Chỉ mới đầu năm 2023 mà quá nhiều vụ lừa đảo qua ngân hàng xảy ra, hàng trăm người mất tiền vì những đường link hay tin nhắn lạ. Lỗi đa phần đến từ người dùng nhưng điều mình cảm thấy khá khó hiểu là không thể lấy lại được số tiền bị mất dẫu công an có vào cuộc và có cả sự cộng tác với ngân hàng, trong bối cảnh các vụ lừa đảo qua ngân hàng đang diễn biến phức tạp, việc phát triển tiền điện tử của nhà nước (CBDC) có thể được coi là một giải pháp cho tương lai của ngành ngân hàng tại Việt Nam.
CBDC là một loại tiền tệ kỹ thuật số được phát hành và quản lý bởi Ngân hàng Trung ương, với mục đích thay thế hoặc bổ sung cho tiền tệ truyền thống trên hệ thống blockchain, bằng công nghệ này các giao dịch sẽ mang tính diễn giải cao hơn, nếu có lỗi xuất phát từ người dùng cũng sẽ tăng khả năng phản ứng của người dùng với hệ thống can thiệp để dễ dàng truy vết dữ liệu và truy thu tài sản.

1. Đặc điểm và ứng dụng tiền kỹ thuật số của NHTW

Tiền kỹ thuật số bao gồm tiền điện tử (digital currency) và tiền mã hoá(crypto currency).
Trong bài viết có thể dùng danh từ tiền điện tử để chỉ digital Currency
CBDC là tiền điện tử NHTW
Crypto currency là tiền mã hoá
Sự khác biệt cơ bản giữa 2 loại tiền này được xác định như sau:
Tiền điện tử là cơ chế thanh toán số cho tiền pháp định và được gán mệnh giá theo tiền pháp định trong khi tiền mã hoá không được gán mệnh giá theo tiền pháp định và có đơn vị tính toán (unit of account) riêng của nó. Thêm vào đó, tiền điện tử chịu sự quản lý của cơ quan Nhà nước, được phát hành bởi các tổ chức tiền điện tử được thành lập, hoạt động theo quy định của pháp luật, và được chấp nhận thanh toán bởi các cá nhân, doanh nghiệp không phải là nhà phát hành.
Trái lại, tiền mã hoá không chịu sự quản lý của cơ quan Nhà nước, được phát hành bởi những người phát triển phần mềm và thường được chấp nhận thanh toán trong một cộng đồng nhất định.
CBDC - được gọi là tiền điện tử của NHTW - là tiền pháp định dưới dạng số.
Có 2 loại CBDC mà nhà nước đang nghiên cứu và phát triển nhưng có lẽ thứ mà chính phủ đang cố gắng hoàn thiện là CBDC bán lẻ trước để giải quyết vấn nạn lừa đảo trong thời gian sớm nhất.
CBDC bán lẻ là loại tiền số của ngân hàng trung ương được phát hành để đáp ứng nhu cầu thanh toán của người dân và các tổ chức bán lẻ. CBDC bán lẻ có thể được sử dụng như một phương tiện thanh toán thay thế cho tiền mặt hoặc tiền gửi tại ngân hàng thương mại. Người dùng có thể sử dụng CBDC bán lẻ để mua hàng hóa và dịch vụ, chuyển tiền, thanh toán hóa đơn và thực hiện các giao dịch khác.
CBDC bán buôn là loại tiền số của ngân hàng trung ương được phát hành để đáp ứng nhu cầu thanh toán của các tổ chức tài chính và các tổ chức khác có quy mô lớn. CBDC bán buôn có thể được sử dụng để thanh toán giữa các ngân hàng, tổ chức tài chính và các nhà giao dịch trên thị trường tài chính. CBDC bán buôn cũng có thể được sử dụng để thanh toán các khoản nợ giữa các quốc gia và giữa các tổ chức quốc tế.
Giao dịch bằng tiền điện tử (digital currency) khiến khả năng diễn giải không cao khiến khó truy vết các hoạt động rửa tiền, trốn thuế, tài trợ khủng bố hay các hoạt động bất hợp pháp khác. Ngược lại, mỗi đồng CBDC, có thể được truy xuất đến tận cùng mọi giao dịch liên quan đến nó kể từ khi nó được phát hành. Những thông tin này, theo luật, có thể được các cơ quan Nhà nước sử dụng để hành pháp. CBDC có thể góp phần giảm tội phạm và cải thiện nguồn thu thuế của Chính phủ.
Thiết kế sổ cái tập trung yêu cầu đơn vị trung gian quản lý và chuyển nhượng nghĩa vụ nợ, khiến cho các tính năng chống gian lận và bảo mật được kết hợp dễ dàng hơn, trong khi sổ cái phi tập trung có thể có tiềm năng thực hiện thanh toán ngang hàng và ngoại tuyến (peer-to-peer and offline payments) dễ dàng hơn. Một thiết kế sổ cái kết hợp cả sổ cái tập trung và phi tập trung có thể được phát triển nhưng sự phức tạp của nó có thể tạo ra gánh nặng lớn lên khả năng vận hành của hệ thống
Nguồn: BIS (2017)
Nguồn: BIS (2017)
Hình mô hình tiền điện tử truyền thống (sổ cái tập trung) và tiền số thế hệ mới (sổ cái phân tán), dễ hiểu hơn là tích hợp công nghệ blockchain.
2. Quốc gia nào đã nghiên cứu và triển khai thử nghiệm CBDC ?
Hiện tại, 90% NHTW trên thế giới hiện đang trải qua các giai đoạn phát triển CBDC. Bahamas  nằm trong số ít những quốc gia đầu tiên đã phát hành CBDC . Hầu hết các nước vẫn chưa thể hiện rõ kế hoạch phát hành CBDC và vẫn đang trong quá trình nghiên cứu. Mỹ và Anh vẫn trong giai đoạn trưng cầu dân ý và chưa thể hiện ý định phát hành CBDC, trong khi đó, Trung Quốc đã đi đến giai đoạn thí điểm CBDC (e-CNY). Trong khu vực ASEAN, Singapore và Philippines đã hủy bỏ ý định thí điểm CBDC bán lẻ và tập trung theo đuổi CBDC bán buôn, trong khi đó Campuchia đã tiến tới giai đoạn thí điểm.
H Hiện trạng triển khai CBDC của các NHTW trên thế giới
H Hiện trạng triển khai CBDC của các NHTW trên thế giới
Nguồn: https://cbdctracker.org/ được cập nhật đến ngày 04/7/2022
Các giai đoạn phát triển và số lượng NHTW tham gia
Các giai đoạn phát triển và số lượng NHTW tham gia
 Mục tiêu chính sách
Một số mục tiêu chính sách thường đặt ra cho CBDC gồm có tài chính bao trùm, tăng khả năng tiếp cận và hiệu quả cho hệ thống thanh toán, tăng khả năng phục hồi cho hệ thống thanh toán, giúp đạt được mục tiêu của chính sách tiền tệ và chủ quyền tiền tệ.
 Mục tiêu phát hành CBDC của từng quốc gia
Mục tiêu phát hành CBDC của từng quốc gia
Báo cáo của NHTW của các quốc gia khảo sát Các quốc gia đã phát hành hay đã có cam kết mạnh mẽ với CBDC bán lẻ như Bahamas hay Trung Quốc đều cần CBDC để phát triển tài chính bao trùm. Bahamas là quốc gia có rất nhiều đảo với cư dân sống rải rác, việc xây dựng một mạng lưới ATM trở nên không có hiệu quả. 20% dân số Bahamas không có tài khoản ngân hàng. Trung Quốc tuy là một quốc gia có tốc độ phát triển tài chính bao trùm nhanh nhưng có 10% dân số thường tập trung ở vùng xa vẫn chưa tiếp cận được với dịch vụ tài chính.Nhật Bản và Ấn Độ mặc dù không nhằm đến mục tiêu tài chính bao trùm nhưng vẫn cần CBDC để đạt được hệ thống thanh toán hiệu quả hơn. Nhật Bản và Bahamas cần đến CBDC để giúp đối phó với những tình huống khẩn cấp do thảm họa thiên nhiên, giúp cho hệ thống thanh toán có khả năng phục hồi cao hơn .Singapore với mức độ phát triển tài chính bao trùm và hệ thống thanh toán hiệu quả với 92% cung tiền của Singapore là tiền gửi ngân hàng.
Singapore tại thời điểm hiện tại vẫn chưa có kế hoạch cho CBDC bán lẻ mà chỉ tập trung vào các dự án CBDC bán buôn. Tuy vậy, Singapore vẫn lo ngại khả năng khi nền kinh tế đã số hóa ở mức độ cao và nhiều cơ sở bán hàng không chấp nhận sử dụng tiền mặt thì cần phải có CBDC để đáp ứng nhu cầu thanh toán. Trung Quốc, Ấn Độ đều xem CBDC như một công cụ đảm bảo phù hợp cho các mục tiêu của chính sách tiền tệ và quản lý dòng tiền tuyệt đối vì dân số họ cao.
Singapore và Nhật Bản đều chỉ rõ lo ngại trước khả năng tiền gửi ở NHTM giảm xuống khi người dân đổ xô rút tiền gửi chuyển sang CBDC, ảnh hưởng đến khả năng cấp tín dụng cho nền kinh tế.Trung Quốc còn xem CBDC cần thiết để đạt được chủ quyền tiền tệ trước các đồng tiền kỹ thuật số của nước ngoài . Ngay cả khi chưa có cơ sở cần thiết để phát hành CBDC bán lẻ, Singapore vẫn cân nhắc đến khả năng bị cạnh tranh bởi các đồng tiền kỹ thuật số của nước ngoài .
Mô hình vận hành
Cũng tương tự như hệ thống tiền tệ hai cấp truyền thống, mô hình vận hành CBDC mà các nước chủ yếu đang phát triển chủ yếu cũng là mô hình vận hành qua trung gian. Ở mô hình này, NHTW trực tiếp phát hành nhưng được phân phối thông qua khu vực trung gian định chế tài chính tư nhân hoặc Nhà nước, các NHTM và dịch vụ trên mobile phone
Phân bổ các chức năng phát hành CBDC giữa NHTW và khu vực tư nhân
Phân bổ các chức năng phát hành CBDC giữa NHTW và khu vực tư nhân
Trong mô hình vận hành qua trung gian, có nhiều cách thức phối hợp các chức năng giữa NHTW và khu vực trung gian. Cần phân biệt người sở hữu và người vận hành hệ thống kỹ thuật. NHTW có thể sở hữu hệ thống kỹ thuật của một chức năng cụ thể nhưng chức năng này lại được vận hành bởi một công ty tư nhân. Ví dụ, tại Bahamas, khu vực tư nhân vận hành chức năng chống rửa tiền và chống tài trợ mạng lưới khủng bố trên hệ thống IT do NHTW sở hữu. Một số chức năng cụ thể bài viết khảo sát gồm có: Phát hành, xác thực , cập nhật sổ cái khi tiền đang lưu thông . Sổ cái tập trung vốn là cách tiếp cận truyền thống của các NHTW nhưng công nghệ sổ cái phân tán chính là cách tiếp cận mới đầy tiềm năng.
Khung pháp lý
Theo báo cáo từ BIS, tỷ trọng các NHTW đã có cơ sở pháp lý sẵn sàng phát hành CBDC tăng từ 18% (2020) lên 26% (2021) (BIS, 2022).Bahamas cũng đã ban hành Luật NHTW Bahamas tạo cơ sở pháp lý cho đồng Sand Dollar. Luật về Dịch vụ thanh toán có hiệu lực vào năm 2020 cho phép NHTW Singapore (MAS) có thể thích ứng với bối cảnh mới của hoạt động thanh toán, tạo cơ sở pháp lý cho các hình thức thanh toán điện tử và giao dịch các đồng tiền kỹ thuật số (MAS, 2021). Đạo luật về tài chính năm 2022 của Ấn Độ cũng đã cung cấp cơ sở pháp lý cho việc phát hành CBDC .Trung Quốc cũng đang chuẩn bị dự thảo Luật NHTW bổ sung hình thức tiền kỹ thuật số vào định nghĩa tiền tệ của mình tạo khung pháp lý cho NHTW Trung Quốc có thể phát triển CBDC, đồng thời, dự thảo cũng cấm các tổ chức phát hành tiền kỹ thuật số thay cho CNY tạo vị thế độc quyền cho NHTW đối với tiền kỹ thuật số. Luật NHTW Nhật Bản hiện đang quy định chức năng phát hành tiền giấy cho NHTW Nhật Bản và vì vậy hiện vẫn chưa có cơ sở pháp lý cho CBDC.
Tại đông nam á thì có Lào và Campuchia là 2 nước đã triển khai CBDC vào tháng 2/2023
 Tóm tắt về tình trạng khung pháp lý cho CBDC
Tóm tắt về tình trạng khung pháp lý cho CBDC
3. Bài học đối với Việt Nam trong việc phát triển CBDC.
Về mặt lợi ích, việc phát hành CBDC sẽ có những tác dụng nhất định đối với Việt Nam:
I. CBDC giúp hiện đại hóa hệ thống thanh toán góp phần thúc đẩy nền kinh tế số tại Việt Nam. Khi CBDC được phát hành bởi NHNN dựa trên các nền tảng công nghệ xây dựng tiền mật mã như Blockchain sẽ giúp hiện đại hóa hệ thống thanh toán của Việt Nam thông qua việc tạo điều kiện cho các định chế tài chính và các công ty Fintech ứng dụng và thử nghiệm các công nghệ mới. CBDC cũng giúp nâng cao độ tin cậy, an toàn cũng như giảm thiểu rủi ro của các giao dịch trong hệ thống thanh toán nhờ tính minh bạch, xác minh và bảo mật của công nghệ.
II. CBDC hướng toàn quốc đến sử dụng tiền điện tử đến một tương lai không tiền giấy . Từ đó việc phát hành tiền kỹ thuật số giúp NHNN hướng đến hoạt động ngân hàng xanh - thân thiện và bảo vệ môi trường theo cam kết đạt mức phát thải ròng bằng "0" vào năm 2050 của Việt Nam tại COP26 - cũng là hội nghị đẩy thuật ngữ '' tín chỉ carbon" đến với nhiều người hơn.
III. CBDC giúp thúc đẩy tài chính bao trùm tại Việt Nam. Khi NHNN phát hành CBDC giúp gia tăng tỷ lệ người dân tiếp cận dịch vụ tài chính - nhất là đối với các khách hàng trước đây chưa có tài khoản ngân hàng ở vùng sâu, vùng xa. Đặc biệt nếu CBDC được thiết kế để sử dụng ngoại tuyến thì có thể giúp các vùng chưa có điều kiện truy cập Internet thực hiện các giao dịch tài chính với chi phí thấp bằng các thiết bị điện tử phổ thông, đơn giản.
IV. CBDC giúp NHNN nâng cao hiệu quả, hiệu lực trong việc điều hành chính sách tiền tệ. Khi phát hành CBDC, NHNN có công cụ để kiểm soát chính xác lượng cung tiền cũng như các quyết định của NHNN đến thị trường có tác động tức thời với độ trễ rất thấp, từ đó nâng cao hiệu quả và hiệu lực trong việc điều hành chính sách tiền tệ mà không cần vùng đệm.
Tại Việt Nam, Quyết định số 942/QĐ-TTg ngày 15/6/2021 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Chiến lược phát triển Chính phủ điện tử hướng tới Chính phủ số giai đoạn 2021 - 2025, định hướng đến năm 2030 có giao NHNN nghiên cứu, xây dựng và thí điểm tiền ảo dựa trên công nghệ chuỗi khối Blockchain giai đoạn 2021 - 2023. Thực tế, bộ tài chính và ngân hàng nhà nước đã nghiên cứu chủ đề này từ 2015, vì đây là một cơ chế thanh toán gần như đổi mới, Việt Nam có lẽ muốn "chờ" các nước khác thử nghiệm và xem thử kết quả có phù hợp và điều gì cần cải tiến ở những nước đi trước. Rõ ràng là trung quốc.
Đây là một xu hướng không thể tránh khỏi nhưng mình nghĩ chúng ta cần lưu ý vài điểm mang tính hạ tầng cần được hoàn thiện:
I. Hoàn thiện khung pháp lý về quản lý và vận hành tiền kỹ thuật số của NHTW tại Việt Nam.Hiện tại hệ thống pháp luật của Việt Nam chưa công nhận các loại tiền ảo, tiền điện tử. Khung pháp lý về quản lý tiền kỹ thuật số của NHTW cần làm rõ các khái niệm, định nghĩa, phân loại, tiêu chuẩn kỹ thuật của CBDC tại Việt Nam. Để tạo điều kiện cho CBDC sớm vận hành thực tiễn thì NHNN có thể trình Chính phủ cho áp dụng khung thể chế thử nghiệm có kiểm soát cho CBDC giống trường hợp của tiền di động . Việc hoàn thiện khung pháp lý chính là tiền đề quan trọng nhất để xây dựng và phát triển CBDC
II. Về công nghệ, khuyến nghị NHNN nên phát hành CBDC dựa trên blockhain và thử nghiệm ban đầu với CBDC bán buôn theo kiểu "nhà nước đi trước, làng nước theo sau" .Sau quá trình nghiên cứu, phát triển CBDC của các quốc gia trên thế giới cũng như ưu và nhược điểm của từng loại và công nghệ phát hành CBDC thì NHNN có thể phát hành theo cơ chế thử nghiệm CBDC bán buôn theo công nghệ sổ cái phân tán ở giai đoạn đầu rồi sau đó tiến hành cải tiến và hoàn thiện theo lộ trình.
III. NHNN cần tích cực hợp tác quốc tế trong quá trình nghiên cứu, phát hành và quản lý CBDC.CBDC là vấn đề có tính liên thông hệ thống thanh toán và hệ thống tài chính toàn cầu nên trong quá trình nghiên cứu để phát triển CBDC thì NHNN cần phải tích cực hợp tác với IMF, các định chế tài chính quốc tế và NHTW các quốc gia khác trên thế giới nhằm thống nhất khung pháp lý, chuẩn hóa tiêu chuẩn kỹ thuật và đảm bảo tính liên thông của CBDC trên phạm vi toàn cầu.
IV Để đảm bảo thành công cho việc phát hành CBDC thì nguồn nhân lực chất lượng cao là yếu tố quyết định. Sau tất cả môi trường làm việc ở nhà nước Việt Nam chưa thực sự ưu ái cho các nhân tài để họ quy tụ và làm việc tại đây. Không chỉ ở mỗi ngành ngân hàng mà trên mọi ngành của Việt Nam, có lẽ để vận dụng câu:
Đất lành chim đậu
Việt Nam cần xây nhiều "tổ" nhiều "đất lành" hơn thì mới hội tụ được nhân tài của quốc gia và cả quốc tế về đây và cống hiến.