cho phù hợp với quan điểm cá nhân. Khi minh định phải luôn chú ý tới điểm này để tránh dẫn sử một cách tùy tiện. Minh chứng rõ ràng nhất là trong các bộ chính sử, các sự kiện luôn được viết theo thiên kiến củng cố sự tốt đẹp của triều đại, trong khi các sự kiện như binh biến, giặc cướp, thiên tai thường chỉ được viết giản lược đến mức qua loa.
Bây giờ, nếu đặt cuốn Cổ Lôi ngọc phả truyền thư vào để minh định tính sử liệu, có thể thấy một số vấn đề như sau:
Thứ nhất, về niên đại, cuốn ngọc phả này được viết vào khoảng thế kỷ 15 đến 16, vào thời hậu Lê. Tức là khá xa thời Triệu Đà, còn so với thời Hùng Vương thì còn xa hơn nữa. Trước cuốn ngọc phả này, đã có rất nhiều tài liệu lịch sử của các thời kỳ trước viết về Nam Việt với nội dung khá thống nhất nhau và khác xa nội dung trong ngọc phả.
Thứ hai, nội dung bên trong cuốn ngọc phả không chỉ có giả thuyết nêu trên. Có nhiều giả thuyết khác cũng được đề cập đến, như tên họ, gốc gác của các anh hùng trong lịch sử nước ta. Khi đối chiếu chéo với các tài liệu lịch sử khác, các thông tin này có một độ vênh rất lớn. Còn đối với một số dữ kiện lịch sử có thể minh định bằng khai quật khảo cổ như mộ chí của một vài nhân vật lịch sử, các dữ kiện lịch sử bên trong cuốn ngọc phả được xác định là sai sự thật. Từ đó làm giảm tính tin cậy của các dữ kiện còn lại.
Thứ ba, cuốn ngọc phả này từ khi ra đời vốn chỉ được lưu truyền trong dòng tộc, gần như không được phổ biến ra bên ngoài. Nó không được nhiều người biết đến, cũng vì vậy mà trong suốt thời gian tồn tại nó gần như không được xã hội giám định lại các nội dung được viết bên trong. Từ đó mà giảm tính tin cậy. Đây có lẽ là nguyên nhân quan trọng nhất khiến nó bị bác bỏ. Xin nói thêm rằng, chính sử thời xưa hay như sách giáo khoa thời nay, được công nhận là đúng không phải vì có nhiều người công nhận mà là do có nhiều người giám sát, thẩm định. Chúng dù chỉ được một nhóm rất ít người viết lên nhưng chính vì chúng được công khai, chịu sự giám sát của cộng đồng, hằng năm luôn được chỉnh lý nên luôn là tài liệu có độ tin cậy cao nhất.
Thứ tư, là do bản chất sử liệu của các cuốn ngọc phả từ lâu đã nhuốm màu thiên kiến. Đó đều là những tài liệu nhằm tôn vinh chính dòng họ của mình, việc tự nâng cao nguồn gốc lịch sử hay truyền thống hào hùng của dòng tộc trong các cuốn ngọc phả là điều dễ hiểu. Có thể thấy điều này qua các cuốn ngọc phả của các dòng họ khác ở Việt Nam.
Chốt lại, thuyết nêu ra vốn đã bị bác bỏ vì không có nguồn sử liệu đáng tin cậy để chứng minh. Từ đó mà vấn đề tính chính thống của nhà nước Nam Việt không cần phải bàn cãi.
Đọc đến đây, chắc nhiều bạn cũng chưa thoả mãn. Vậy người viết xin mở rộng vấn đề thêm một chút để làm sáng tỏ. Sau này, nếu đặt giả sử rằng thuyết lịch sử kia được chứng minh là đúng thì chuyện gì sẽ xảy ra? Xin thưa với các bạn rằng, sẽ chẳng có chuyện gì xảy ra cả. Nhà nước Nam Việt vẫn bị gạt khỏi dòng chảy chính thống của lịch sử nước ta như thường. Bởi các nguyên nhân sau:
Thứ nhất, dù Triệu Đà có là dòng dõi Vua Hùng thì bản chất ngoại lai của nhà nước Nam Việt đối với người dân Lạc Việt vẫn không thấy đổi. Một mình Triệu Vũ Đế không thể đại diện cho cả giới tinh hoa cầm quyền của Nam Việt. Khi đó, bộ máy lãnh đạo của Nam Việt vẫn gồm đa số là dân phương bắc từ xa tới. Cả văn hoá lẫn mô hình nhà nước là học theo mô hình bên ngoài, không phải từ nội tại phát triển nên, và nhất là, người dân Lạc Việt vẫn phải đứng ngoài cuộc trong việc trị nước của Nam Việt vì kinh đô của nhà nước này nằm ngoài địa bàn sinh sống của dân tộc này.
Thứ hai là tính kế thừa, nhà nước Nam Việt không hề thể hiện một sự kế thừa nào đối với nhà nước Văn Lang. Minh chứng là trong cuộc chiến với An Dương Vương, Triệu Đà không hề giơ cao ngọn cờ phục hưng Văn Lang để lấy tính chính danh. Đến khi đã bình định xong, Triệu Đà cũng chưa từng một lần tiến vào đất cũ, cũng chẳng lấy văn minh Lạc Việt làm căn bản để xây dựng lên nhà nước mới. Trong ngọc phả dòng dõi Hùng Vương cũng không hề nhắc tên Triệu Đà, và trong phả hệ họ Triệu cũng không hề có vị tổ tiên nào ở đất Phong Châu. Thay vào đó là ngọn cờ của đế quốc đại Tần đã được Triệu Đà triệt để sử dụng trong cuộc chiến với Âu Lạc. Một danh nghĩa của ngoại bang.
Nói cách khác, nếu Triệu Đà thực là con dân của Lạc Việt thì ông ta cũng là kẻ đã mất gốc và hành động có thể xem như cõng rắn cắn gà nhà. Không khác gì Trần Ích Tắc hay Lê Chiêu Thống sau này. Vì vậy vẫn bị bác bỏ là điều có thể hiểu được.
Câu hỏi thứ bảy:
Nên công nhận Nam Visệt vì phần đông dân cư Nam Việt là người Bách Việt, chỉ có thiểu số những kẻ cầm quyền là người phương bắc, sau này cũng dần bị Việt hoá cả. Kênh phản biện ra sao với quan điểm này?
Trả lời:
Quan điểm này sai ở hai điều rất cơ bản.
Thứ nhất, đó là nhận thức nhà nước thuộc về ai. Phải nói rằng cái quan niệm nhà nước là của dân, do dân và vì dân chỉ mới là tiền đề xây dựng đất nước của nước ta từ sau Cách mạng tháng Tám. Dù rằng tư tưởng dựa vào dân để giữ nước đã manh nha từ thời phong kiến, song nó không phải tư tưởng chủ đạo. Qua các thời kỳ lịch sử, một quốc gia luôn được quan niệm rằng nó thuộc về giai tầng thống trị. Đến ngày nay vẫn còn hiện hữu. Ví dụ để minh chứng như hai đế quốc Đại Nguyên và Đại Thanh trong lịch sử Trung Quốc. Đó vốn đều là các nhà nước của các bộ tộc chiếm thiểu số trong dân cư xuất đế quốc mà nó cai trị. Nhưng dưới góc nhìn của thời đại, nhà Nguyên vẫn là nhà nước của các bộ tộc Thát, nhà Thanh vẫn là nhà nước của người Mãn Châu. Gần hơn, có thể lấy chính cục diện nước ta dưới thời thực dân Pháp. Những người Pháp ở nước ta chiếm bao nhiêu phần so với dân Việt Nam, mà chính chúng ta lại không thể bằng lòng với thời cuộc. Tới thời hiện đại, tư tưởng này vẫn còn, vẫn giữ sự chi phối trong tư duy của các nhà lãnh đạo ngày nay. Chẳng thế mà Liên bang Mã Lai đã phải đá đít Singapore ra khỏi liên bang vì sợ sự nắm quyền của cộng đồng thiểu số người gốc Hoa.
Nói tóm lại, chính thế lực cầm quyền mới quyết định tính dân tộc của một nhà nước. Nhà nước Nam Việt có giới tính hoa là ngoại bang phương bắc, nên là nhà nước của người phương bắc. Và thực tế nó đã phát triển theo mô hình như vậy.
Thứ hai, nước ta là nước Việt Nam, dòng chảy lịch sử của nước ta luôn gắn với dân tộc Lạc Việt, mọi thăng trầm lịch sử đều gắn với dân tộc này. Cho nên, mọi vấn đề lịch sử đều phải dùng hệ quy chiếu lấy dân tộc Lạc Việt làm gốc để xem xét, đánh giá. Nước Nam Việt xưa, dân cư thuộc ba bộ tộc lớn là Âu Việt, Lạc Việt và Đông Việt. Trong quá trình tồn tại của nhà nước Nam Việt, dấu ấn của cả ba bộ tộc này đều rất mờ nhạt. Dấu ấn của tộc Lạc Việt thậm chí còn mờ nhạt hơn. Tạo ra một vết đứt gãy lớn trong văn hoá dân tộc ta. Trong thời kỳ này, dân tộc ta vừa mất sự tự chủ, vừa dần dần đánh mất bản sắc văn hoá. Nên không thể nhận là nhà nước của tộc Lạc Việt, hay của bất kỳ dân tộc nào trong ba dân tộc kể trên được. Có lẽ đây là quan niệm sai lầm của đa số người hiện nay.
Ở đây xin nói thêm một chút về chủ đề bách Việt. Nhiều người vẫn hay nhầm lẫn rằng nước ta thời cổ rộng tới miền đồng bằng Hoa Nam, bách Việt chính là dân ta, là trăm dòng Việt nở ra từ trăm trứng.
Xin thưa đây là nhận thức sai lầm và cực kỳ tai hại, có nguy cơ làm xói mòn nhận thức dân tộc, và tiềm tàng nguy cơ mất nước sau này. Xin nói thêm để làm rõ.
Thứ nhất, khái niệm Việt tộc là một khái niệm tù mù trong cổ sử. Trong khi đó danh xưng bách Việt vốn là tên gọi của người phương bắc dùng để gọi các dân tộc ở phía nam của họ. Trong các thư tịch cổ, bách Việt được dùng để chỉ gần năm trăm bộ tộc khác nhau sống ở đồng bằng Hoa Nam và miền Bắc nước ta ngày nay. Thời kỳ này rơi vào khoảng trước và trong thời kỳ Hùng Vương ở nước ta. Trong gần năm trăm dân tộc này, đã có khoảng hai mươi dân tộc đã xây dựng được những nhà nước sơ khai. Phần lớn đều có chữ Việt trong tên gọi, như: Điền Việt, Mân Việt, Dương Việt, Âu Việt, Lạc Việt, vân vân. Đây chính là yếu tố gây hiểu nhầm. Chữ Việt vốn là triết tự hình cái rìu mà thành, sau được dùng để chỉ các bộ tộc dùng rìu làm công cụ lao động chính.
Khi người Hoa Hạ tiến xuống phương nam, vì lười biếng mà họ gọi gộp tất cả các dân tộc trên là bách Việt. Coi tất cả là giống Nam man tăm tối. Gọi nhiều thành quen, dẫn tới lầm tưởng như trên.
Sự thật là trong gần năm trăm bộ tộc đó, mỗi bộ tộc là một dân tộc riêng, có bản sắc văn hoá riêng vô cùng đặc sắc, không thể trộn lẫn, đánh đồng với nhau được. Họ có tiếng nói riêng, một số có chữ viết riêng, và hệ thống tín ngưỡng đặc thù, và nhất là danh xưng bách Việt này không hề xuất hiện trong bất cứ truyền thuyết cổ nào của các dân tộc trong Bách Việt, cho thấy các dân tộc trong bách Việt vốn đã không coi tất cả là một cộng đồng đồng nhất. Bách Việt chỉ là tên gọi của người ngoài gọi họ mà thôi, tự họ không tự nhận như vậy. Minh chứng rõ nhất chính là truyền thuyết Con rồng cháu Tiên chỉ duy nhất người Lạc Việt có. Các dân tộc khác trong bách Việt, mỗi dân tộc đều có một truyền thuyết dựng tộc của riêng mình. Sự tương đồng giữa một vài dân tộc như Âu Việt với Lạc Việt, hay một vài dân tộc khác là điều hết sức bình thường. Điều này xảy ra khi hai dân tộc có địa bàn sinh sống giáp nhau, từ đó nảy sinh sự giao lưu văn hoá và vốn gien. Và khác biệt lớn dần đối với các dân tộc ở cách xa. Điều này có thể thấy ở mọi nơi trên thế giới, nơi có các dân tộc khác nhau nhưng sống cạnh nhau một thời gian dài.
Người Lạc Việt mình là cốt lõi dân tộc của lịch sử đất nước với nhà nước đầu tiên là Văn Lang. Nền lịch sử và nghiên cứu văn hoá nước ta cũng luôn lấy văn minh Lạc Việt là trụ cột của việc nghiên cứu hay phát triển nền tảng văn hoá. Đó mới là nhận thức đúng.
Còn nói, việc nhận thức sai như trên là tiềm ẩn nguy cơ mất nước là bởi hiện nay có rất nhiều kênh và diễn đàn tuyên truyền quan điểm này với mục đích bài Tàu, hạ thấp nền văn minh Trung Hoa, nhưng lại không biết rằng quan điểm lịch sử này lại chính là quan điểm lịch sử mà giới sử học Trung Quốc đang tích cực sử dụng trong nghiên cứu và tuyên truyền, được thao túng đằng sau bởi một động cơ chính trị không mấy tốt đẹp. Đó là muốn nước ta từ việc thừa nhận nguồn gốc bách Việt mà trở lại với đại gia đình bách Việt với họ. Tức là sáp nhập, trở lại thành một tỉnh của Trung Hoa. Các bạn có thể lên mạng và tìm kiếm từ khoá “Trung Quốc nghiên cứu lịch sử phục vụ mục đích chính trị” hoặc “Trung Quốc khuyên Việt Nam lãng tử hồi đầu” thì sẽ rõ. [2]
Kết lại, quan điểm nêu trên sai về nhiều mặt. Nó được nhiều kênh mạng và diễn đàn lịch sử sử dụng như một bức bình phong để che đậy mưu đồ chính trị đằng sau.
Wolley Nogard
Chú thích:
[1] https://phanduykha.wordpress.com/2013/09/15/cau-chuyen-lum-xum-ve-mot-cuon-nguy-thu-sach-dom/
[2] https://hrc.org.vn/bac-bo-luan-dieu-trung-quoc-khuyen-viet-nam-lang-tu-hoi-dau/