Kết quả hình ảnh cho mom am i barbarian

                                            „We know who we are only when: we know who we                                                 are not and whom we are against" 
                                                                                        (Samuel Huntington)
Mọi rợ vốn là một từ thông dụng ở nước ta. Chúng ta sẵn sàng bĩu môi gọi một thằng trộm là Cái đồ mọi rợ, hay thủ thỉ cùng cô hàng nước đầu ngõ về ai đó “Con kia thế mà mọi rợ” “Lũ mọi rợ vô tích sự thật chị ạ”. Có lẽ chính việc thông dụng hóa đã khiến ngữ nghĩa và sắc thái từ của nó “được” phai nhạt đi ít nhiều, gần với từ “vô giáo dục” “ngỗ nghịch” “phá phách” hơn là cái nghĩa gốc căn bản của nó, mà ở đó dân mọi rợ từng trở thành một trong những mục tiêu hủy diệt của Phát xít Đức.
Barbarian (man di, mọi rợ) và bla bla đều nhằm ám chỉ (một cách trực tiếp hay gián tiếp) đến những lời nói vô nghĩa đến mức người đối diện hầu như chỉ nghe thấy mỗi âm thanh bla bla phát ra mà thôi. Thành ngữ Anh vốn có cụm từ “It’s all Greek to me” cũng mang sắc thái nghĩa đó, được dùng khi chúng ta hoàn toàn không hiểu thứ người kia đang nói (cứ như tôi đang nghe tiếng Hy Lạp vậy). Có thể thấy, ngày nay tiếng Hy Lạp hay người Hy Lạp đã trở thành một ẩn dụ cho sự rối rắm, khó hiểu. Nhưng quay ngược lại thời cổ đại, dân man di lại đứng đối lập hoàn toàn với dân Hy Lạp, ở đó những kẻ ngoại bang, dân nước ngoài, non-Greek, tất cả những tộc người không nói tiếng Hy Lạp đều bị coi là Barbarian vì âm thanh họ phát ra đối với người Hy Lạp cổ chỉ toàn những bar bar bar – đấy chính là nguồn gốc thật sự của từ. Và khi dòng chảy lịch sử thay đổi kéo theo những thăng trầm của thời đại, cái nhìn đối với một dân tộc cũng khác đi. Sở dĩ Hy Lạp gọi những tộc người khác là mọi rợ bởi họ lấy mình làm tiêu chuẩn, lấy chính dân tộc Hy Lạp làm cái thước đo văn minh. Bởi vậy có thể nói, chúng ta chỉ có thể gọi ai đó là “mọi rợ” dựa trên tương quan với một chủ thể khác được coi là “văn minh”.
Văn minh hay mọi rợ vì lẽ đó đều chỉ mang tính tương đối. Dưới góc độ lịch sử, dân mọi rợ từng nhằm ám chỉ đến người non-Greek, người Hy Lạp, người Thiên Chúa giáo lẫn người không theo Thiên Chúa giáo, kẻ ngoại đạo hay người theo đạo Hồi, dân La Mã, Giéc-Man, Đông Á, người dân bản địa Châu Mỹ, Châu Phi, Châu Á, thực dân Châu Âu, Do thái, Đức quốc xã, Rumani, tầng lớp công nhân lao động, bọn khủng bố, các tân đế quốc, và nhiều hơn nữa… Tất cả đều từng một lần trong lịch sử nhân loại bị bêu rếu là mọi rợ, hạ cấp bởi các nhóm dân tộc khác. Nó cho thấy sự gắn bó chặt chẽ, tồn tại song song giữa “văn minh” và “mọi rợ”, một lối so sánh hơn thua rất bản năng – dân tộc tôi không thể chứng tỏ với thế giới là đẳng cấp nếu không tìm ra một đối tượng thấp bé hơn, nghèo nàn hơn để đứng cạnh. Đó là cái thói ngạo mạn dân tộc.
Vậy chúng ta lấy những chuẩn mực văn minh nào để thuyết phục chính mình và thế giới về sự vĩ đại của ta. Chúng đồng thời cũng tham gia định nghĩa từ “mọi rợ” và được hình thành, lưu chuyển từ thời Hy Lạp cổ đại đến bây giờ, bao gồm: ngôn ngữ, văn hóa, bộ máy và ý thức hệ chính trị, chuẩn mực đạo đức, lối ứng xử, tính nhân đạo, nhân chủng, dân tộc, tầng lớp xã hội, giới tính, tiến độ (bao gồm tiến độ kỹ thuật và phương tiện sản xuất), tâm lý. Những tiêu chuẩn này không ngừng thay đổi.
Trong đó, Hy Lạp thời cổ đại xem ngôn ngữ là hệ quy chiếu cho văn minh và mọi rợ. Họ tôn thờ ngôn ngữ của dân tộc mình và xem những người có tài ăn nói trôi chảy mạch lạc là thông minh, tài giỏi. Thế nên, các thứ tiếng bên ngoài đối với họ đều giống như tiếng ồn, tiếng gây nhiễu vô nghĩa.Và thay vì xem nó ngang hàng với ngôn ngữ Hy Lạp hay cố hiểu chúng, người Hy Lạp vội đồng nhất những người nước ngoài không nói được tiếng nước mình là kém cỏi, ngu ngốc. Herodotus – một nhà viết sử nổi tiếng đã từng lên án thói ngông cuồng, tự tôn dân tộc quá đà của người Hy Lạp quê hương ông là “sự ngạo mạn về mặt ngôn ngữ” – chỉ có cái gì nói bằng tiếng Hy Lạp thì mới ý nghĩa và cái gì ý nghĩa cũng bằng tiếng Hy Lạp. Vì đi nhiều, ông nhận ra người Ai Cập cũng gọi dân nước ngoài là mọi rợ hay lũ gây ồn ào “noise-makers”, và đương nhiên theo cái nhìn này thì vô hình chung người Hy Lạp cũng bị gộp vào nhóm mọi rợ. Từ đó, Herodotus đã kết luận rằng, mọi ngôn ngữ trên thế giới ít nhiều đều vận động theo những phương thức tương tự nhau, và sự lạ lẫm có thể thành thân quen thông qua dịch thuật. Mọi rợ hay không mọi rợ thật ra chỉ mang nghĩa tương đối, nó không phải là một sự thật, nó là một định kiến, mà ở đó một dân tộc có thể vừa là mọi rợ vừa là văn minh.
Bên cạnh ngôn ngữ, ở những nơi hay thời kỳ khác, tiêu chí chính trị (Hy Lạp TK5 TCN) hay văn hóa (thời kỳ vua Alexander Đại đế lên ngôi), tôn giáo (thời Trung cổ ở Châu Âu) sẽ được coi trọng hơn. Hoặc như ở Trung Quốc cổ đại, lối sống và môi trường sống thành một tiêu chuẩn chính phân chia đẳng cấp, mọi rợ được gán cho những nhóm dân cư du mục, chăn cừu, những kẻ sống lang bạt. Hầu hết các nền văn hóa đều tự hình thành phát triển nên những chuẩn mực riêng nhằm phân định rạch ròi giữa bản thân nó và thứ được gọi là “man rợ”. Và mặc dù ra đời ở phương Tây nhưng thuật ngữ này xuất hiện ở khắp nơi, Nhật cũng có từ gaijin chỉ dân nước ngoài, Do thái có từ goy and gentile chỉ người ngoại đạo.
Từ “man di” thật ra xuất hiện sớm hơn cụm từ “văn minh”, mặc dù chúng mang nghĩa vừa tương phản vừa bổ trợ, gắn liền với nhau. Bởi con người trước khi gọi tên được chính mình, thì đã tìm cách để chỉ ra thứ không phải là mình. “Văn minh” xuất hiện và được ghi vào từ điển Anh lần đầu tiên vào năm 1775 (thuộc vào thời kỳ Khai sáng ở Châu Âu). Nó đồng thời mang tinh thần, lý tưởng của thời đại Giác ngộ, nhấn mạnh tới sự phát triển tiến bộ của con người. “Văn minh” trở thành một trạng thái ổn định xã hội ở mức cao, đặc biệt tương phản về mặt lịch sử và văn hóa với sự man rợ. Nó xem tính hiện đại như một biểu hiện cao nhất của sự tiến bộ nhân loại. Với ảo tưởng đó, các nước Châu Âu tự tạo nên cho họ một trọng trách với nhân loại là đi phổ quát “nền văn minh” tới những nước ở thế giới thứ ba, những nước còn sơ khai, nguyên thủy. Dưới cái lốt của “khai minh” một nền chủ nghĩa thuộc địa bắt đầu bành trướng. Châu Âu được sự che chở của từ “văn minh” đã lấy mình làm chuẩn, tự viết nên những luật lệ và tạo nên các cấp bậc. Samuel Huntington đã nhận định rằng, trước đây chưa từng có một khái niệm nào có thể bao trọn mọi chuẩn mực như từ “văn minh” để quy định thế nào là man di và ngược lại. Nó hàm chỉ một mức độ cao hơn không những về văn hóa, tôn giáo, nghệ thuật, đời sống vật chất, triết học, kỹ thuật mà còn về những điều khác nữa. Những thứ khác là cái chưa xác định nhưng nằm ở thì tương lai, một kho báu bất tận các khái niệm và phiên bản về barbarian do những đế quốc đơn phương tự tạo nên.
Chúng ta vốn rất hay nhầm lẫn giữa cái mới và cái tốt, hiện đại và tiến bộ, phát triển vật chất và tinh thần. Chúng ta xem mọi rợ là những kẻ nước ngoài nghèo đói, ăn lông ở lổ, lang bạt nay đây mai đó. Chính những tổ hợp từ cứng nhắc này tạo nên một lối tư duy một chiều đáng sợ, và đáng sợ hơn nữa khi nó phủ đầy lên mọi châu lục. Chúng ta định nghĩa hạnh phúc của con người giống nhau, chúng ta tưởng ai ai cũng sẽ vui sẽ buồn sẽ cười sẽ khóc vì một điều như ta nghĩ. Một gã Châu Âu lườm nguýt, xót thương cho cô gái Hồi giáo phải đeo mạng vì nghĩ cô ta không khoe được vẻ đẹp của mình. Một bà mẹ Châu Á thở dài nhìn cô con dâu Pháp làm ngơ khi con mình ngã. Những ảo tưởng về nhân đạo, lòng thương, chuẩn mực cuộc sống vô hình chung đã đẩy con người vào bi kịch, ép buộc mọi người đều phải vui cái đám đông vui, buồn cái đám đông buồn. 

Một quy tắc toàn trị cho nhân loại không thể tồn tại để tạo hạnh phúc cho nhân loại, nó bóp chết sự đa dạng, tính người, sự thông cảm và trung thực giữa con người với nhau. 

Tôi từng đọc những lời xót thương của Roseau trong cuốn “Emile hay về giáo dục” về đứa trẻ thời “văn minh” phải khổ sở, bó buộc, vẫy vùng giữa bao nhiêu là quần áo, tã, tất chân, tất tay. Liệu cái tiếng nói trở về thiên nhiên của Rosseau, cái nhu cầu cho trẻ được chơi và trải nghiệm, cái ý tưởng san bằng đẳng cấp giữa thầy và trò có phải là một thứ “nguyên thủy” và “man rợ”, là bước đi lùi của nhân loại. Một lúc nào đó, hy vọng tất cả chúng ta sẽ phát hiện ra rằng, sự ra đời của từ “văn minh” và các chuẩn mực của nó thật đáng phê phán hơn là ngợi ca.  
*Bài viết có tham khảo, trích, dịch từ đoạn trích "It's All Greek to Me : The Barbarian in History" trong cuốn Barbarism and Its Discontents, Maria Boletsi (2013)