Chúa Nhẫn thì hẳn gần như ai cũng biết đến, và biết được tầm quan trọng của nó với văn học fantasy hiện đại. Chúa Nhẫn đã đặt ra khá nhiều quy chuẩn và là thước đo cho rất nhiều tác phẩm fantasy các thế hệ sau. Vũ trụ Chúa Nhẫn không chỉ gói gọn lại trong cuốn "Anh chàng Hobbit" và cuốn "Chúa tể những chiếc Nhẫn", mà còn được mở rộng ra trong nhiều tác phẩm liên quan, phần lớn được biên tập bởi Christopher Tolkien - con trai của JRR Tolkien.
Đây sẽ là một bài viết điểm qua dòng lịch sử của Arda (Trái Đất trong vũ trụ Chúa Nhẫn) một cách cơ bản và vắt tắt. Phần lớn nội dung được trích từ cuốn The Silmarillion (Huyền sử Silmaril).
Artwork của AnatoFinnstark
Artwork của AnatoFinnstark

Về các Ainur

Thần thoại của JRR Tolkien về Arda (Trái Đất) bắt đầu với Ainulindalë (Điệu Nhạc Của Các Ainur), một tích truyện kể về Iluvatar, Thượng Đế, và các Ainur (Các Vị Thần). Các Ainur chính là những tạo vật thần thánh được sinh ra từ suy nghĩ của Iluvatar. Họ ca hát cho ngài, ban đầu từng người một, sau đó là các nhóm nhỏ, và cuối cùng tất cả cùng hòa ca để tạo nên một Giai điệu vĩ đại.
Trong số các Ainur, mạnh mẽ nhất chính là Melkor, và hắn bắt đầu gieo mối bất hòa giữa các Ainur bằng cách chêm vào những giai điệu của riêng hắn, bất nhất với chủ đề của Giai điệu vĩ đại. Việc này diễn ra trong Điệu nhạc khởi thủy, và Iluvatar đáp lại bằng cách bắt đầu Điệu nhạc thứ hai, và ngài giao cho Manwë, anh em với Melkor, hát phần chủ đạo.
Nhưng một lần nữa, Melkor chống lại Điệu nhạc thứ hai, và hắn dẫn dắt một vài Ainur khác tạo nên giai điệu hỗn loạn của riêng hắn, hòng phá hủy sự hòa hợp của Điệu nhạc. Và cũng một lần nữa, Iluvatar bắt đầu Điệu nhạc thứ ba, thâm sâu đến mức các Ainur cũng không thể theo kịp.
Và rồi Iluvatar lệnh cho các Ainur ngừng Điệu nhạc, và ngài cho họ thấy một viễn cảnh về một thế giới sẽ được tạo nên từ Điệu nhạc của các Ainur. Rất nhiều Ainur đã bị viễn cảnh ấy cuốn hút, và những Ainur quyền năng nhất khao khát biến chúng thành sự thực.
Iluvatar bằng lòng trước những khao khát này, và ngài tạo ra Ea (Thế Giới - tức vũ trụ). Những Ainur quyền năng nhất bước vào Ea, và từ đó về sau họ còn được gọi là các Valar (Đấng Quyền Năng), những người tạo ra hình dạng của vũ trụ và thế giới. Thủ lĩnh của các Valar không ai khác chính là Manwë, giúp sức ngài là Ulmo và Aulë, và họ cùng nhau kiến tạo thế giới.
Nhưng Melkor cũng đã đặt chân đến Ea, và hắn chờ đợi trong nhiều năm, đến khi thế giới hình thành, hắn mới công khai ra mặt và nảy sinh ý muốn chiếm lấy Arda cho riêng mình. Arda chỉ là một phần nhỏ của Ea, và Manwë đã triệu gọi nhiều Ainur để giúp ngài đánh đuổi Melkor khỏi nơi này. Melkor quan sát Arda được kiến tạo bởi các Valar cùng các hầu cận Maiar của họ, và hắn ghen tỵ với thành quả ấy. Cho nên hắn đã lại tiến đến Arda, tấn công các Valar, mê hoặc nhiều Maiar làm thuộc hạ. Thế rồi Tulkas, Valar mạnh mẽ và thiện chiến, biết rằng đang có chiến tranh tại Ea, đã đến giúp đỡ Manwë. Một lần nữa, Melkor bỏ chạy, vì hắn chưa thể chống lại các Valar.
Cuối cùng Arda đã thành hình, và các Valar cùng Maiar đem sự sống tới thế giới bằng vô vàn loài sinh vật và cây cối. Và để soi sáng thế gian, họ tạo ra Hai Đèn là Illuin ở phía bắc và Ormal ở phía nam.
Ở giữa vùng đất, họ tạo nên một cái hồ khổng lồ, và giữa hồ họ tạo nên một hòn đảo mang tên Almaren, nơi các Valar nghỉ ngơi và ngắm nhìn ánh sáng từ Hai Đèn.
Nhưng trong khi các Valar nghỉ ngơi, Melkor quay lại Arda. Đi cùng hắn là rất nhiều Ainur đã từng hòa chung giọng ca với hắn thuở ban đầu, và chúng đi đến vùng cực bắc của Arda. Ở nơi ấy, Melkor cùng thuộc hạ xây nên pháo đài hùng mạnh có tên Utumno.
Và khi thấy phe mình đã đủ mạnh, Melkor tấn công và hủy diệt Hai Đèn, phá hoại phần lớn công sức và thành quả của các Valar. Các Valar tuy bị bất ngờ và mất tinh thần nhưng đã nhanh chóng phản công, nhưng họ không thể bắt được Melkor khi hắn đã kịp quay về Utumno. Tại đó hắn tập hợp lực lượng của mình, trong số đó nổi bật nhất là Sauron; Gothmog Chúa tể của Balrog; Draugluin - cha của ma sói; Thuringwethil; và rất nhiều sinh vật khác. Nhưng trong số thuộc hạ của hắn thuở ban đầu cũng có những kẻ không hoàn toàn tuân phục Melkor. Ungoliant là một kẻ như vậy, và thay vì quay lại Utumno, mụ Nhện chạy tới vùng phía tây của Arda.
Cũng ở miền tây của Arda, các Valar đã tạo nên lục địa có tên là Aman (Phước Lành) và cư ngụ tại đó. Họ tạo nên một dãy núi có tên là Pelori và củng cố lại các hàng phòng thủ của Valinor - vùng đất của các Valar - chống lại Melkor. Các Valar lưỡng lự khi quyết định có nên phát động một cuộc chiến nữa để tấn công Melkor hay không, vì họ lo sợ cuộc chiến sẽ phá hủy nơi mà Iluvatar chọn để đánh thức những Đứa con của ngài.
Cũng tại Valinor, các Valar tạo nên những nguồn sáng mới. Đó là Hai Cây - Cây Bạc Telperion và Cây Vàng Laurelin. Ánh sáng của Hai Cây tỏa hầu khắp lục địa Aman. Nhưng ở ngoài Valinor, trong bóng đêm dưới phía nam dãy núi Pelori là nơi Ungoliant sinh sống và chăng tơ. Lãnh địa của mụ là nơi không kẻ nào dám bén mảng tới.
Sự kiên nhẫn của các Valar đã có kết quả khi họ phát hiện ra các Quendi (tức tộc Tiên), Lứa Đầu của Iluvatar đã tỉnh giấc và ca hát dưới trời sao tại vùng đất Cuiviënen ở phía đông Trung Địa. Nhưng các Valar đã chậm chân, vì Melkor đã phát hiện ra họ trước và gieo rắc sự kinh hoàng cho tộc Tiên. Không thể đứng yên chứng kiến những Đứa con của Iluvatar bị hành hạ và chìm trong khiếp sợ, các Valar quyết định phải tấn công và đánh đuổi Melkor. Cuộc chiến vì vận mệnh Tiên tộc bắt đầu, một cuộc chiến khốc liệt, đã thay đổi bề mặt thế giới. Nhưng cuối cùng Melkor cũng bị đánh bại và Utumno bị phá hủy hoàn toàn, chỉ chừa lại tiền đồn Angband ở phía tây. Melkor bị giải về Valinor, nơi hắn bị xét xử và chịu phán quyết bị giam giữ trong các đại sảnh của Mandos, là nơi ngay cả Melkor hùng mạnh cũng không thể thoát ra. Và trong nhiều thế hệ, Melkor bị giam cầm, héo mòn trong ngục tù, đến khi hắn được tha bởi lòng nhân từ của các Valar. Lúc đó, hắn nhận ra rằng một bộ phận lớn tộc Tiên đã di cư sang Valinor, sinh sôi nảy nở và tạo dựng một nền văn minh khiến Melkor cũng phải kinh ngạc.
Nhưng song song với đó, lòng đố kỵ và sự căm ghét lại trào dâng, và Melkor rắp tâm phải trả thù tộc Tiên vì những năm tháng bị giam cầm của hắn. Hắn tìm cách lấy lòng tin của họ, nhưng trong số 3 dòng tộc Tiên ở Aman thì các Tiên Vanyar và Teleri không bị ảnh hưởng bởi những lời dối trá của Melkor. Chỉ duy nhất những Tiên Noldor là bị dao động và ảnh hưởng bởi sự quỷ quyệt, dối trá của hắn. Cuối cùng, những lời dối trá của hắn đã đưa đến sự bất hòa giữa các vương tử vĩ đại nhất của Noldor là Fëanor và Fingolfin. Chuyện đến tai các Valar, nhưng khi họ còn chưa kịp ra tay, thì một lần nữa Melkor lại trốn thoát khỏi mọi sự truy đuổi. Hắn tìm đến vùng đất bóng tối Avathar, nơi Melkor gặp lại Ungoliant và thỏa thuận để mụ giúp sức hắn. Cả hai bí mật quay lại Valinor, và đợi đến ngày lễ hội diễn ra, khi Manwë mở đại tiệc và tất cả hàng phòng thủ đều lơi lỏng. Melkor và Ungoliant tìm đến chỗ của Hai Cây trên ngọn đồi Ezellohar, và tại nơi đó, Melkor dùng cây giáo đen đâm thẳng vào tâm mỗi Cây, gây ra những vết thương sâu, và nhựa cây tuôn trào ra như máu tràn đầy xuống mặt đất. Ungoliant liền hút chúng lên, từ Cây này đến Cây kia mụ đặt chiếc mỏ đen của mình vào vết thương của cây, cho đến khi chúng hoàn toàn cạn kiệt; và nọc độc tử thần trong mụ đã lan vào các mô cây và làm khô héo chúng, rễ, cành, và lá; và tất cả đều chết.
Bóng tối bao trùm Valinor, nhưng đó chưa phải tội ác duy nhất của Melkor. Hắn là người đã ra tay giết chết Finwë - Vua của tộc Noldor, và cướp đi ba viên Silmaril - những viên ngọc được tạo ra bởi con trai ngài Fëanor từ ánh sáng của Hai Cây, và là tạo vật duy nhất trên đời còn giữ ánh sáng ấy. Về phần Fëanor, khi biết tin về cái chết của phụ vương và việc mất đi ba viên Silmaril, ông đã đau khổ, và căm hận. Fëanor nguyền rủa Melkor, gọi hắn là Morgoth và kêu gọi tộc Noldor quay lại Trung Địa để giành lấy ba viên Silmaril. Ông cùng 7 người con trai đã lập một lời thề độc, rằng họ sẽ "truy tìm, săn đuổi và tiêu diệt bất cứ kẻ nào cầm trong tay Silmaril". Ngay cả các Valar cũng không thể khuyên can Fëanor, và phần lớn tộc Noldor đã theo ông ra đi, dù rằng có những người không hề muốn rời bỏ Aman.
Về phần Morgoth và Ungoliant, sau khi hủy diệt Hai Cây và cướp đi các viên Silmaril, chúng quay lại Trung Địa. Và cả hai bắt đầu tranh giành ba viên ngọc. Melkor muốn giữ chúng cho riêng mình, còn Ungoliant muốn có chúng để mụ nuốt nốt những ánh sáng cuối cùng của Hai Cây. Nhưng Ungoliant đã trở nên khổng lồ, và hắn đã mất đi sức mạnh của mình; và mụ đứng dậy, làn mây đen vây chặt quanh hắn, và khiến hắn vướng vào mạng nhện với những sợi tơ dính để siết cổ hắn. Rồi Morgoth hét lên khủng khiếp, vọng vào trong những dãy núi. Vì thế vùng đất đó được gọi là Lammoth, vì tiếng hét của hắn luôn vang vọng ở đó mãi mãi, đến nỗi bất cứ ai kêu la lớn tiếng trong vùng đất này sẽ đánh thức nó, và tất cả những mảnh đất hoang vu giữa những ngọn đồi và biển cả đều tràn ngập tiếng la hét trong đau đớn. Tiếng hét của Morgoth trong lúc đó là thứ tiếng lớn nhất và kinh khủng nhất từng được nghe thấy ở phía bắc; khiến núi non và mặt đất đều rung chuyển, và những tảng đá bị xáo trộn. Dưới những nơi bị lãng quên tiếng hét đã được nghe thấy. Sâu thẳm bên dưới đống đổ nát của Angband, trong những căn hầm mà các Valar trong lúc vội vã tấn công đã không đi xuống, vẫn còn những tên Balrog ẩn nấp, chờ đợi vị Chúa tể trở về; và chúng nhanh chóng xuất hiện, và vượt qua Hithlum chúng tiến tới Lammoth như một cơn bão lửa. Với những chiếc roi lửa chúng đánh tan mạng nhện của Ungoliant, khiến mụ run rẩy và bỏ chạy khỏi phía bắc, mụ tiến xuống Beleriand, và cư ngụ dưới Ered Gorgoroth (Dãy Núi Kinh Hoàng), trong thung lũng tối tăm mà sau này được gọi là Nan Dungortheb, Thung Lũng Chết Đáng Sợ, vì nỗi kinh hoàng mà mụ đã sinh nở ra ở đó. Những con quái vật kinh tởm với hình dạng giống nhện đã sống ở đó từ khi thành Angband đang được xây dựng, và mụ giao phối với chúng, và ăn thịt chúng; và sau này Ungoliant rời đi, và đi về phía nam bị quên lãng của thế giới, con cái của mụ sống ở đó và dệt lên những mạng nhện ghê tởm của chúng. Số phận của Ungoliant không chuyện nào kể lại. Nhưng một số người đã nói rằng mụ đã chết từlâu, trong cơn đói khát tột cùng sau cuối, mụ đã tự ăn thịt chính mình.
Morgoth quay về Angband, và tái xây dựng vương quốc của hắn trên Trung Địa. Hắn bắt đầu phát động chiến tranh với những Tiên còn ở lại Trung Địa mà không di cư sang Aman. Và khi tộc Noldor đến nơi, trong nhiều thế hệ chiến tranh nổ ra giữa Morgoth với Tiên Noldor cùng các đồng minh của họ. Vô vàn trận chiến khốc liệt và đẫm máu đã diễn ra, biết bao bi kịch đã xảy đến, cuối cùng Morgoth cũng đánh bại được mọi kẻ chống đối, và hắn gần như đã chiến thắng.
Nhưng hắn trở nên quá kiêu ngạo mà không đếm xỉa đến số ít ỏi những Tiên và Con Người còn sót lại sau biết bao trận chiến. Và rồi từ cả hai dòng tộc đã sinh ra Ëarendil, một người mang dòng máu của cả Tiên và Người, là một nhà thủy thủ vĩ đại. Với sức mạnh từ viên Silmaril mà Beren và Luthien đã đoạt lại được từ vương miện của Morgoth, chàng dong buồm đến Valinor, khẩn thiết cầu xin các Valar rủ lòng thương xót cho Trung Địa. Và cuối cùng, những lỗi lầm của Noldor đã được tha thứ, và các Valar sẽ xuất binh để hỗ trợ cho Sindar (những Tiên Xám, những Tiên không theo các Valar đến Aman thuở đầu) và Con Người.
Các Valar đã tập hợp một lực lượng đông đảo, vĩ đại nhất từ khi thế giới được kiến tạo, và sẽ không có một đội quân nào sánh được cho đến mãi về sau, khi Dagor Dagorath (Trận chiến của mọi Trận Chiến) diễn ra. Cuộc đối đầu giữa các đoàn quân phương Tây và phương Bắc được gọi là trận Đại Chiến, và Cuộc chiến Thịnh nộ. Toàn bộ sức mạnh của Ngai vàng Morgoth đã được dốc ra nhiều không kể xiết, và cả phương Bắc đã chìm trong khói lửa chiến tranh. 
Nhưng nó cũng không giúp được gì cho hắn. Bọn Balrog đã bị tiêu diệt, trừ một số con đã bỏ chạy và trốn trong những hang động sâu hoắm trong lòng đất; và vô số binh đoàn Orc đã chết như rơm rạ trong cơn đại hỏa, hoặc bị quét bay đi như những chiếc lá khô héo trước cơn gió cháy. Chỉ còn một số ít còn sống để quấy nhiễu thế giới trong nhiều năm sau đó. Và rất ít người còn lại trong ba gia tộc Tiên hữu, Tổ phụ của loài Người, đã tham gia vào phe của các Valar. Nhưng một phần lớn hậu duệ của loài Người, đã hành quân cùng với Kẻ thù, và người Tiên không bao giờ quên điều này. 
Sau đó, khi thấy quân mình đã bị đánh bại và sức mạnh bị phân tán, Morgoth đã run lẩy bẩy và không dám ra mặt. Nhưng hắn đã giáng xuống kẻ thù một đòn phản công tuyệt vọng cuối cùng mà hắn ta đã chuẩn bị từ trước, và từ các hố sâu của Angband, những con rồng có cánh chưa từng thấy trước đây đã bay ra; cuộc phản kích đáng sợ của chúng đột ngột và tàn khốc đến nỗi quân của Valar đã bị đánh bật trở lại, vì bầy rồng xuất hiện với sấm chớp gào thét trong cơn bão lửa. 
Nhưng Eärendil đã đến, tỏa sáng với ngọn lửa trắng, và xung quanh là vô vàn các loài chim khổng lồ trên trời được dẫn đầu bởi Thorondor, và một trận không chiến xảy ra cả ngày lẫn đêm. Trước khi mặt trời mọc, Eärendil đã giết chết Hắc Long Ancalagon, kẻ hùng mạnh nhất trong loài rồng, và xác nó rơi xuống các đỉnh núi Thangorodrim khiến chúng đổ nát tan tành. Rồi khi mặt trời ló dạng, đoàn quân Valar đã chiến thắng, và hầu hết bầy rồng đều bị tiêu diệt; tất cả những hang ổ của Morgoth đã bị cày xới và đào lên, và sức mạnh của các Valar đã ập xuống sâu dưới lòng đất. Morgoth đã bị dồn vào đường cùng, và mất hết tinh thần. Hắn trốn vào dưới nơi sâu nhất của hầm mỏ, và xin được đầu hàng và ân xá; nhưng hắn đã bị chặt đứt chân và bị ném cho dập mặt. Sau đó, hắn bị trói lại bằng sợi xích Angainor giống như trước đây, và chiếc vương miện sắt đã bị họ đập cho vào tận cổ hắn, còn đầu hắn thì cúi gập vào đầu gối.
Vì vậy, thế lực Angband ở phía Bắc đã kết thúc, và lãnh địa ác quỷ đã bị hủy diệt hoàn toàn; và từ dưới những ngục tù sâu thẳm, vô số nô lệ trong cảnh tuyệt vọng đã bước ra với ánh sáng bên ngoài, và họ nhìn vào một thế giới đã đổi thay. Vì cơn cuồng nộ của hai thế lực thù địch khủng khiếp đến nỗi phía bắc của Trung Địa đã bị vỡ vụn ra từng mảnh và gần như bị hủy diệt hoàn toàn.
Còn bản thân Morgoth đã bị các Valar tống qua Cổng Đêm ngoài Bức tường Thế giới, vào Khoảng không Vô tận; và họ luôn canh phòng chặt chẽ trên bức tường đó, còn Eärendil thì gìn giữ và bảo vệ biên giới bầu trời. Tuy vậy, sự xảo trá của hắn, kẻ hùng mạnh và đáng nguyền rủa, Morgoth Bauglir, Vị thần của Sự đáng sợ và Thù hận, đã được gieo vào trái tim của Tiên và Người như một thứ hạt giống sống dai dẳng và không thể bị tiêu diệt; và chúng lại đâm chồi nảy lộc ở khắp nơi, và sẽ sinh ra trái đắng của bóng tối vào những năm tháng về sau. Và rồi khi thời khắc đến, hắn sẽ phá tan mọi xiềng xích một lần nữa, và đem đến Trận chiến cuối cùng.
Với những Con Người đã góp công lật đổ Morgoth, họ nhận được phần thưởng từ các Valar, nhưng rồi chính phần thưởng này lại là hạt giống của nhiều sự kiện đau thương về sau. Các Valar ban cho họ tuổi thọ dài lâu, nhưng không ban cho họ sự bất tử như các Tiên. Vì vận mệnh của Con Người không gắn chặt với Arda, họ không còn ràng buộc với thế giới sau khi chết, và linh hồn họ được tự do, đi về nơi mà chính các Valar cũng không thể biết. Đó là món quà của Iluvatar, và không ai được phép tước đi nó. Họ được ban tặng hòn đảo Elenna ngoài khơi Trung Địa làm nơi sinh sống, và sau này họ gọi mảnh đất của mình là Numenor. Những Con Người này trở thành Dunedain, các vị Vua Loài Người, Con Người Phương Tây, dòng dõi cao quý hơn những tộc người Trung Địa khác. Trong một thời gian dài, người Numenor sống yên vui và bỏ mặc vùng đất Trung Địa đầy tai ương và đau khổ. Nhưng rồi họ dần dần thay đổi, trở nên ghen tức với cuộc sống bất tử của tộc Tiên.
Tại Trung Địa, bầy tôi thân tín nhất của Morgoth - Sauron và những sinh vật bóng tối khác trốn thoát được trong Cuộc chiến Thịnh nộ - đã xây dựng một vương quốc bóng tối khác ở vùng đất Mordor. Cho rằng các Valar sẽ không để tâm đến vùng đất này nữa, Sauron tấn công người Tiên để giành quyền làm chủ Trung Địa, nhưng người Dunedain đã trở lại để trợ giúp và đánh bại hắn. Thế rồi Sauron hướng tầm mắt đến Numenor, và nhận thấy bóng tối trong tâm họ ngày một lớn dần. Hắn bày mưu để tha hóa người Numenor, đưa họ đến con đường diệt vong. Và hậu quả là vị Vua Numenor cuối cùng, Ar-Pharazôn đã kiêu ngạo đến mức thành lập Hạm đội Đại Thủy Quân mà định tấn công Aman. Biết về việc này, các Valar rời bỏ vị trí mà đến cầu với Iluvatar, và ngài cho họ sức mạnh thay đổi thế giới vĩnh viễn. Numenor bị đánh chìm xuống lòng đại dương, thế giới bị bẻ cong, và Aman vĩnh viễn khuất khỏi tầm mắt của Trung Địa. Vương quốc Numenor bị hủy diệt, nhưng hậu duệ của họ vẫn còn - những Con Người Phương Tây không bị tha hóa. Và hậu duệ của họ sẽ chính là những người chứng kiến ngày tàn của Sauron.
Nhưng các Valar sẽ không bỏ rơi Arda, và khi Sauron trỗi dậy một lần nữa trong Kỷ Đệ Tam, họ đã gửi các sứ giả của mình đến để hỗ trợ các dòng tộc của Trung Địa chống lại Kẻ Thù. Đó là các Istari, và họ chính là những sự can thiệp trực tiếp cuối cùng của Valar vào số phận Các Đứa Con Của Iluvatar. Và trong số các Istari, duy chỉ có một người đã hoàn thành sứ mệnh của mình, ông tiêu diệt con Balrog cuối cùng, và lãnh đạo các Dân tộc tự do Trung Địa trong cuộc chiến lật đổ Sauron.

Về Tiên tộc

Chủng tộc đầu tiên cất tiếng nói và tỉnh giấc tại Trung Địa chính là Quendi, hay Tiên tộc, và họ được gọi là Lứa Đầu Của Iluvatar (trong khi Con Người được gọi là Lứa Kế Cận và Người Lùn được gọi là Những Đứa Con Nuôi). Vận mệnh của tộc Tiên gắn liền với Arda cho đến Ngày Tàn, và linh hồn của họ không thể rời khỏi Ea. Bởi vậy nên dù thân xác của họ có bị hủy hoại, thì nhờ ơn phước của Iluvatar và các Valar, họ vẫn có thể được tái sinh trong thân thể mới.
Những người Tiên được phân chia làm ba dòng tộc lớn: Minyar, Tatyar và Nelyar. Và trong cuộc phân chia lớn đầu tiên của Tiên tộc, họ phân thành hai nhóm lớn là Eldar và Avari. Eldar là những người chọn di cư sang lục địa Aman và Avari là những người chọn ở lại Trung Địa. Trong số các Eldar lại phân thành ba dòng tộc. Tất cả những người Minyar trở thành Tộc Vanyar, một nửa những người Tatyar trở thành Tộc Noldor, hai phần ba những người Nelyar trở thành Tộc Teleri. Những người Tatyar và Nelyar còn lại trở thành Avari. Và trong số các Tiên của Tộc Teleri chọn đi đến Aman, có những người đã không hoàn thành chuyến di cư mà lại ở lại Trung Địa. Những người Teleri đó về sau trở thành các Sindar.
Các Tiên Minyar có số lượng ít nhất, nhưng lại là những người thông thái nhất. Họ yêu mến các cánh rừng và các khu đồng bằng, và hầu hết có mái tóc màu vàng rực rỡ. Những người Tatyar là những thợ thủ công tài ba của tộc Tiên, những nhà sáng chế và các bậc thầy am tường tích truyện. Họ ưa thích các vùng đồi và núi, họ là các thợ rèn và thợ mỏ. Những người Nelyar thì là các ca sĩ tài năng, và họ yêu mến mặt nước hơn cả.
Khi Valar Oromë phát hiện ra Tiên tộc đã tỉnh giấc ở Cuiviënen, ông nhận ra họ đã bị một thế lực bóng tối đe dọa. Ngài đoán rằng đây hẳn phải là thuộc hạ của Melkor hoặc chính bản thân hắn. Và theo lời khẩn cầu của Oromë, các Valar đã triệu tập một hội đồng bàn định và quyết định phát động chiến tranh với Melkor, cũng như đem Tiên tộc tới sinh sống ở Aman. Và khi chiến trận kết thúc, Oromë trở lại mang theo lời hiệu triệu của các Valar, nhưng người Tiên vẫn sợ hãi và từ chối rời bỏ quê hương. Vậy nên Oromë đã chọn ra ba sứ giả từ các thủ lĩnh người Tiên để đến thăm Aman, tận mắt chứng kiến vùng đất tươi đẹp của các Valar. Ba người đó là Ingwë của những Tiên Minyar, Finwë của những Tiên Tatyar và Elwë của những Tiên Nelyar. Và sau này, chỉ duy nhất Ingwë là người tìm được yên bình vĩnh viễn ở Aman.
Ingwë đã thuyết phục toàn bộ Tiên Minyar theo chân đến Aman, và họ rời đi đầu tiên, bắt đầu chuyến Đại Hành Trình. Finwë thuyết phục được một nửa các Tiên Tatyar theo mình tới Aman, nối gót theo các Tiên Minyar. Elwë, với sự giúp sức của người em trai Olwë, đã thuyết phục được hơn một nửa Tiên Nelyar theo chân. Họ là những người lưỡng lự nhất khi rời bỏ quê hương, và về sau họ được gọi là các Teleri - Những Người Đến Muộn.
Ba nhóm Tiên chọn rời bỏ Trung Địa và chọn đi theo chuyến Đại Hành Trình về sau được gọi là các Eldar, Những Đứa Con Của Các Vì Sao, dù vốn đây là tên mà Oromë đặt cho toàn bộ người Tiên. Những người chọn ở lại Cuiviënen về sau được gọi là các Avari, Những Người Khước Từ, vì họ đã từ chối lời hiệu triệu của các Valar.
Các Tiên Teleri sau đó còn tiếp tục phân chia trên chuyến hành trình. Lần đầu diễn ra khi Lenwë, một trong các thủ lĩnh quyết định quay đầu khi đến sông Anduin và dẫn theo một phần ba số Tiên Teleri. Những người này về sau trở thành các Tiên Nandor. Lần tiếp theo diễn ra ở vùng Beleriand ở phía bắc Trung Địa, Elwë đã bị mê hoặc bởi giọng ca và vẻ đẹp của một Maiar tên là Melian trong rừng Nan Elmoth mà bỏ thần dân của mình. Những người khác đi tìm Elwë trong vô vọng, và Olwë đành phải lên làm vua người Teleri rồi tất cả rời đi. Những người còn ở lại tìm kiếm Elwë đã bị bỏ lại khi các Tiên Teleri rời Trung Địa, và họ gọi mình là Eglath, Những Người Bị Bỏ Lại. Nhưng ngoài ra còn một nhóm Tiên Teleri khác cũng ở lại Trung Địa. Nhóm này được dẫn dắt bởi Cirdan, người ở lại bờ biển của Trung Địa vì tình bạn với Maiar Ossë. Những người theo ông về sau tự gọi mình là Falathrim, Cư Dân Bờ Biển.
Những Tiên Teleri đến được Aman chỉ bằng phân nửa so với số người ra đi lúc đầu, và họ được dẫn dắt bởi Olwë, và ông trở thành vua của họ. Nhưng trong khi các Tiên Vanyar và Noldor đã định cư tại Aman thì trong một thời gian dài, các Tiên Teleri sống ở Tol Eressëa, một hòn đảo lớn nằm ngoài khơi Aman, cho đến khi Maiar Ossë được cử đến để dạy họ về nghệ thuật đóng tàu thuyền.
Tại Aman, Ingwë và Finwë cùng nhau xây nên thành phố Tirion trên ngọn đồi Tuna tại Calacirya, thung lũng duy nhất của dãy núi Pelori. Nhưng rồi dần dần, Ingwë và các Tiên Vanyar khác rời bỏ thành phố và đến sống ở nhiều nơi trên khắp Valinor. Còn về Olwë và các Tiên Teleri sau khi đến Aman, họ quyết định sẽ sinh sống ngay tại vùng bờ biển. Với sự giúp đỡ từ dân của Ingwë, họ xây nên thành phố Alqualondë, Cảng Thiên Nga. Trong nhiều thế kỷ, dân Eldar sinh sôi tại Aman, số lượng tăng lên và họ học được bao tích truyện từ các Valar và Maiar.
Chúng ta hãy nói về Finwë và các Tiên Noldor, vì quả thật phần lớn các biến cố xảy ra thuở Cựu Niên đều xung quanh dân Noldor và hậu duệ của Finwë cả. Finwë lấy hai vợ, một điều chưa từng có tiền lệ của dân Eldar. Vợ đầu của ngài là Miriel, mất không lâu sau khi hạ sinh người con trai tên Fëanor. Dù Finwë tiếc thương bà vô hạn, ngài muốn có thêm con, và về sau cưới Indis, em gái của Ingwë. Bà sinh cho đức vua ba người con gái là Findis, Faniel và Irimë; cùng hai con trai là Nolofinwë và Arafinwë. Nolofinwë về sau còn được biết đến là Fingolfin, vị vua vĩ đại nhất của các Noldor ở Trung Địa, còn Arafinwë về sau được gọi là Finarfin.
Về phần Fëanor, chàng là người cao quý và tài năng, nhưng không lấy làm vui thú gì với cuộc hôn nhân thứ hai của vua cha, và chàng cũng chẳng ưa gì hai người em trai cùng cha khác mẹ là Fingolfin và Finarfin. Chàng dành nhiều thời gian với gia đình của riêng mình. Thuở còn trẻ, Fëanor đã kết hôn với Nerdanel, con gái của Mahtan, một trong những thợ rèn tài ba nhất của dân Noldor, và được chính Valar Aulë chỉ dạy về nghệ thuật rèn đúc. Fëanor dành thời gian với vợ và bảy người con trai, đồng thời rèn giũa nghệ thuật rèn đúc.
Dần dần, Fëanor trở thành nghệ nhân tài ba nhất trong toàn dân Eldar. Và nghệ phẩm vĩ đại nhất của Fëanor chính là ba viên ngọc Silmaril, mang trong mình ánh sáng vĩnh cửu từ Hai Cây. Đó hẳn là thành tựu vĩ đại nhất của Fëanor, nhưng không phải duy nhất. Fëanor còn nhiều thành tựu khác, ví như cái tiến bảng chữ cái Tengwar của dân Eldar; chế tạo ra các quả cầu nhìn xa Palantir; và nhiều thứ khác nữa.
Nhưng Fëanor cũng là người nóng nảy, thiếu đi sự thông thái, để dẫn đến việc bị những lời dối trá của Melkor làm dao động. Fëanor tin rằng người em trai Fingolfin đang rắp tâm chiếm lấy vị trí của mình. Những suy nghĩ tai hại ấy đã dẫn đến việc Fëanor rút kiếm đe dọa Fingolfin tại chính tòa tháp của vua cha, trước sự chứng kiến của bao nhiêu người khác. Trước hành động đó, các Valar đã ra lệnh cho Fëanor phải bị lưu đày tới phía bắc Valinor, nhưng đức vua Finwë cùng rất nhiều dân Noldor đi cùng chàng. Họ xây nên thành phố Formenos. Và nhiều năm sau, trong buổi đại tiệc của các Valar, khi Fëanor được phép trở về thành phố Valmar để giảng hòa với người em trai thì Finwë lại không đi cùng. Và điều ấy đã dẫn đến cái chết bi thảm của đức vua dưới tay Melkor, kẻ đã phá hủy Hai Cây và cướp đi ba viên Silmaril. Không kẻ nào có thể chống lại Melkor, và nhiều người đã ngã xuống tại Formenos cạnh đức vua Finwë.
Khi nghe tin về tai ương giáng xuống gia tộc, Fëanor bất chấp lệnh cấm của các Valar mà trở về thành phố Tirion. Tại đó ông tập hợp dân chúng và thuyết phục họ theo chân mình trong cuộc trả thù Melkor. Nhưng không phải mọi dân Noldor đều ủng hộ Fëanor, nhiều người trong số họ muốn Fingolfin trở thành vua hơn là Fëanor.
Ban đầu các Valar không can dự vào quyết định của dân Noldor, vì họ không muốn áp đặt ý chí của mình lên các Eldar. Nhưng với riêng Fëanor, các Valar nhất quyết trục xuất ông khỏi Aman vì lời thề độc mà ông cùng các con trai đã lập, rằng họ sẽ trả thù cho cái chết của Finwë và lấy lại ba viên Silmaril bằng mọi giá. Fëanor sau khi thuyết phục phần lớn dân Noldor đi theo (trong đó có cả hai em trai ông là Fingolfin và Finarfin) liền dẫn họ lên phía bắc tới thành phố Alqualondë và hy vọng dân Teleri sẽ giúp sức.
Tuy nhiên Olwë đã từ chối rời Aman, vì dân của ông đang sống yên vui dưới sự bảo vệ và chỉ dạy của các Valar, và họ sẽ không bị những lời dối trá của Melkor làm dao động. Vậy nên Fëanor quyết định tìm cách trộm những con thuyền thiên nga của người Teleri. Ông bị bắt gặp, và Fëanor rút vũ khí ra chống lại những Tiên Teleri tại bến cảng. Và khi Fingon con trai Fingolfin tới nơi, chàng nghĩ rằng người Teleri đã tấn công trước. Thế nên Fingon đã dẫn quân tới bảo vệ Fëanor, và một trận chiến đẫm máu đã diễn ra. Cuối cùng người Teleri đã bị khuất phục, và phần lớn số thủy thủ của họ tại Alqualondë đã bị giết hại dã man. Đó chính là Nội chiến Tiên tộc, tội ác lớn đầu tiên của người Noldor.
Và vì tội ác này, các Valar đã đặt một lời nguyền lên dân Noldor và sự diệt vong với Fëanor và gia tộc của ông. Đó được gọi là Lời Tiên Tri của phía Bắc, và Lời Nguyền của Noldor. Phần lớn nó được nói ra bằng những từ ngữ đen tối, và người Noldor không hề hiểu cho đến khi tai họa ập lên đầu họ.
Vô vàn nước mắt sẽ rơi xuống; và các Valar sẽ đóng cửa Valinor lại, và nhốt các ngươi ở ngoài, để ngay cả tiếng vang từ lời than thở của các ngươi sẽ không vượt qua khỏi các ngọn núi. Cơn thịnh nộ của Valar sẽ giáng xuống gia tộc nhà Fëanor từ phương Tây đến tận cùng phương Đông, và sẽ giáng xuống tất cả những ai đi theo họ. Lời thề của chúng sẽ dẫn dắt, và phản bội chúng, và sẽ cướp đi thứ châu báu mà chúng thề sẽ theo đuổi. Những thứ có khởi đầu tốt đẹp đều sẽ có kết cục bi thảm; và bởi vì chúng phản bội lại đồng bào, nỗi sợ bị làm phản rồi cũng sẽ xảy ra. Chúng sẽ mãi là những Kẻ bị phế truất. Các ngươi đã đổ máu đồng loại của mình một cách bất chính và làm vấy bẩn mảnh đất Aman. Vì nợ máu sẽ phải trả bằng máu, và bên ngoài Aman các ngươi sẽ sống trong bóng tối của Tử Thần. Vì mặc dù Iluvatar đã ban cho ngươi sự bất tử trong cõi Ea, và không bệnh tật nào có thể quật ngã các ngươi, nhưng cái chết luôn hiện hữu, và sẽ tìm đến các ngươi bằng vũ khí, bằng sự dày vò và bằng sự đau khổ; và những linh hồn vất vưởng của các ngươi sẽ đến chờ ở Mandos. Các ngươi sẽ ở đó rất lâu và khao khát lại thân thể của mình, và sẽ không ai thương xót dù cho những nạn nhân của các ngươi có van nài đi chăng nữa. Và những ai còn sống ở Trung Địa mà không phải gặp Mandos, sẽ bị gánh nặng của thế giới khiến cho mệt mỏi, và sẽ tàn lụi và trở thành bóng tối của sự ân hận trước khi chủng tộc non trẻ xuất hiện sau này. Như lời các Valar đã nói.
Khi nghe thấy Lời Nguyền này, Finarfin đã sợ hãi và lo lắng cho vận mệnh của người Noldor. Vì thế ông cùng nhiều người khác quay trở lại Aman và nhận được sự tha thứ của các Valar. Ông trở thành Vua của những người Noldor còn ở lại Valinor.
Về phần Fëanor và những người đi theo, họ cướp được nhiều thuyền của người Teleri, nhưng trong chuyến hải trình vượt biển, rất nhiều trong số chúng đã bị phá hủy bởi Maiar Uinen, Phu nhân Biển Cả, người nổi thịnh nộ vì tội ác của dân Noldor. Nhưng đó chỉ là số ít dân Noldor thân tín đi theo Fëanor, bởi lẽ thuyền không đủ chở hết họ, và phần lớn dân Noldor còn ở lại bờ biển Aman cùng Fingolfin. Fingolfin đã dẫn những người Noldor còn lại lên mãi phía bắc, tới tận đồng bằng Helcaraxë buốt giá, nơi chưa ai từng vượt qua, ngoại trừ các Valar. Vì không còn cách nào khác, họ băng qua Helcaraxë, và dù vô số người đã bỏ mạng, dân Noldor cuối cùng cũng tới được Trung Địa.
Ở Trung Địa, khi biết tin về Fëanor và người Noldor, Chúa tể bóng tối Morgoth ở Angband đã tung quân tấn công họ ngay khi Fëanor tới Mithrim. Trận chiến này được gọi là Dagor-nuin-Gilliath, tức Trận chiến dưới các vì sao, bởi lúc đó mặt trăng và mặt trời vẫn chưa được tạo ra. Người Noldor thắng trận, và tiêu diệt phần lớn quân đoàn Orc của Morgoth. Nhưng Fëanor, quá tự tin vào sức mạnh của mình, đã không dừng lại mà tiếp tục truy đuổi tàn quân lũ Orc, đến mức vượt xa khỏi đội quân chính của mình mà chỉ có số ít cận vệ theo sau. Thấy điều này, bè lũ Orc của Morgoth liền quay ngược trở lại tấn công Fëanor. Và vì lúc này đã ở gần Angband, nên bọn Balrog nhanh chóng tiến ra tiếp viện. Và ở trong vùng Dor Daedeloth, lãnh địa của Morgoth, Fëanor và các cận vệ bị bao vây. Dần dà chỉ còn Fëanor sống sót, nhưng ông vẫn tiếp tục vung kiếm chiến đấu, mặc cho vô vàn vết thương. Cuối cùng, Fëanor bị Gothmog, Chúa tể của Balrog đánh gục và có lẽ đã bị hạ sát luôn nếu không có các con trai đến chi viện.
Sau đó, họ dựng ông dậy và mang ông trở về Mithrim. Nhưng khi họ đến gần Eithel Sirion và đang trên đường đi lên để vượt qua các ngọn núi, Fëanor đã ra hiệu cho họ dừng lại; vì vết thương quá nghiêm trọng, và ông biết rằng thời khắc của cái chết đang đến gần. Và khi nhìn ra từ sườn núi Ered Wethrin lần cuối, ông trông thấy các đỉnh Thangorodrim nằm phía xa, những đỉnh tháp cao nhất ở Trung Địa, và nhận ra trong lúc lâm chung rằng sẽ không có một sức mạnh nào của người Noldor có thể lật đổ được chúng; nhưng Fëanor đã nguyền rủa cái tên Morgoth ba lần, và dặn các con trai phải giữ lấy lời thề để trả thù cho cha chúng. Sau đó ông chết; nhưng không được chôn cất hay có mồ yên mả đẹp, vì linh hồn rực lửa của ông đã biến ông thành tro bụi, và cuốn chúng đi trong gió như làn khói; và Arda sẽ không sản sinh ra một ai giống như vậy nữa. Linh hồn của Fëanor cũng sẽ không bao giờ rời khỏi sảnh đường Mandos. Và đó là cái kết của người con vĩ đại nhất của tộc Noldor, người đã làm những việc phi thường nhất cũng như mang lại nỗi đau lớn nhất cho họ.
Ngay khi Fëanor vừa băng hà, Morgoth đã cử sứ giả đến các người con của chàng, chấp nhận bại trận và đưa ra các điều khoản, kể cả việc hoàn trả lại một viên Silmaril. Sau đó con trai trưởng, Maedhros cao lớn, thuyết phục các em mình giả vờ chấp nhận điều kiện của Morgoth, và gặp các sứ giả ở một địa điểm định trước; nhưng người Noldor cũng như chàng đều không tin tưởng vào việc này. Do đó, phái đoàn sứ giả mỗi bên đều mang theo quân nhiều hơn như đã thỏa thuận; nhưng Morgoth đã phái đi với số lượng còn nhiều hơn, và còn có cả Balrog nữa. Maedhros bị phục kích và tất cả người trong đoàn đều hy sinh; còn chàng thì bị bắt sống theo lệnh của Morgoth và giải về Angband. Và các em trai chàng phải rút lui về Hithlum. Nhưng rồi hy vọng tới khi đoàn người Noldor đi theo Fingolfin xuất hiện và tiến vào Hithlum. Và đó cũng là thời khắc mặt trời lần đầu tiên xuất hiện, sau khi các Valar tạo ra mặt trời và mặt trăng.
Để hàn gắn sự rạn nứt trong nội bộ dân Noldor, Fingon con trai Fingolfin đã giải cứu Maedhros khỏi nơi giam giữ của chàng trên các vách núi cheo leo của Thangorodrim. Vì chiến công này, mối bất hòa giữa dân Noldor đã được xoa dịu, và Maedhros đã nhường lại quyền kế vị cho Fingolfin. Nhưng chuyện này thì các em trai chàng đều không bằng lòng, tuy chẳng nói ra.
Trong các thế kỷ tiếp theo, người Noldor lập nên nhiều vương quốc ở Beleriand phía bắc Trung Địa. Họ kết giao với các Tiên Sindar, các Tiên Xám ở Beleriand, và họ còn được sự trợ giúp từ các bộ tộc Người Lùn và các gia tộc Con Người. Nhưng dù chiến đấu kiên cường và dũng cảm, họ không thể nào chiến thắng được Morgoth, và các vương quốc của họ dần bị hủy diệt, bản thân Fingolfin cũng tử trận dưới cây búa Grond ác hại của Morgoth. Nhưng bi kịch của họ vẫn còn chưa thực sự đến. Khi Beren, một Con Người thuộc về Gia tộc đầu tiên trong số ba gia tộc Edain đem lòng yêu nàng Luthien, con gái của Đức vua Elwë cùng Mair Melian, Elwë đã lệnh cho Beren tìm lại một viên Silmaril để làm quà cưới. Nhiệm vụ nguy hiểm và đầy tai ương này đã dẫn đến cái chết của Finrod, con trai cả của Finarfin và cũng là Vua của Nargothrond; bản thân Beren cũng hy sinh trước móng vuốt của lũ sói Angband, nhưng viên Silmaril đã được lấy về nhờ sự dũng cảm của họ, và nhờ những cố gắng của Luthien. Và tuy đã chết, nhưng linh hồn của Beren sau sự khẩn cầu của Luthien lúc chàng lâm chung đã nán lại ở sảnh của Mandos, không muốn rời khỏi trần gian cho đến khi Luthien đến nói lời từ biệt cuối cùng trên bờ biển Ngoại Hải mờ mịt, nơi người chết một khi đi sẽ không bao giờ trở lại. Nhưng linh hồn của Luthien chìm trong bóng tối, và cuối cùng đã bay đi, và cơ thể nàng ở lại như một đóa hoa bị đột ngột cắt đi và nằm lại trên cỏ không hề héo tàn một lúc lâu. 
Rồi vào một mùa đông, Lúthien đã đến sảnh đường Mandos, nơi định sẵn dành cho người Tiên, nằm ngoài những tòa lâu đài của phương Tây trên những ranh giới của thế gian. Ở đó, rất nhiều người ngồi trong bóng tối của tâm trí mình. Nhưng vẻ đẹp của nàng lại rạng ngời nhất, với nỗi buồn đậm sâu hơn của tất cả tất cả mọi người; và nàng quỳ xuống trước mặt Mandos và cất tiếng hát cho ngài nghe. Bài hát của Luthien trước Mandos là bài hát đẹp đẽ nhất từng được ngôn từ thêu dệt nên, và cũng là bài hát sầu thảm nhất mà thế giới sẽ nghe thấy. Bất biến, bất diệt, nó vẫn được hát lên vượt khỏi tầm nghe của thế gian, và các Valar đã rất đau buồn khi nghe thấy nó. Vì Luthien đan xen hai chủ đề vào nhau, về nỗi buồn của người Eldar và nỗi đau của loài Người, về hai Dòng giống được Ilúvatar tạo ra để sinh sống trên Arda. Và khi nàng quỳ xuống trước ngài, những giọt lệ của nàng rơi xuống như những hạt mưa rơi trên phiến đá; và Mandos đã động lòng trắc ẩn, ngài chưa bao giờ xúc động đến như vậy, và kể từ đó cũng không bao giờ như vậy nữa.
Vì vậy, ông đã triệu hồi Beren, và khi nàng đã nói vào thời khắc của tử thần, họ đã gặp lại nhau bên ngoài Biển Tây. Nhưng Mandos lại không có quyền giữ lại linh hồn của những Người đã chết trên trần gian sau khi họ đã chờ xong; ngài cũng không thể thay đổi được số phận của Những đứa con của Iluvatar. Vì thế ngài đã đến gặp Manwë, Chúa tể của các Valar, người cai quản thế giới dưới bàn tay của Ilúvatar; và Manwë tìm kiếm lời khuyên trong suy nghĩ sâu xa nhất của mình, nơi ý nguyện của Iluvatar được tiết lộ.
Đây là những lựa chọn mà ngài ấy đã dành cho Lúthien. Vì những nỗ lực và khổ hạnh của mình, nàng sẽ được quyền rời khỏi Mandos, và đến Valmar sống đến ngày tận thế cùng các Valar, mà quên đi tất cả những ngày tháng đau buồn mà cuộc đời nàng đã nếm trải. Beren thì không thể đến đó. Vì các Valar không có quyền tước đi Cái chết khỏi chàng, vì đó là món quà của Iluvatar ban tặng cho loài Người. Còn một lựa chọn khác chính là: nàng sẽ được quay về lại Trung Địa, và đưa Beren về cùng mình sống ở đó một lần nữa, nhưng cuộc sống hay niềm vui đều không thể biết trước. Rồi nàng sẽ trở thành người phàm, và sẽ phải chịu cái chết lần hai giống như chàng; và rất lâu trước khi nàng rời xa thế giới vĩnh viễn, vẻ đẹp của nàng sẽ chỉ là ký ức trong những câu ca.
Nàng đã chọn lấy định mệnh này, từ bỏ Cõi phước lành, và từ giã mối quan hệ họ hàng của mình ở chốn đó; và vì thế bất cứ khổ đau nào đang đợi chờ ở phía trước, số phận của Beren và Luthien đã được hòa vào nhau, và con đường của họ sẽ cùng nhau vượt ra khỏi ranh giới của trần gian. Vì vậy, trong số người Eldar chỉ có một mình nàng là có một cái chết thật sự, và rời khỏi thế giới từ rất lâu. Tuy nhiên trong sự lựa chọn của nàng, cả Hai Dân tộc đã được hòa quyện vào nhau; và dù thế giới đã đổi thay, người Eldar vẫn chưa thấy một ai khác có vẻ đẹp tuyệt trần như Lúthien, người mà họ đã mất đi mãi mãi. 
Viên Silmaril giờ thuộc về Elwë, và ngài ủy thác cho những Người Lùn việc khảm viên Silmaril ấy vào chiếc vòng cổ Nauglamír đẹp đẽ. Nhưng khi công việc hoàn thành, lòng tham của Người Lùn nổi lên, và họ yêu cầu quyền sở hữu của bảo vật này. Elwë đã từ chối với những lời lẽ ngạo mạn, và ngài bị những Người Lùn giết chết ngay tại đó, tuy nhiên chỉ có hai kẻ trốn thoát được khỏi vương quốc Doriath của Elwë, không lấy được viên Silmaril. Nhưng chính hai kẻ đó đã bóp méo sự thật, dẫn đến tấn thảm kịch giữa Tiên và Người Lùn khi các đội quân từ dãy núi Lam tấn công và hủy diệt vương quốc Doriath.
Dior, con trai của Beren và Luthien đã cố gắng gây dựng lại Doriath, nhưng đạt được ít thành tựu. Và sau khi Beren và Luthien qua đời, chàng trở thành chủ nhân của viên Silmaril. Và các con trai của Fëanor yêu cầu Dior trả lại viên ngọc ấy cho họ, nhưng Dior từ chối, và một cuộc chiến nữa diễn ra, những gì còn lại của Doriath bị hủy diệt. Dior tử trận, nhưng con gái chàng Elwing trốn thoát được đến vương quốc của các Tiên Sindar. Họ cũng đã cưu mang những người còn lại của Gondolin, vương quốc của Turgon con trai Fingolfin sau khi nó sụp đổ dưới tay Morgoth. Trong số những người sống sót đó có Ëarendil, người sau này kết hôn với Elwing và ra đi trong chuyến hải trình vĩ đại tới Valinor để cầu xin sự tha thứ của các Valar cho cả Tiên và Người. Ëarendil cũng chính là cha của Elros và Elrond. Elros sau này trở thành Tar-Minyatur, vị vua đầu tiên của vương quốc Numenor hùng mạnh, vì chàng chọn trở thành Người. Còn Elrond chọn làm Tiên, và trở thành lãnh chúa oai hùng tại Imladris, và chứng kiến tất cả những sự kiện bi thương nhưng hùng tráng trên khắp Trung Địa về sau.
Như đã kể trong Cuộc chiến Thịnh Nộ, các Valar đã tập hợp một đội quân vĩ đại nhất từ trước đến nay, và mãi về sau cũng không đội quân nào sánh bằng. Họ đánh bại Morgoth và trục xuất hắn khỏi Thế Giới, thu hồi được hai viên Silmaril còn lại. Nhưng hai người con trai còn lại của Fëanor là Maedhros và Maglor đã tìm cách trộm lấy hai viên ngọc, dù cả hai đều không giữ được chúng lâu, bởi quyền sở hữu của họ với các viên Silmaril đã mất. Viên ngọc đốt cháy bàn tay của Maedhros trong đau đớn tột cùng. Và trong đau khổ và tuyệt vọng, ông đã nhảy xuống vực lửa sâu và chết; viên Silmaril đã theo ông đi vào lòng Đất. Và người ta kể rằng Maglor đã không thể chịu nổi sự hành hạ đau đớn mà viên Silmaril mang lại; và cuối cùng ông đã ném nó xuống Biển, và từ đó về sau ông mãi lang thang trên bờ biển, hát lên những bài ca trong đau đớn và hối tiếc bên những con sóng xô bờ. Vì Maglor là một trong những nghệ sĩ tài ba xưa kia; nhưng ông không bao giờ trở lại với người Tiên nữa. Và do đó, những viên ngọc Silmaril đã tìm được bến đỗ vĩnh cửu của mình: một chu du cùng gió ở trên trời vì nó được gắn lên mũi thuyền của Ëarendil, một nằm trong ngọn lửa giữa tâm thế giới, và một nằm sâu dưới lòng đại dương.
Những sự kiện này đánh dấu đoạn kết của Kỷ Đệ Nhất, hay còn gọi là thuở Cựu Niên. Phần lớn người Tiên sống sót ở Beleriand dong buồm đến Aman, nhưng một số vẫn ở lại cùng Gil-galad, con trai của Fingon, người đã lập nên một vương quốc mới tại những vùng đất còn lại của Beleriand.
Dân Eldar ở Aman kết bạn với những người Dunedain ở Numenor, và trong nhiều thế kỷ hai chủng tộc sống yên bình và hòa hợp. Nhưng khi người Dunedain dần rơi vào bóng tối bởi sự thâm độc của Sauron, người Tiên dần bị cấm vãng lai đến Numenor. Và cuối cùng họ không còn đặt chân lên nơi đó nữa, và gửi cho Amandil, một trong những người Dunedain không bị mê hoặc bởi Sauron món quà cuối cùng: Bảy quả cầu Palantir, các quả cầu nhìn thấu.
Tại Trung Địa, Gil-galad tiếp tục chiến đấu chống lại Sauron, nhưng sức mạnh của dân Eldar đã suy giảm, và họ không thể chống lại bề tôi của Morgoth một mình. Và họ nhận được sự giúp sức từ Numenor trong Cuộc chiến giữa Tiên và Sauron. Cuộc chiến này nổ ra khi Sauron thất bại trong việc kiểm soát tộc Tiên bằng những Nhẫn Quyền Năng. Nhưng kể cả sau khi Sauron bị bắt giải đến Numenor, Gil-galad vẫn không thể phục hồi sức mạnh của Eldar tại Trung Địa, vì quá nhiều người đã ngã xuống trong cuộc chiến, và nhiều người khác tiếp tục dong buồm về phương Tây, băng qua đại dương.
Sau khi Numenor sụp đổ, Gil-galad kết bạn với Elendil, con trai Amandil và là thủ lĩnh của dân Dunedain Tha Hương. Tại Trung Địa Elendil thành lập hai vương quốc Arnor và Gondor. Và khi Sauron trở lại, Gil-galad và Elendil đã thành lập Liên Minh Cuối Cùng Của Tiên Và Người. Cùng nhau, họ lật đổ Sauron, dù cả hai đều tử trận trong chiến công ấy, và thắng lợi cũng chẳng triệt để, bởi lẽ Isildur con trai Elendil đã cướp được Nhẫn Chúa - vật chứa hầu hết linh hồn và quyền năng của Sauron - mà không phá hủy nó. Sự kiện này cũng đánh dấu hồi kết của Kỷ Đệ Nhị.
Tới Kỷ Đệ Tam dân Eldar ngày càng sụt giảm về số lượng hơn nữa. Vai trò của họ dần nhường chỗ cho Con Người. Không còn vị vua Tiên nào ở Trung Địa, nhưng các Lãnh chúa Tiên hùng mạnh nhất vẫn còn ở lại, và họ dùng Bộ Ba Nhẫn để gìn giữ cho các vương quốc của mình. Và khi Sauron cuối cùng bị lật đổ và Nhẫn Chúa bị hủy diệt, quyền năng của Bộ Ba cũng theo đó biến mất, và hầu hết dân Eldar đều dong buồm vượt đại dương mà trở về Aman.

Về Người Lùn và Con Người

Dân Naugrim, hay như họ tự gọi bản thân là dân Khazad, được Con Người gọi là những Người Lùn. Họ không phải con cái của Iluvatar, mà sinh ra từ Valar Aulë, Thần Thợ Rèn trước cả khi người Tiên tỉnh giấc. Nhưng vì Iluvatar không cho phép tạo vật nào thức tỉnh trước người Tiên, nên dù Ngài đồng ý giữ lại các thủy tổ của Người Lùn, Ngài lệnh rằng họ chỉ được tỉnh giấc sau người Tiên.
Đầu tiên chỉ có mười ba Người Lùn: bảy vị Cha của Người Lùn, và sáu người vợ. Durin, người già nhất, ban đầu không có vợ, và ông sống một mình rất lâu, khi những anh em mình đã thiết lập nên gia tộc của họ. Nhưng rồi từ một trong số các gia tộc ấy, Durin đã tìm được một người vợ, và ông thiết lập một vương quốc hùng mạnh có tên là Khazad-dum. Dù vốn chỉ có bảy gia tộc Người Lùn, nhưng sau xuất hiện thêm một nhóm thứ tám, thành lập từ những người lưu đày khỏi bảy gia tộc, và họ định cư ở Beleriand. Ban đầu họ bị các Tiên Sindar săn lùng, nhưng rồi khi biết Người Lùn không phải sinh vật ác quỷ, người Tiên đã để họ sống trong yên bình.
Người Lùn sinh sống ở khắp nơi tại Trung Địa, buôn bán với dân mình và cả các giống dân khác như Tiên và Con Người. Họ am hiểu sâu sắc về nghề rèn đúc, về giáp trụ và vũ khí. Chính họ đã dạy những kiến thức này cho các Tiên Sindar ở Beleriand, và ít nhất hai gia tộc Người Lùn đã từng kề vai sát cánh cùng người Tiên chống lại Morgoth.
Trong Kỷ Đệ Nhị, nhiều Người Lùn sinh sống ở Khazad-dum, và nơi này trở thành một vương quốc chung của nhiều tộc Người Lùn khác nhau. Dòng dõi của Durin trở thành dòng dõi mạnh mẽ và đáng kính nhất trong số các gia tộc Người Lùn, và họ cũng liên minh với dân Eldar chống lại Sauron. Tuy nhiên, có lẽ những Người Lùn ở các vùng đất phía đông đã rơi vào bóng tối và có thể họ còn phụng sự Sauron.
Kỷ Đệ Tam chứng kiến sự suy giảm của Người Lùn, dù ở Khazad-dum họ vẫn sinh sôi và phát triển. Nhưng lòng tham vàng của họ đã khiến họ đào sâu mãi vào lòng đất và cuối cùng đánh thức một con Balrog còn sót lại từ thuở Cựu Niên. Con Balrog này đã hủy diệt vương quốc Khazad-dum, và những Người Lùn ở đó phải sống tha hương. Dù dòng dõi của Durin vẫn còn, và đã lập nên vương quốc mới, nhưng họ vẫn đau đáu về việc giành lại quê hương tổ tiên. Các tích truyện kể rằng một ngày nào đó trong Kỷ Đệ Tứ, Người Lùn sẽ giành lại được Khazad-dum, nhưng đó cũng sẽ là buổi chiều tà của dân tộc họ, khi số lượng đã suy giảm quá nhiều.
Về Con Người, hay còn được dân Eldar gọi là Atani, là những Đứa Con Thứ của Iluvatar, họ cũng được gọi là Hildor, những Người theo sau, và nhiều cái tên khác nữa: Apanónar, những Kẻ sinh sau, Engwar, Kẻ ốm yếu, và Fírimar, Kẻ phàm trần; và họ còn gọi con người là những Kẻ lật đổ, Kẻ lạ mặt, Kẻ bí hiểm, Kẻ tự nguyền rủa, Kẻ nặng tay, Kẻ sợ bóng đêm, hay những Đứa con của Mặt Trời. Có rất ít câu chuyện về Con Người được ghi lại trong những ngày Cựu Niên. Họ không nhận được sự chỉ dạy tận tình của các Valar như người Tiên, và họ sợ các Valar hơn là yêu quý. Con Người không hiểu mục đích của các đấng Quyền Năng, đối nghịch với họ và xung đột với thế giới.
So với người Tiên, con Người lại yếu đuối hơn, dễ bị giết chết bởi vũ khí hay bởi sự bất hạnh, và khó được chữa lành hơn; phải chịu cảnh ốm đau và bệnh tật; cho đến khi họ già đi rồi chết. Chuyện gì xảy ra với linh hồn họ sau đó người Tiên không biết rõ. Một số nói rằng họ sẽ đến Sảnh Đường Mandos; nhưng nơi chờ đợi của họ lại không dành cho người Tiên, và dưới quyền Ilúvatar và trừ Manwë ra, thì chỉ mỗi Mandos biết được họ sẽ về đâu sau khoảng thời gian hồi tưởng trong những sảnh đường câm lặng bên cạnh biển Ngoại Hải. Không một ai trở lại từ cõi chết, ngoại trừ Beren con trai của Barahir, người đã chạm tay vào một viên Silmaril; nhưng sau đó chàng không bao giờ liên lạc với con Người nữa. Số phận của loài Người sau khi chết, có thể, không nằm trong tay của các Valar, và cũng không được báo trước trong Bài ca của các Ainur. 
Con Người chiến đấu trong những cuộc chiến tại Beleriand thuở Cựu Niên cho cả hai phe, và tại Kỷ Đệ Nhị, rất nhiều dân tộc phụng sự Sauron trong khi các gia tộc Edain thì liên minh với dân Eldar.
Vai trò của họ chỉ thực sự lớn mạnh trong Kỷ Đệ Tam. Những cuộc chiến và các vương quốc hùng mạnh trong Kỷ Đệ Tam hầu hết đều thuộc về Con Người chứ không phải Tiên hay Người Lùn. Mặc dù Trung Địa đã trải qua một thời đại dài tăm tối dưới ách Sauron, nhưng nhờ những người Dunedain Tha Hương, ánh hào quang dần trở lại với Con Người. Họ đã đạt được nhiều thành tựu lớn lao, và cũng chính họ là những người đặt cái kết cho Sauron và thế lực bóng tối đất Mordor ở cuối Kỷ Đệ Tam.
Kỷ Đệ Tứ sẽ được gọi là Kỷ nguyên của Con Người, vì các giống dân khác tại Trung Địa sẽ đều phai tàn. Con Người sẽ là chủng tộc thống trị tại Trung Địa trong Kỷ Đệ Tứ. Và đoạn lịch sử sau đó sẽ thế nào, thì không một ai biết được.
Trên đây là những gì cơ bản nhất, dù không ngắn gọn cho lắm, về lịch sử của Arda, để những ai hứng thú với Chúa Nhẫn có thể hiểu thêm về vũ trụ fantasy đồ sộ này. Vì là những gì vắn tắt nhất, nên có nhiều sự kiện sẽ không được kể rõ. Để biết chi tiết hơn, các bạn hãy tìm đọc những tác phẩm sau đây:
1. The Silmarillion (tức Huyền sử Silmaril)
2. The Children of Húrin (Những đứa con của Húrin)
3. Beren & Luthien (Beren và Luthien)
4. The Fall of Gondolin (Gondolin sụp đổ)
5. The Unfinished Tales of Numenor and Middle-Earth (Tích truyện về Numenor và Trung Địa)
6. The History of Middle-Earth (Lịch sử Trung Địa, bộ 12 cuốn, nhưng không thực sự cần thiết phải đọc)