Disclaimer:

Bài viết có nhiều hình ảnh trực diện về cái chết liên quan đến nạn đói. Nghiêm túc cân nhắc trước khi đọc.
Tôi tin bài viết của mình vẫn còn nhiều thiếu sót bởi góc nhìn chủ quan và cảm xúc cá nhân. Vì vậy, sự đóng góp của các bạn sẽ là nguồn tư liệu quý để tôi có thể hoàn thiện những bài viết sau tốt hơn.
Nếu bạn cũng đang sống trong một gia đình có hơn 3 thế hệ giống tôi, hẳn trên dưới một lần bạn đã từng nghe câu nói này: “Ăn uống như thể bị chết đói năm 1945”. Có lẽ chúng ta sẽ tặc lưỡi cho qua, bởi rất khó để hiểu được cụm từ “chết đói” trong thời đại ngày nay - khi mà việc tưởng tượng ra một thế giới lái xe ô tô trên không còn dễ hơn là viễn cảnh chết vì đói, chết vì không còn cái gì để ăn. 
img_0
Chết đói là một trải nghiệm đau khổ và tàn khốc nhất mà con người có thể trải qua, thậm chí nó còn được sử dụng như một phương tiện tra tấn khiến họ chết dần chết mòn trong đau đớn và tuyệt vọng. Để thực sự hiểu điều gì đã xảy ra khiến nạn đói 1945 trở thành nỗi ám ảnh kinh hoàng nhất trong tâm trí của ông cha ta, tôi đã tự mình tìm hiểu điều này trước tiên:

1. Ai cũng biết chết đói là gì, nhưng cụ thể quá trình nó ra sao? 

Chết đói là tình trạng cơ thể không được cung cấp đủ năng lượng và chất dinh dưỡng cần thiết trong thời gian dài. Để duy trì sự sống, cơ thể phải tự ăn mòn chính mình, phá hủy cơ bắp, nội tạng cho tới khi nó teo tóp đến mức không thể di chuyển. Cái đói giày vò, đày đọa con người đến cùng cực. Nó cào ruột suốt ngày đêm. Nó mở banh con mắt không cho ngủ. Và khi cơ thể hoàn toàn suy kiệt đến cùng cực, người ta sẽ nằm bất động và chờ cái chết tới. 
Khi nạn đói lên đến đỉnh điểm vào đầu mùa hè năm 1945, người chết la liệt, không phân biệt được nam nữ, già trẻ, các tình nguyện viên nhặt xác đến một chỗ để chờ xe mang đi chôn.
Khi nạn đói lên đến đỉnh điểm vào đầu mùa hè năm 1945, người chết la liệt, không phân biệt được nam nữ, già trẻ, các tình nguyện viên nhặt xác đến một chỗ để chờ xe mang đi chôn.
Không giống như một cái chết nhanh chóng do tai nạn hay đột quỵ, chết đói là một quá trình kéo dài, khiến nạn nhân nhận thức được về cái chết đang đến của mình. Lý do bởi khi nhịp tim ngừng đập, não bộ vẫn có thể hoạt động trong một khoảng thời gian ngắn bằng các năng lượng dự trữ trong tế bào thần kinh. Tức là, ngay cả khi cơ thể gần như đã chết (tim ngừng đập, không còn thở) thì bộ não, ý thức và nhận thức của con người vẫn có thể biết được những gì đang xảy ra trước khi chìm vào bóng tối vĩnh viễn. 
Tôi tự hỏi trong khoảng thời gian ngắn ngủi ấy, những nạn nhân chết đói đã nghĩ gì, nhìn thấy gì với một cuộc đời bị tước đi nhân quyền và căn tính của mình? 
img_1
Câu hỏi này dẫn tôi quay về Việt Nam năm 1945 - một thời kỳ đen tối nhất trong lịch sử dân tộc, nơi mà cái đói không chỉ giết chết con người mà còn bóp nghẹt hy vọng, hủy diệt nhân tính của hơn 2 triệu người. 

2. Việt Nam 1944 - 1945: Một mùa xuân chết chóc và đói khát 

Không có một mùa xuân nào lạnh lẽo và tang thương hơn như Xuân Ất Dậu 1945. Ở khắp miền Bắc, từ nông thôn đến thành thị, cái chết len lỏi vào trong từng ngách nhỏ tới đường lớn. Không một ai thoát khỏi ma đói. 
Xác người nằm rải rác bên vệ đường, chợ búa, bến sông, góc đình đầu làng. Thay vì là mùi nắng mùi hoa, năm ấy chỉ có một mùi tử khí nồng nặc bao trùm lên cả đất trời. 
Những người làm công tác từ thiện đi rửa xương nạn nhân chết đói đưa về nghĩa trang chung. Ảnh: Võ An Ninh
Những người làm công tác từ thiện đi rửa xương nạn nhân chết đói đưa về nghĩa trang chung. Ảnh: Võ An Ninh
Sau khi đọc và tham khảo nhiều tài liệu nghiên cứu, những hình ảnh này cứ quanh quẩn lấy tâm trí tôi mãi: 
“Trẻ con bị bỏ hoặc bố mẹ chết rồi lê lết nhặt lá bánh, vỏ cây, rác rưởi nhét vào miệng. Người chết hẳn, người sắp chết rải rác trong chợ, trong các ngõ, nằm gối đầu lên mạnh chiếu hay cái bị rách, nhặng xanh bâu đầy mặt. Tử khí nặng nề u uất. Những chiếc xe bò đi nhặt xác chết lẫn cả người còn thoi thóp lên xe, đổ vôi bột vào, chở xuống những chiếc hố lớn đào sẵn. Người chưa chết hôm nay đi nhặt xác thuê xác người đã chết để lấy tiền mua một nắm cơm chim, mấy bát cháo cầm hơi và chờ đến hôm khác, người khác sẽ nhặt xác mình. Có người bị đưa lên xe cải tiến đi chôn tập thể, vẫn ngóc đầu dậy: Tôi chưa chết đâu.” -Trích Hà Nội khởi nghĩa, Hồi ký Lê Văn Ngọ; Ban nghiên cứu lịch sử Đảng, Hà Nội 1970, tr.182
Khi xin được ít cháo, hai em bé đổ cháo vào miệng bố, nhưng cháo chảy ra ngoài, vì hàm răng đã cứng lại. Ảnh chụp tại Phủ Lý, Hà Nam.
Khi xin được ít cháo, hai em bé đổ cháo vào miệng bố, nhưng cháo chảy ra ngoài, vì hàm răng đã cứng lại. Ảnh chụp tại Phủ Lý, Hà Nam.
Xuân Ất Dậu 1945 - một mùa xuân không có gì cả ngoài tiếng rên rỉ của những con người hấp hối, tiếng rao khản đặc của người kéo xe bò chở xác, tiếng quạ kêu quang quác giữa bầu trời xám xịt, rít theo tiếng gió hun hút qua những ngôi nhà giờ đây lả tả xác người. 
Nguyên nhân của thảm cảnh này là do đâu? 

3. Ba đòn giáng chí mạng khiến người dân chết đói hàng loạt

3.1. Thiên nhiên trở mặt: Từ hạn hán đến bão lụt

Miền Bắc là vùng đất hơi “khó chiều” thì hẳn có lẽ ai cũng biết. Mùa hè, nắng nóng gay gắt đến mức khiến ruộng đồng nứt nẻ, khô cằn bạc màu. Mùa đông, gió rét buốt thấu xương làm lúa non chết rét. Chưa kể đến lũ lụt, sạt lở đất lúc nào cũng trực chờ đe dọa mùa màng. 
Trong khi đó miền Nam lại được thiên nhiên ưu ái hơn rất nhiều. Sở hữu khí hậu ôn hòa quanh năm, đất đai màu mỡ nhờ phù sa sông Mê Kông giúp việc canh tác trở nên thuận lợi, miền Nam không chỉ đủ sức nuôi sống cư dân địa phương mà sản lượng lúa gạo còn dồi dào tới mức có thể xuất khẩu gạo sang các nước khác. Đây là một tiềm năng mà thực dân Pháp đã sớm nhận ra và xây dựng “một dây chuyền logistic” vận chuyển gạo từ Nam ra Bắc, thậm chí đưa ra nước ngoài để phục vụ các nước đồng minh. 
Mật độ dân số cũng là một yếu tố gây bất lợi. Trong khi miền Bắc có mật độ lên đến 430 người/km² ở các tỉnh đồng bằng sông Hồng (cao gấp 2-3 lần so với châu Âu thời đó), thì miền Nam chỉ có khoảng 120 người/km². Điều này dẫn đến tình trạng miền Bắc luôn phải đối mặt với áp lực lớn hơn về lương thực, ngay cả trong điều kiện bình thường.
Miền Bắc - với đặc thù mật độ dân số cao, đất nông nghiệp hạn chế, thế nên kể cả ở trong điều kiện thời tiết thuận lợi vẫn không thể sản xuất đủ sản lượng cần thiết để nuôi sống người dân. Đó cũng là căn nguyên vì sao miền Bắc có khả năng tự sản xuất lúa gạo, nhưng vẫn phải nhập gạo từ miền Nam để đảm bảo an ninh lương thực. 
Ấy vậy mà vào năm 1944 - 1945, miền Bắc đã phải trải qua những thảm họa thiên nhiên diễn ra liên tiếp, tàn phá mùa màng nghiêm trọng. 
Đầu tiên, lũ lụt. Đây là trận lụt lịch sử trên diện rộng giữa năm 1944, khi mà sông Thái Bình, sông Mã, sông Cả dâng cao, phá vỡ đê điều nuốt chửng cả đồng ruộng. Trận lụt này đã tràn vào cánh đồng, làng mạc cuốn trôi đi hoa màu, làm gia súc chết hàng loạt, làm tan hoang nhà cửa. Hàng trăm nghìn hecta lúa đang vào vụ thu hoạch hoàn toàn bị nhấn chìm khiến dân ta mất trắng hoàn toàn.  
 Đói khổ, lũ lụt khiến mọi thứ trở nên xác xơ, không còn sự sống
 Đói khổ, lũ lụt khiến mọi thứ trở nên xác xơ, không còn sự sống
Lũ lụt chưa qua, hạn hán lại tới. Mùa đông năm ấy, miền Bắc gần như không có mưa. Không một hạt mưa khiến các mạch nước ngầm cạn kiệt, lúa cấy không lên được, cây cối thì chết héo, đất đai bạc màu. Dân ta không thể gieo trồng vụ đông - xuân, không có gì để thu hoạch, mất trắng cả năm lương thực. 
Lượng gạo trung bình đề duy trì sự sống thời đó của một gia đình cơ bản thời đó là 300 - 377 kg/năm, vậy mà mức sản xuất ở miền Bắc còn rất xa mới đạt tiêu chuẩn đó, thế mà dân ta còn phải đối mặt với thiên tai. Trước tình trạng ấy, người miền Bắc đã sống bên bờ vực của nạn đói.
Người mẹ khóc nấc, thất thần mất con vì cái đói
Người mẹ khóc nấc, thất thần mất con vì cái đói
Nếu chỉ có thiên tai, người dân miền Bắc vẫn có thể khắc phục dần. Nhưng sự vơ vét cùng chính sách tàn bạo của quân Nhật sau đây đã khiến dân ta lâm vào cảnh không còn đường sống:

3.2. Cấm miền Nam vận chuyển lương thực ra Bắc

Cho tới thời điểm khi ấy, miền Nam là nguồn lương thực hy vọng duy nhất giúp nhân dân miền Bắc cầm cự. Thế nhưng, phát xít Nhật đã triệt đường sống của dân ta bằng một chính sách không thể tàn bạo hơn: Cấm miền Nam vận chuyển lương thực ra cho miền Bắc. Việc cấm vận này chỉ là một phần nhỏ trong kế hoạch kiểm soát lương thực của Nhật Bản. 
Như chúng ta đã biết từ năm 1940, Nhật đã xâm nhập Đông Dương dưới danh nghĩa “bảo hộ”. Đến năm 1944 - 1945, tình hình chiến sự chuyển biến bất lợi khiến Nhật bị quân đồng minh siết chặt nguồn tiếp tế. Đông Dương, đặc biệt là miền Nam với sản lượng lúa dồi dào, trở thành nguồn cung cấp quan trọng cho quân đội Nhật. 
Lúa gạo trong mắt Nhật giờ đây không chỉ là lương thực, mà còn là vũ khí chiến tranh giúp chúng đạt được nhiều mục tiêu khác nhau: 
(1) Thứ nhất: Cung cấp lương thực cho đội quân của mình đang tham chiến ở nhiều nơi.
(2) Thứ hai: Bóp nghẹt lực lượng kháng chiến đang trỗi dậy mạnh mẽ là Việt Minh lúc bấy giờ. Bằng cách hạn chế nguồn lương thực, Nhật muốn làm dân ta đói lả, kiệt quệ tinh thần để không còn sức lực tham gia phong trào đấu tranh.
(3) Thứ ba: Vận chuyển gạo về Nhật Bản để bù đắp thiếu hụt lương thực trong nước
(3) Cuối cùng: Dùng gạo như một loại hàng hóa trao đổi lấy vũ khí, nhiên liệu từ các đồng minh để duy trì chiến tranh.
Về cơ bản, Nhật không quan tâm đến việc dân ta có đói hay không. Chúng chỉ cần đảm bảo nguồn cung cần thiết phục vụ cho mục tiêu của mình. Bi kịch chưa dừng lại ở đó, dân ta còn gánh chịu thêm ách bóc lột của thực dân Pháp. Dù đã thất thế sau cuộc đảo chính, Pháp vẫn điên cuồng vơ vét tích trữ lúa gạo để cung cấp cho các khu vực do chúng kiểm soát; hoặc bán cho Nhật nhằm giữ vị thế chính trị - sâu xa là nuôi binh lính để phản Nhật, tái xâm lược lại Việt Nam. Dân ta chỉ còn lại những hạt thóc lép hoặc khoai sắn để cầm hơi qua ngày.
Xác chết được chất lên xe bò chở đi chôn.
Xác chết được chất lên xe bò chở đi chôn.
Giáo sư Văn Tạo cho biết: “Nhật - Pháp tuy thống nhất với nhau vơ vét thóc gạo nhân dân Việt Nam, nhưng chúng vẫn chuẩn bị diệt nhau. Việc Pháp thu thóc để cung cấp cho Nhật là có, nhưng không phải không lợi dụng lấy thóc đó để dự trữ chống Nhật”. Và Giáo sư kết luận: “Thủ phạm gây ra nạn đói khủng khiếp ở Việt Nam năm 1945 là Nhật - Pháp, mà Nhật là kẻ chịu trách nhiệm chính”
Một cổ hai tròng, không còn lối thoát, dân ta bị rơi vào tình thế bị bóp nghẹt từ mọi phía: Thiên tai tàn phá mùa màng, lương thực bị cấm vận. Nhật vơ vét đến hạt gạo cuối cùng, Pháp thì thừa cơ trục lợi. Nhưng không dừng lại ở đó, chúng còn tiếp tục ban ra hàng loạt các chính sách tàn bạo để đẩy nhân dân ta vào con đường chết đói. 

3.3. Gọng kìm chết chóc: Chính sách tàn bạo của Pháp - Nhật

3.3.1 Nhổ lúa trồng đay

Nguyên nhân chủ yếu gây nên nạn đói là việc vơ vét lúa gạo, nhưng việc bắt phá màu trồng đay cũng là một nguyên nhân quan trọng gây nên nạn đói.
Tiêu điều, heo hút, trơ xương trong nạn đói
Tiêu điều, heo hút, trơ xương trong nạn đói
Để phục vụ chiến tranh, Nhật đã bắt Pháp cưỡng ép nông dân nhổ bỏ lúa, trồng các thứ cây có sợi và có dầu như đay, gai, bông và lạc, thầu dầu và vừng…Những cây trồng này không thể ăn được, nhưng lại có giá trị với Nhật vì chúng được dùng để làm vải, dây thừng, vải bọc súng…. 
Hàng ngàn mẫu ngô bị tàn phá để phục vụ cho việc này. Theo thống kê năm 1940, diện tích trồng đay là 5.000 ha nhưng đến năm 1944 đã bành trướng lên tới 45.000 ha. Vậy thì lấy đâu ra đất để trồng lúa, để có cái mà ăn? 

3.3.2. Cưỡng chế thu mua lúa gạo, ngăn chặn tích trữ lương thực

Ngoài việc kiểm soát thị trường lương thực, Nhật còn thao túng giá cạo lên cao đến mức người dân không thể mua nổi. 
Trước tiên ở đầu nguồn thu, quân phát xít thiết lập các cơ quan mua lương thực và bắt buộc dân ta phải bán gạo cho chúng với giá rẻ mạt. Sau đó, chúng đầu cơ tích trữ với số lượng khổng lồ, không đưa ra thị trường để tạo ra sự khan hiếm nhân tạo. Khi nguồn cung sụt giảm nghiêm trọng, chúng bán lại với giá cắt cổ khiến dân nghèo không thể mua nổi.
Vận chuyển hài cốt đi chôn. (Ảnh tư liệu)
Vận chuyển hài cốt đi chôn. (Ảnh tư liệu)
Về nguồn bán, các đại lý buôn bán gạo đều bị quân Nhật kiểm soát, không được tự ý bán cho người dân mà phải tuân theo mức giá chúng quy định. Có nhiều giai thoại nói rằng binh lính Nhật thậm chí còn lùng sục các kho thóc, lục soát nhà dân thường xuyên để kiểm tra dân có giấu gạo hay không. Nếu bị phát hiện, chúng sẽ tịch thu và tra tấn dã man nhằm răn đe dân ta không được tái phạm. 
Nói trắng ra, Nhật khiến dân ta chết đói trong khi lúa gạo đầy kho. Tác giả Yoshizawa Minami cho biết thêm:
"Ông Kawai, đảm nhiệm công việc giám sát chuyển gạo từ Nam ra Bắc, đồng thời là quản lý chung về gạo dự trữ, kiểm soát việc phân phối trong tỉnh từng nói rằng: Có những nơi vẫn còn gạo chất như núi trong kho quân đội, thậm chí tại một nhà thờ Thiên chúa giáo trong tỉnh còn chứa gạo đầy ắp trong kho. Ông ấy đã thuyết phục cán bộ đại sự quán Nhật Bản mở kho phát gạo nhưng họ không nghe”. (Trích: Chiến tranh châu Á trong tiềm thức của chúng ta của Minami Yoshizawa – Nhật Bản)

3.3.3. Xiềng xích nô lệ: Chính sách lao dịch bóc lột

Không chỉ cướp bóc lương thực, thao túng giá gạo khiến dân ta chết đói trong cái cảnh “lúa đầy thóc, gạo đầy kho”, bọn Nhật còn bóc lột sức lao động tàn bạo, ép dân Việt Nam ta làm việc kiệt quệ trong điều kiện khắc nghiệt nhằm phục vụ bộ máy chiến tranh của chúng. 
Từ làm việc không công trong các công trường xây dựng như: sân bay, đường sá, cầu cống để phục vụ di chuyển quân đội, xây dựng hệ thống phòng thủ nhằm bảo vệ căn cứ quân sự của Nhật; đến bóc lột trong các nhà máy đồn điền cao su - nhân dân ta bị chúng ép làm việc kiệt sức đến mức chết vì đói khát, bệnh tật ngay tại công trường. 
Không có gì để ăn khiến người già trẻ em, thậm chí thanh niên trai tráng cũng trở nên tiều tụy. Trong ảnh trái, là một thiếu phụ với thân hình da bọc xương trong hàng ngàn thiếu phụ hiện ra khắp nơi năm 1945. Ảnh phải được nghệ sĩ nhiếp ảnh Võ An Ninh chụp tại Thái Bình, khi ông tới thì cả cha mẹ của ba anh em đã chết đói.
Không có gì để ăn khiến người già trẻ em, thậm chí thanh niên trai tráng cũng trở nên tiều tụy. Trong ảnh trái, là một thiếu phụ với thân hình da bọc xương trong hàng ngàn thiếu phụ hiện ra khắp nơi năm 1945. Ảnh phải được nghệ sĩ nhiếp ảnh Võ An Ninh chụp tại Thái Bình, khi ông tới thì cả cha mẹ của ba anh em đã chết đói.
Khai thác mỏ than, mỏ kim loại để cung cấp nguyên liệu cho chiến tranh - lao động cưỡng bức này được gọi là “phu đồn điền”, “phu mỏ”, “phu xây dựng” - những người bị bắt làm việc đến kiệt sức, nhiều người chết vì đói, bệnh tật hoặc kiệt quệ ngay tại công trường.
Dân làng mất đi người lao động chính, mùa màng bị bỏ hoang, càng làm cho nạn đói thêm trầm trọng.

4. Tiếng nói của các nhân chứng lịch sử - Lời kể từ người sống sót 

Đoạn tự sự dưới đây được đăng lần đầu tại Báo Bình Minh, số 18, ngày 09/04/1945.  Tôi xin phép được trích lại từ cuốn sách “Nạn đói năm 1945 ở Việt Nam - Những chứng tích lịch sử” do G.S văn Tạo và G.S Furuta Moto biên soạn.
Một điểm chôn tập thể người bị chết đói
Một điểm chôn tập thể người bị chết đói
“Tôi là một người dân ở nơi thôn dã, nên tôi đã được mắt thấy tai nghe những cảnh tượng vô cùng thê thảm của đám nông dân đang nheo nhóc trong cảnh đói rét.
Trên các ngả đường rải rác biết bao nhiêu gia đình: cha, mẹ, con, cháu chỉ còn manh khố cố bám lấy cái sống nheo nhóc, lại còn biết bao nhiêu xác: đàn ông, đàn bà, trẻ em chết nằm úp bụng xuống đất để đợi những người hảo tâm đào cho cái hố nông, hắt xuống, lấp lại. 
Trong những làng xóm, ta gặp những người quen mà không thể nhận được mặt vì đó chỉ là những bộ mặt nhem nhuốc, ngơ ngác, một tấm vải bẩn thỉu rách nát che thân; lượt da vàng ủng bọc lấy bộ xương trông rõ từng cái đầu gối. 
Đói quá, túng quá, bố chết hôm trước mẹ chết hôm sau, hôm thứ ba, hai đứa con chết nốt, chết không có chiếu mà bó, chết không có kẻ đưa, vì ai cũng đói, túng. Ôi mạng người còn kém mạng con vật, chỉ còn có cách: giống người chưa dám ăn thịt người.”
Nhưng em nhỏ đói, không biết cha mẹ còn hay đã chết. 
Nhưng em nhỏ đói, không biết cha mẹ còn hay đã chết. 
Lời kể tiếp theo được trích từ trang 498 mục “Lời kể nhân chứng” trong cuốn “Nạn đói năm 1945 ở Việt Nam - Những chứng tích lịch sử” của ông Đào Văn Sửu (71 tuổi)
“Năm 1945, tôi 21 tuổi, được chứng kiến cảnh chết đói thảm thương, đi đâu cũng thấy người chết đói nằm khòng kheo góc chợ, bên lề đường, chỉ có da bọc xương. Có người chết 2 3 ngày đã có mùi thối, tráng tuần mới lôi đi chôn. Bà Vũ Thị Ré, chị gái mẹ tôi vì nghèo đói, không lấy được chồng, bị đói, chết phải bó chiếu, hở cả đầu và chân; thê thảm nhất là bà Uy - mẹ tôi vì đói quá đi vào bếp ăn trộm cháo, ngã đâm đầu vào bếp có lửa, cháy nổ cả hai mắt, không ai biết, đến sáng hôm sau thì mèo chó đã hết thịt hai bắp chân, thật là chua xót…” [5]
Trên vỉa hè Nhà thờ Tin Lành phố Hà Trung, Hà Nội, một xác thiếu phụ đêm trước còn thoi thóp.
Trên vỉa hè Nhà thờ Tin Lành phố Hà Trung, Hà Nội, một xác thiếu phụ đêm trước còn thoi thóp.
Ở trong những thảm cảnh tàn khốc như vậy, ranh giới đạo đức trở thành thứ tan biến cùng nhân tính. Cái đói, trước khi đẩy thể xác xuống hố chôn tập thể, đã huỷ hoại tâm hồn và chôn vùi nhân phẩm con người. Trong quá trình tìm tài liệu, tôi đã đọc được những câu chuyện chưa được kiểm chứng như thế này: 
Có người vì đói quá mà giật một mẩu bánh mì bị Tây đánh đến chết; có người phải ăn cả cái người ta đã nôn oẹ ra, ăn cả những hạt ngô đãi được từ phế thải ngựa của Nhật… Không chỉ vậy, có những gia đình cha bỏ con, vợ bỏ chồng, anh em bỏ nhau, huỷ hoại cả người thân để giành lấy phần cơm mong thoát chết…nhưng rồi họ cũng chết. 
Quá đói, quá mệt, không đứng nổi... Ngồi chờ tiếp tế. 
Quá đói, quá mệt, không đứng nổi... Ngồi chờ tiếp tế. 
Nhật và Pháp nói trắng ra chỉ là những danh từ. Đằng sau những danh từ ấy là những con người bằng xương bằng thịt - họ đến từ những mảnh đất xa xôi nhưng mang trong mình khát vọng giản đơn không khác gì dân ta: Được ăn no, được mặc ấm, được học hành - Được sống trong Độc lập - Tự do - Hạnh phúc. Vì thế nên tôi vẫn không khỏi rùng mình khi thấy rằng sự tàn ác của con người có thể đi xa cùng cực đến đâu. 
Quân Nhật và Pháp thản nhiên nhìn đồng loại của mình chết đói thảm khốc, khủng khiếp ngay bên cạnh kho thóc mà chúng thu vét và tích trữ đến mục nát mà chẳng mảy may chút gì. Không một động thái, không một ánh mắt xót xa, không một khoảnh khắc lương tâm trỗi dậy.
Xác người khắp nơi trong nạn đói Ất Dậu
Xác người khắp nơi trong nạn đói Ất Dậu

5. Muôn vàn cách sinh tồn - Một khao khát được sống 

Cá nhân tôi tin rằng một trong những điều khiến binh lính Pháp - Mỹ - Nhật phải nghiêng mình thán phục khi nhắc đến người Việt Nam trong thời chiến, chính là tinh thần bất khuất, không bao giờ chịu khuất phục trước bất cứ thử thách nào. Càng bị dồn đến đường cùng, dân tộc ta càng thể hiện sự kiên cường và sáng tạo phi thường. Bởi trong hoàn cảnh khủng khiếp của nạn đói 1945, nhân dân ta đã tìm đủ mọi cách để sinh tồn. 
Cách đầu tiên: Tìm kiếm thực phẩm thay thế. Xin được trích lời bà tôi vẫn kể lại trên những bữa cơm, với những món ăn khó có thể tưởng tượng nổi:
“Lúc đấy làm gì có thịt thà để ăn như bây giờ. Các cụ phải nghiền vỏ cây chuối, vỏ khoai lang vỏ sắn để làm thành bột ăn cầm hơi. Khi nào mà hết cả vỏ cây vỏ lá thì phải đập nát rơm rạ ra, trộm với một ít bột mì để làm thành đồ ăn kia kìa. Khi ấy con gì còn sống là bắt về ăn, chuột ốc cua ăn hết thì mới có sức mà sống qua được ngày mai.” 
Những nạn nhân đói gặp gì ăn nấy. Sự khủng khiếp của cái đói nằm ở sự dày vò dai dẳng, đày đọa con người ngày này qua ngày khác. Hình ảnh được chụp tại Nam Định năm 1945.
Những nạn nhân đói gặp gì ăn nấy. Sự khủng khiếp của cái đói nằm ở sự dày vò dai dẳng, đày đọa con người ngày này qua ngày khác. Hình ảnh được chụp tại Nam Định năm 1945.
Trong bối cảnh khi ấy, dân ta đã phải tìm kiếm mọi nguồn thực phẩm có thể từ thiên nhiên như săn bắt côn trùng, thu hái các loại rau dại, củ mài trong rừng. Họ học cách chế biến những thực phẩm tưởng chừng như “chẳng có giá trị gì” thành đồ ăn được, dù gần như chẳng có chút dinh dưỡng nào nhưng vẫn giúp cầm cự qua cơn đói. 
Cách thứ hai: Tha hương cầu thực
Nhiều gia đình từ các vùng bị ảnh hưởng nặng nề bởi nạn đói như Thái Bình, Hải Dương, Nam Định, ninh Bình… đã buộc phải rời bỏ làng quê để đi tìm lương thực ở thành phố Hà Nội với hy vọng được cưu mang, có được công việc để nuôi sống bản thân và gia đình. 
Đoàn người đói, còn chút sức lực, còn đi được thì nối nhau đổ về trại Giáp Bát và nhà tế bần Sinh Từ. 
Đoàn người đói, còn chút sức lực, còn đi được thì nối nhau đổ về trại Giáp Bát và nhà tế bần Sinh Từ. 
Theo mô tả trong cuốn “Nạn đói năm 1945 ở Việt Nam - Những chứng tích lịch sử”, những cuộc di cư này diễn ra cực kỳ bi thảm. Người dân phải đi bộ hàng trăm cây số, nhiều người vì kiệt sức mà ngã gục trên đường và không bao giờ đến được đích. Cứ vài mét dọc đường là lại có những xác người nằm la liệt. Trẻ em, người già thường là những người đầu tiên không chịu nổi cuộc hành trình khổ ải này. 
Riêng ở bản thân thành phố Hà Nội, vốn đã kiệt quệ vì chiến tranh bóc lột cũng không đủ khả năng cưu mang hết số người di cư đổ về. Nhiều người sau khi đến thành phố vẫn không thoát khỏi cái chết vì đói.
Cách thứ ba: Hoạt động của Mặt trận Việt Minh cùng phong trào cứu đói 
Song song với ý chí kiên cường của dân ta, Mặt trận Việt Minh đã tổ chức nhiều hoạt động cứu đói với phương châm "Nhường cơm sẻ áo". Họ vận động những người có điều kiện đóng góp lương thực, thành lập các "hũ gạo cứu đói" và "kho thóc cứu đói" tại nhiều địa phương. Mặt trận Việt Minh cũng tổ chức các đội xung phong đi vận động nhân dân chống nạn đói, hướng dẫn cách trồng trọt ngắn ngày để có lương thực.
Lời kêu gọi của Mặt trận Việt Minh, cổ vũ dân ta cướp kho thóc của Nhật
Lời kêu gọi của Mặt trận Việt Minh, cổ vũ dân ta cướp kho thóc của Nhật
Dưới sự lãnh đạo của Mặt trận Việt Minh, nhiều cuộc đấu tranh đòi thực phẩm đã nổ ra. Nhân dân đã tự tổ chức các đội tự vệ để đột nhập vào các kho thóc của Nhật, của chính quyền bù nhìn để lấy lại lương thực đã bị tước đoạt. Những cuộc đấu tranh này không chỉ giúp nhân dân có thêm thức ăn mà còn nâng cao tinh thần đấu tranh cách mạng sau này. 
Quá đói, đồng bào cướp xe gạo do Nhật áp tải.
Quá đói, đồng bào cướp xe gạo do Nhật áp tải.

6. Hậu quả tang thương và những vết thương không bao giờ lành

Tôi đã gặp nhiều khó khăn trong việc tìm cách hữu hình hóa hậu quả thảm khốc của nạn đói kinh hoàng này. Nó để lại hậu quả vô cùng nghiêm trọng về nhiều mặt, qua những con số khó có thể tưởng tượng được.
Những người chết đói ở trại Giáp Bát, tới năm 1950 được cải táng đem về nghĩa trang Hợp Thiện, Hà Nội. Các loại xương được phân loại sắp xếp trong bể chứa.
Những người chết đói ở trại Giáp Bát, tới năm 1950 được cải táng đem về nghĩa trang Hợp Thiện, Hà Nội. Các loại xương được phân loại sắp xếp trong bể chứa.
Hơn 2 triệu người ước tính đã thiệt mạng trong vòng 8 tháng. Riêng tại Thái Bình - tỉnh chịu ảnh hưởng nặng nề nhất có tới 280.000 người chết, tương đương khoảng 1/3  dân số của tỉnh. Nam Định mất khoảng 230.000 người, Hải Dương mất 150.000 người, và còn vô vàn các hộ gia đình ở các tỉnh thành khác lâm vào tình trạng “tuyệt hộ” không còn ai sống sót, tạo nên một tổn thất về mặt nhân khẩu học không thể khắc phục trong nhiều thập kỷ.
Xương của các nạn nhân chết đói.
Xương của các nạn nhân chết đói.
Mất mát quá lớn về mặt con người dẫn theo hàng loạt các hệ lụy khác như sự sụp đổ domino. Sản xuất nông nghiệp ở miền Bắc gần như bị tê liệt hoàn toàn, khi mà trâu bò kéo cày đã bị chết đói, thiếu người làm ruộng dẫn tới diện tích canh tác bị bỏ hoang. Tài sản của 3 triệu hộ gia đình bị bán sạch để mua thức ăn tạo nên tình trạng nghèo đói kéo dài, không có sức để làm, và cũng không còn gì để ăn. 
Mùa xuân năm 1951, ngày lễ chôn cất những nạn nhân chết đói 1945 được tổ chức tại hầm hài cốt nghĩa trang Hợp Thiện, Hà Nội
Mùa xuân năm 1951, ngày lễ chôn cất những nạn nhân chết đói 1945 được tổ chức tại hầm hài cốt nghĩa trang Hợp Thiện, Hà Nội
Nạn đói cũng để lại một loạt những hậu quả âm ỉ trong hàng chục năm liền. Hơn 300.000 trẻ em bị đẩy vào hoàn cảnh mồ côi, lớn lên trong tình trạng suy dinh dưỡng trầm trọng, ảnh hưởng trực tiếp tới sự phát triển về thể chất và trí tuệ. Tỷ lệ mù chữ (vốn khi ấy đã cao), nay còn tăng lên đột biến do nhiều trường học đóng cửa hoặc nhiều em phải bỏ học tìm thức ăn. 
img_2
Một minh chứng là tôi tin rằng hậu quả của nạn đói 1945 không chỉ là một sự kiện lịch sử trong quá khứ, bởi những di chứng và sang chấn của nó vẫn đang tồn tại trong vô thức của người Việt. Khái niệm “vô thức tập thể” của Carl Jung  - một trong những nhà tâm lý học người Thụy Sĩ sẽ giúp tôi chứng minh luận điểm này. 
Trong khi vô thức cá nhân nói về những ký ức và trải nghiệm bị chủ thể đè nén, vô thức tập thể chứa đựng những nỗi sợ được thừa kế từ kinh nghiệm tổ tiên qua nhiều thế hệ, không phải được hình thành từ trải nghiệm cá nhân. Tuy rằng khái niệm này vẫn đang gây tranh cãi vì thiếu bằng chứng thực nghiệm và tính huyền bí của nó, nhưng tôi thấy lại nó trở nên sống động khi quan sát phản ứng của người Việt ta trước các cuộc khủng hoảng. 
Quầy thịt trong siêu thị Hà Nội trống trơn trước siêu bão Yagi
Quầy thịt trong siêu thị Hà Nội trống trơn trước siêu bão Yagi
Nhìn lại gần đây nhất là bão Yagi, hay xa hơn nữa là dịch Covid, tích trữ thực phẩm gần như là một bản năng tự động của chúng ta mỗi khi có dấu hiệu bất ổn. Hiệu ứng tích trữ đám đông này không chỉ đơn thuần là sự chuẩn bị trước những tình huống xấu, mà còn là biểu hiện của nỗi sợ sâu thẳm, một phản ứng tức thời không kiểm soát được. Nỗi sợ đói của tổ tiên đã trở thành một phần di sản vô hình được truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác, ngay cả khi nhiều người trong chúng ta chưa từng trải qua một ngày đói thực sự.
Và liệu bạn có để ý một fact thú vị: Kho tàng văn hóa, nghệ thuật của ông cha ta có hơn 400 câu ca dao tục ngữ bắt đầu bằng từ “ăn”. Vậy nên liệu tôi có nói quá không khi tin rằng, nỗi đau và nỗi sợ từ nạn đói đã góp phần hình thành nên bản sắc văn hóa và tâm lý vô thức của người Việt?

7. 80 năm đã qua nhưng nỗi đau dân tộc vẫn chưa lành 

Hai triệu người - một con số chỉ sống trên giấy không thể đo đếm hết nỗi đau của một dân tộc. Đó là hai triệu mảnh đời bị tước đi quyền được sống như một con người, hai triệu gia đình tan nát, đứt gãy, bầm dập với những sang chấn di truyền dân tộc không thể xoá nhoà. Một quá khứ trầm trọng, khủng khiếp mà không một con số thống kê nào có thể diễn tả được. 
Bởi vì ngay cả khi giờ đây, khi Việt Nam đã trở thành đất nước đứng thứ 3 thế giới về xuất khẩu gạo với những sản lượng kỷ lục thì nỗi sợ hãi về cái đói cồn cào vẫn ăn sâu vào tiềm thức trong từng bữa ăn.
“Đói thì đầu gối cũng phải bò” hoá ra chưa từng là một câu tục ngữ có nghĩa bóng như tôi từng nghĩ. 

Lời nói cuối

Kể cả khi viết đến dòng này, thật xấu hổ khi phải thừa nhận rằng dù có đọc hay nghiên cứu nhiều tư liệu tới đâu, trong tôi vẫn không thể sờ nắm được nỗi đau đớn tột cùng mà ông cha ta đã phải trải qua. Tôi kinh hoàng nhận ra rằng với tôi, nỗ lực cố gắng “sống lại” thời kỳ ấy của tôi chỉ như là một bộ phim tài liệu, tôi có thể lựa chọn không xem nữa để quay lại với “đời sống no đủ” bình thường bất cứ lúc nào. 
Nhưng với những con người phải trải qua nạn đói thảm khốc ấy, nó là thực tại không gì thay đổi được, nó đau đớn cho tới lúc chết. Để hiểu được điều đó là quá sức tưởng tượng của tôi - một con người được may mắn sinh ra khi thời cuộc đã hoà bình.
Nhưng có lẽ, chính sự bất lực trong việc cảm nhận nỗi đau ấy có thông điệp riêng của nó: Hoà bình và độc lập hôm nay được đổi bằng máu và nước mắt, đừng bao giờ quên. 

Nguồn tham khảo

1. Nội dung:
Những dẫn chứng được trích dẫn hoàn toàn từ công trình nghiên cứu "Nạn đói năm 1945 ở Việt Nam - Những chứng tích lịch sử" do GS Nguyễn Văn Tạo và GS Furuta Moto chủ nhiệm, phối hợp cùng các nhà nghiên cứu thuộc Viện Sử học thực hiện. Đây là một công trình nghiên cứu được thực hiện tỉ mỉ, công phu, là những khảo cứu chân thực được thực hiện với sự trợ giúp từ chính người Nhật Bản. Với những bạn muốn tìm hiểu chi tiết hơn về nạn đói 1945, xin đừng bỏ qua cuốn sách này.
2. Hình ảnh
Xin được bày tỏ lòng tôn kính với những nhiếp ảnh gia đã đánh đổi máu và nước mắt để ghi lại những hình ảnh quý báu này
Nhiếp ảnh gia Võ An Ninh bên đài tưởng niệm các nạn nhân chết đói năm 1945.
Nhiếp ảnh gia Võ An Ninh bên đài tưởng niệm các nạn nhân chết đói năm 1945.