Vì sao già hoá là xu hướng toàn cầu trong thời đại thế giới phát triển hơn bao giờ hết?
Già hoá dân số,cơn bão nhân khẩu học của thế kỷ 21 Vì sao già hoá là xu hướng toàn cầu trong thời đại thế giới phát triển hơn bao giờ hết?
Trước khi vô bài viết,tôi nói qua một chút về bản thân tôi vậy. Tôi tên Huy,hiện tại mới chỉ là một học sinh lớp 9,tri thức còn chưa thể bằng những tác giả tại đây. Tôi bắt đầu tìm hiểu những thứ như Lịch sử,Địa chính trị,kinh tế,quân sự,địa lý,văn học,xã hội,... từ những năm lớp 1. Mong muốn lớn nhất đời tôi là đem tri thức đến cho mọi người,tôi thích những cuộc tranh luận với những người có hiểu biết và cả những bài viết trên Spiderum nữa.
I. Số liệu thực tế: Bức tranh xám màu của nhân khẩu học
Thế kỷ 21 chứng kiến những bước tiến vượt bậc của nhân loại về công nghệ, y tế và kinh tế. Chúng ta sống lâu hơn, khoẻ mạnh hơn và thịnh vượng hơn bất kỳ thế hệ nào trong lịch sử. Nhưng ẩn sau bức tranh phát triển rực rỡ đó là một nghịch lý thầm lặng, một cơn sóng ngầm đang định hình lại tương lai của mọi quốc gia: dân số thế giới đang già đi với tốc độ chưa từng có. Đây không phải là vấn đề của riêng một quốc gia phát triển nào, mà là một xu hướng toàn cầu không thể đảo ngược, một di sản trực tiếp từ chính những thành tựu mà chúng ta tự hào nhất
Nhìn vào những con số, ta không khỏi cảm thấy lạnh gáy trước sự thay đổi chóng mặt của cấu trúc dân số. Trên toàn cầu, Liên Hợp Quốc dự báo đến năm 2050, số người từ 65 tuổi trở lên sẽ nhiều hơn gấp đôi số trẻ em dưới 5 tuổi. Đây là một sự đảo ngược lịch sử, một thế giới mà người già đông hơn trẻ nhỏ
Để thấy rõ hơn sự thay đổi này, hãy nhìn vào ví dụ cụ thể tại Việt Nam qua những lát cắt thời gian, ước tính dựa trên tỷ lệ sinh và tử thô:
Năm 1985: Dân số Việt Nam còn trẻ, bùng nổ sau chiến tranh. Tỷ lệ sinh thô rất cao. Ước tính, cứ mỗi phút có khoảng 4-5 em bé được sinh ra, trong khi chỉ có 1-2 người qua đời. Sự chênh lệch khổng lồ này tạo ra một lực đẩy dân số mạnh mẽ.
Năm 2005: Giai đoạn "cơ cấu dân số vàng" bắt đầu. Tỷ lệ sinh đã giảm đáng kể nhờ chính sách kế hoạch hoá gia đình. Cứ mỗi phút, có khoảng 3 em bé chào đời và khoảng 1 người qua đời. Khoảng cách vẫn còn, nhưng đã thu hẹp rõ rệt.
Dự báo năm 2025: Việt Nam đã bước vào giai đoạn già hoá. Tỷ lệ sinh tiếp tục giảm sâu. Ước tính, mỗi phút sẽ chỉ còn khoảng 2 em bé được sinh ra, trong khi số người qua đời vẫn là 1 người. Khoảng cách sinh-tử giờ đây mong manh hơn bao giờ hết và đang trên đà tiệm cận nhauViệt cũng là quốc gia có tốc độ suy giảm tỉ lệ nhanh nhất trong nhóm các nước đang phát triển và hiện đang gần bằng tỉ lệ sinh của một quốc gia mặc dù quy mô kinh tế chưa thể bằng họ,Việt Nam từng là một quốc gia với dân số Vàng đấy, nhưng chỉ vọn vẹn 20 năm trong khi các nước khác như Pháp đến 72 năm mà đã chứng kiến tốc độ già hoá nhanh chưa từng có Tỉ lệ sinh Việt Nam hiện nay rơi vào khoảng 1,91 trẻ em/phụ nữ và con số này gần thấp tương đương Nga với 1,86 mặc dù Nga đang phải trải qua cuộc xung đột với Ukraine trong 3 năm qua Những con số khô khan này vẽ nên một thực tại ảm đạm: động lực tăng trưởng dân số tự nhiên của quốc gia đang cạn kiệt. Tiếng khóc trẻ thơ ngày càng thưa thớt, thay vào đó là gánh nặng của một xã hội ngày càng nhiều người giàTôi sẽ lấy thêm một số những số liệu khác ở thế giới Tại Hàn Quốc,đây là quốc gia có tỉ lệ sinh thấp nhất thế giới và cũng là thấp nhất trong 10 năm qua với tỉ lệ sinh 0,68 con/phụ nữ, tức là 100 người phụ nữ chỉ sinh khoảng 34 người con?
Ở Nhật Bản,đây là quốc gia có số lượng người trên 65 tuổi cao nhất thế giới với 29% tương đương 36 triệu người Nhật Hay EU,Bắc Âu cũng rơi vào khoảng 22-26% tỉ lệ người trên 65 tuổi
II. Nguyên nhân: Mô hình chuyển đổi nhân khẩu học và cái giá của sự phát triển
Để hiểu gốc rễ của vấn đề, chúng ta cần nhìn vào hai khái niệm cốt lõi: Tháp dân số và Mô hình chuyển đổi nhân khẩu học
Tháp dân số: Là biểu đồ thể hiện cấu trúc dân số theo độ tuổi và giới tính. Một quốc gia trẻ, đang phát triển sẽ có tháp hình tam giác với đáy rộng (nhiều trẻ em) và đỉnh nhọn (ít người già). Ngược lại, một quốc gia già hoá có tháp gần giống hình chữ nhật hoặc thậm chí là hình nấm lộn ngược, với phần đáy thu hẹp và phần thân-đỉnh phình to và Mô hình chuyển đổi nhân khẩu học: Đây là mô hình mô tả sự thay đổi từ tỷ lệ sinh-tử cao sang tỷ lệ sinh-tử thấp khi một xã hội phát triển từ nông nghiệp sang công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Quá trình này gồm các giai đoạn
1. Giai đoạn 1 (Truyền thống): Cả tỷ lệ sinh và tử đều cao. Dân số tăng chậm hoặc không tăng và đầy bất ổnVào khoảng thời gian cách đây hàng trăm đến hàng ngàn năm trước,nếu một cặp vợ chồng muốn có ít nhất 2 người con sống qua tuổi 15, họ phải sinh ít nhất 6-7 người con. Vì vào khoảng thời gian này,điều kiện sống vô cùng tồi tệ,y tế không có,nếu bạn mắc bệnh nhẹ vào thời nay thì đấy là bảng án tử cho bạn vào thời ấy. Phụ nữ phải sinh con nhiều vì đấy là điều bắt buộc để duy trì nòi giống
2. Giai đoạn 2 (Bùng nổ): Y tế và dinh dưỡng cải thiện, tỷ lệ tử đặc biệt là tử ở trẻ sơ sinh giảm mạnh, trong khi tỷ lệ sinh vẫn còn cao. Đây là giai đoạn bùng nổ dân số.Xã hội đã có bước nhảy vọt lớn trong việc phát triển y tế,đây là giai đoạn dân số bùng nổ mạnh nhất
3. Giai đoạn 3 (Tăng trưởng chậm - giai đoạn Vàng ): Tỷ lệ sinh bắt đầu giảm do đô thị hoá, giáo dục tăng, phụ nữ tham gia lao động nhiều hơn.Tỉ lệ bắt đầu giảm do sự bùng nổ công nghiệp hoá,các siêu đô thị mọc lên với tốc độ khủng khiếp,phụ nữ tham gia nhiều hơn vào lao động,chi phí sinh hoạt bắt đầu độn lên qua từng thời kỳ,phụ nữ tham gia nhiều vào lực lượng lao động,áp lực công việc cũng dần hình thành, thời gian rảnh dần tan biến,kéo theo là mức sống vội vã của xã hội,tỉ lệ sinh bắt đầu giảm dần,đây là giai đoạn được gọi với cái tên "dân số Vàng".Khi nhóm trong độ tuổi lao động chiếm trên 65% dân số tạo ra nguồn của cải dồi dào.
4. Giai đoạn 4 (Ổn định): Cả tỷ lệ sinh và tử đều ở mức thấp. Dân số ổn định hoặc tăng rất chậm.Khi dân số Vàng qua đi,tỉ lệ sinh giảm sâu hơn do không có người trẻ thay thế hoặc chỉ ở mức thay thế, tức là dân số giữ nguyên
5. Giai đoạn 5 (Suy giảm): Tỷ lệ sinh giảm xuống thấp hơn cả tỷ lệ tử. Dân số bắt đầu suy giảm tự nhiên.Đây là nấc thang cuối cùng trong mô hình khi người trẻ đã không còn đủ để thay thế người già,dân số cứ thế giảm theo
Lịch sử phát triển của thế giới chính là câu chuyện về sự dịch chuyển qua các giai đoạn này. Các nước phát triển ở châu Âu, Bắc Mỹ đã đi hết chặng đường này trong hơn một thế kỷ. Nhưng các quốc gia đang phát triển như Việt Nam lại hoàn thành quá trình chuyển đổi này với tốc độ "tên lửa", chỉ trong vài thập kỷ. Thành tựu y tế giúp chúng ta giảm tỷ lệ tử vong, nhưng sự phát triển kinh tế và thay đổi xã hội lại "bóp nghẹt" tỷ lệ sinh. Kết quả là tháp dân số của chúng ta bị "ép" từ hình tam giác sang hình chữ nhật một cách đột ngột, tạo ra một cú sốc nhân khẩu học mà xã hội chưa kịp chuẩn bị để đối phó
III. Tỷ lệ sinh vẫn giảm: Khi phúc lợi và thịnh vượng không còn là câu trả lời
Một câu hỏi nhức nhối được đặt ra: Tại sao khi kinh tế phát triển hơn, phúc lợi xã hội tốt hơn, con người lại chọn không sinh con hoặc sinh ít đi?Vậy thì hãy nhìn vào các nước như Bắc Âu,Nhật Bản đều là những quốc gia có phúc lợi số 1 thế giới nhưng tỉ lệ sinh vẫn giảm đều qua các năm ấy thôi
Câu trả lời nằm ở cái giá của sự hiện đại hoá và đô thị hoá:
1. Chi phí nuôi dạy con cái trở thành gánh nặng khổng lồ: Ở các đô thị, một đứa trẻ không còn là "thêm một đôi đũa" như ở nông thôn. Nó là chi phí nhà ở rộng hơn, học phí đắt đỏ, chi phí y tế, các lớp học năng khiếu... Trẻ em chuyển từ một "tài sản lao động" (trong xã hội nông nghiệp) thành một "khoản đầu tư tiêu tốn" khổng lồ2. Sự trỗi dậy của chủ nghĩa cá nhân và thay đổi vai trò phụ nữ: Giáo dục và cơ hội việc làm đã giải phóng phụ nữ khỏi vai trò truyền thống. Họ có sự nghiệp, hoài bão và những lựa chọn khác ngoài việc làm vợ, làm mẹ. Việc sinh con và nuôi dạy con cái đồng nghĩa với việc phải hy sinh sự nghiệp, thời gian và tự do cá nhân – một cái giá mà ngày càng nhiều người không sẵn lòng trả3. Áp lực "nuôi con chất lượng cao": Xã hội hiện đại không chỉ đòi hỏi cha mẹ "nuôi" con, mà phải "đầu tư" cho con. Áp lực cạnh tranh từ trường học đến xã hội khiến các bậc cha mẹ cảm thấy kiệt sức. Thay vì sinh nhiều con và để chúng tự lớn, họ chọn sinh một hoặc hai con để dồn toàn bộ nguồn lực, đảm bảo cho con một tương lai tốt nhất có thể
Ngược lại, các nước nghèo, kém phát triển vẫn có tỷ lệ sinh cao không phải vì họ hạnh phúc hơn, mà vì một logic sinh tồn khác hẳn. Ở những nơi thiếu thốn hệ thống an sinh xã hội, con cái chính là "bảo hiểm tuổi già" cho cha mẹ. Tỷ lệ tử vong trẻ em còn cao cũng thúc đẩy việc sinh nhiều để bù trừ. Và quan trọng hơn, việc tiếp cận với giáo dục và các biện pháp tránh thai còn hạn chế. Sự nghèo khó và thiếu lựa chọn, trớ trêu thay, lại là động lực duy trì tỷ lệ sinh
Câu trả lời nằm ở cái giá của sự hiện đại hoá và đô thị hoá:
1. Chi phí nuôi dạy con cái trở thành gánh nặng khổng lồ: Ở các đô thị, một đứa trẻ không còn là "thêm một đôi đũa" như ở nông thôn. Nó là chi phí nhà ở rộng hơn, học phí đắt đỏ, chi phí y tế, các lớp học năng khiếu... Trẻ em chuyển từ một "tài sản lao động" (trong xã hội nông nghiệp) thành một "khoản đầu tư tiêu tốn" khổng lồ2. Sự trỗi dậy của chủ nghĩa cá nhân và thay đổi vai trò phụ nữ: Giáo dục và cơ hội việc làm đã giải phóng phụ nữ khỏi vai trò truyền thống. Họ có sự nghiệp, hoài bão và những lựa chọn khác ngoài việc làm vợ, làm mẹ. Việc sinh con và nuôi dạy con cái đồng nghĩa với việc phải hy sinh sự nghiệp, thời gian và tự do cá nhân – một cái giá mà ngày càng nhiều người không sẵn lòng trả3. Áp lực "nuôi con chất lượng cao": Xã hội hiện đại không chỉ đòi hỏi cha mẹ "nuôi" con, mà phải "đầu tư" cho con. Áp lực cạnh tranh từ trường học đến xã hội khiến các bậc cha mẹ cảm thấy kiệt sức. Thay vì sinh nhiều con và để chúng tự lớn, họ chọn sinh một hoặc hai con để dồn toàn bộ nguồn lực, đảm bảo cho con một tương lai tốt nhất có thể
Ngược lại, các nước nghèo, kém phát triển vẫn có tỷ lệ sinh cao không phải vì họ hạnh phúc hơn, mà vì một logic sinh tồn khác hẳn. Ở những nơi thiếu thốn hệ thống an sinh xã hội, con cái chính là "bảo hiểm tuổi già" cho cha mẹ. Tỷ lệ tử vong trẻ em còn cao cũng thúc đẩy việc sinh nhiều để bù trừ. Và quan trọng hơn, việc tiếp cận với giáo dục và các biện pháp tránh thai còn hạn chế. Sự nghèo khó và thiếu lựa chọn, trớ trêu thay, lại là động lực duy trì tỷ lệ sinh
IV. Tình trạng hiện tại của Việt Nam: Giấc mộng hóa rồng trước nguy cơ "già trước khi giàu"
Việt Nam là một ví dụ điển hình cho bi kịch "già trước khi giàu". Trong quá khứ, chiến dịch "Kế hoạch hoá gia đình" với khẩu hiệu "Mỗi gia đình chỉ nên có từ một đến hai con" đã thành công rực rỡ trong việc kiểm soát bùng nổ dân số. Nó đã góp phần tạo ra "cơ cấu dân số vàng" – một giai đoạn mà lực lượng lao động chiếm tỷ trọng lớn, tạo động lực vàng cho tăng trưởng kinh tế
Tuy nhiên, thành công đó cũng là con dao hai lưỡi. Nó đã đẩy nhanh quá trình chuyển đổi nhân khẩu học, khiến Việt Nam bước vào giai đoạn già hoá dân số khi mức thu nhập bình quân đầu người vẫn còn thấp. Chúng ta đang phải đối mặt với gánh nặng của một xã hội già chi phí y tế, hưu trí, chăm sóc người cao tuổi mà chưa tích lũy đủ sự giàu có của một quốc gia phát triển
Hơn nữa một đất nước chỉ gia công và quá phụ thuộc vào FDI như nước ta lại tạo ra sự tăng trưởng kém bền vững, nhìn thì có vẻ hào nhoáng đấy, nhưng thực tế chỉ là tăng trưởng trên giấy tờ,số liệu,một đất của chỉ mãi làm khâu cuối sẽ không thể giàu được,mà không giàu thì không thể hoá rồng,mà không thể hoá rồng chúng ta sẽ không thể nhập cư lao động như Nhật được
Cánh cửa của "cơ cấu dân số vàng" đang dần khép lại. Lực lượng lao động trong tương lai sẽ bị thu hẹp, tạo áp lực khổng lồ lên hệ thống an sinh xã hội và tăng trưởng kinh tế. Điều này dập tắt phần lớn ảo mộng về một "kỳ tích kinh tế Rồng Việt Nam". Một con rồng không thể cất cánh bay cao khi đôi cánh của nó – nguồn nhân lực trẻ – ngày càng yếu đi. Tương lai kinh tế của Việt Nam không phải là một con đường trải hoa hồng, mà là một cuộc vật lộn với thực tại nhân khẩu học nghiệt ngã
Trong lúc viết bài viết này,tôi đã lên ý tưởng cho bài viết về chủ đề mới,"bức tranh kinh tế thực sự của Việt Nam". Sau khi tôi đăng bài viết này cũng là lúc bài viết ấy sẽ được viết, tôi sẽ giành nhiều ý tưởng và quan điểm về kinh tế của mình trên bài viết sắp tới,rất mong được các độc giả ủng hộ
Tuy nhiên, thành công đó cũng là con dao hai lưỡi. Nó đã đẩy nhanh quá trình chuyển đổi nhân khẩu học, khiến Việt Nam bước vào giai đoạn già hoá dân số khi mức thu nhập bình quân đầu người vẫn còn thấp. Chúng ta đang phải đối mặt với gánh nặng của một xã hội già chi phí y tế, hưu trí, chăm sóc người cao tuổi mà chưa tích lũy đủ sự giàu có của một quốc gia phát triển
Hơn nữa một đất nước chỉ gia công và quá phụ thuộc vào FDI như nước ta lại tạo ra sự tăng trưởng kém bền vững, nhìn thì có vẻ hào nhoáng đấy, nhưng thực tế chỉ là tăng trưởng trên giấy tờ,số liệu,một đất của chỉ mãi làm khâu cuối sẽ không thể giàu được,mà không giàu thì không thể hoá rồng,mà không thể hoá rồng chúng ta sẽ không thể nhập cư lao động như Nhật được
Cánh cửa của "cơ cấu dân số vàng" đang dần khép lại. Lực lượng lao động trong tương lai sẽ bị thu hẹp, tạo áp lực khổng lồ lên hệ thống an sinh xã hội và tăng trưởng kinh tế. Điều này dập tắt phần lớn ảo mộng về một "kỳ tích kinh tế Rồng Việt Nam". Một con rồng không thể cất cánh bay cao khi đôi cánh của nó – nguồn nhân lực trẻ – ngày càng yếu đi. Tương lai kinh tế của Việt Nam không phải là một con đường trải hoa hồng, mà là một cuộc vật lộn với thực tại nhân khẩu học nghiệt ngã
Trong lúc viết bài viết này,tôi đã lên ý tưởng cho bài viết về chủ đề mới,"bức tranh kinh tế thực sự của Việt Nam". Sau khi tôi đăng bài viết này cũng là lúc bài viết ấy sẽ được viết, tôi sẽ giành nhiều ý tưởng và quan điểm về kinh tế của mình trên bài viết sắp tới,rất mong được các độc giả ủng hộ
V. Tổng kết
Già hoá dân số không phải là một "căn bệnh" hay một "thất bại", mà là một hệ quả tất yếu, một cái giá phải trả cho những thành tựu vĩ đại nhất của loài người: tuổi thọ cao hơn, giáo dục tốt hơn, và phụ nữ được giải phóng. Chúng ta đã thành công trong việc chinh phục bệnh tật và kéo dài sự sống, nhưng lại vô tình tạo ra một thách thức còn lớn hơn: làm thế nào để duy trì sự năng động và thịnh vượng của một xã hội khi động lực tái tạo tự nhiên của nó đang suy yếu dần?Đây là bài toán không có lời giải dễ dàng, đòi hỏi sự thay đổi toàn diện từ chính sách kinh tế, hệ thống an sinh xã hội cho đến cả quan niệm văn hoá về gia đình và tuổi già. Tương lai của thế giới phát triển, bao gồm cả Việt Nam, không còn được quyết định bởi tốc độ tăng trưởng, mà bởi khả năng thích ứng với một thế giới ngày càng già đi
Cảm ơn bạn đã giành thời gian theo dõi bài viết của tôi,rất mong nhận được sự ủng hộ

Quan điểm - Tranh luận
/quan-diem-tranh-luan
Bài viết nổi bật khác
- Hot nhất
- Mới nhất
