Một bài viết được mình edit lại từ script gốc rồi mới đăng lên Spiderum, bạn có thể xem trước bản vid tại đây:
https://www.youtube.com/watch?v=vYAUrGV9_J4&t

Viết bài: Trần Nguyên Phan - Nats Blackfyre
Hiệu đính: Hải Stark
Mở đầu
Trong lịch sử thế giới, có 4 nền văn minh lớn được coi là cái nôi của thế giới hiện đại là Trung Quốc, Ai Cập, Ấn Độ và Lưỡng Hà. Trong số đó, Lưỡng Hà vẫn thường được coi là nền văn minh cổ xưa bậc nhất, ngang hàng với Ai Cập. Vậy nền văn minh này có gì thú vị? Hãy cùng bọn mình tìm hiểu trong bài viết dưới đây.
Một khái quát về vùng Lưỡng Hà
Khác với Trung Quốc hay La Mã vốn khởi điểm là những sắc dân nhỏ bé nhưng dần đồng hóa những sắc dân xung quanh, Lưỡng Hà lại là mảnh đất của nhiều sắc dân khác nhau. Có những giai đoạn một sắc dân trỗi dậy rồi bắt đầu suy tàn dần dần để một sắc dân khác lên thay. Tuy vậy, những nền văn hóa của từng sắc dân này đều có nhiều điểm tương đồng về tập tục, văn hóa và truyền thuyết với nhau. Nổi bật nhất trong số đó là văn minh Sumer - tập hợp của một loạt thành bang dọc theo con sông Tigris và Euphrates, Akkad - một trong những đế chế lâu đời nhất trong lịch sử nhân loại, thành quốc Babylon và đế chế Assyria nổi tiếng tàn bạo.
Lưỡng Hà, đúng như cái tên của mình, là vùng đất nằm giữa hai con sông lớn Tigris và Euphrates. Phía bắc Lưỡng Hà là sa mạc khô cằn, còn phía nam lại là vùng đầm lầy rộng lớn. Địa hình đặc biệt này khiến người cổ đại gọi nơi đây là Buranun, nghĩa là "Trận Lụt Lớn". Thường có sự phân biệt giữa Thượng Lưỡng Hà ở phía bắc và Hạ Lưỡng Hà ở phía nam. Thượng Lưỡng Hà là khu vực giữa Euphrates và Tigris từ đầu nguồn xuống Baghdad. Hạ Lưỡng Hà là khu vực từ Baghdad đến Vịnh Ba Tư, bao gồm Kuwait và một phần của miền tây Iran.
Một điều thú vị là Lưỡng Hà không có nhiều tài nguyên kim loại, nên nông sản trở thành mặt hàng buôn bán chính. Điều này khiến khí hậu có ảnh hưởng rất lớn đến cuộc sống của người dân. Trong thần thoại Lưỡng Hà, nhiều vị thần quan trọng đều gắn liền với các hiện tượng tự nhiên như gió, mưa và bão, hay như thần tối cao Enlil - một vị thần bão từng tận diệt nhân loại vì thấy khó chịu với họ. Điều này cho chúng ta thấy tính thất thường và nguy hiểm của thiên nhiên vùng Lưỡng Hà.
Hơn nữa, địa hình bằng phẳng, ít đồi núi và thiếu các chướng ngại vật tự nhiên đã khiến Lưỡng Hà dễ bị các bộ lạc du mục xâm lược. Chính vì thế mà về sau lịch sử vùng đất này sẽ có rất nhiều biến động.
Đời sống cư dân Lưỡng Hà
Là một vùng đất màu mỡ, tại Lưỡng Hà người ta ưa chuộng việc trồng nho, ô liu, lúa mạch và nhiều loại trái cây khác. Khí hậu nóng ẩm và thực vật phong phú đã tạo điều kiện thuận lợi cho cuộc sống của người dân. Từ tháng 5 đến tháng 10, nước sông dâng cao mang theo phù sa màu mỡ, nhưng cũng gây ra lũ lụt và hạn hán. Dù vậy, nhiều người vẫn đổ về đây sinh sống, khiến Lưỡng Hà trở thành một vùng có nhiều sắc dân giao thoa với nhau. Xã hội Lưỡng Hà được chia thành sáu tầng lớp chính: đứng đầu là nhà vua, tiếp theo là các tăng lữ và học giả được nhà vua bảo trợ. Dưới họ là thương nhân, thợ thủ công và nông dân. Tầng lớp thấp nhất là nô lệ, thường là tù nhân chiến tranh.

Danh sách các tầng lớp Lưỡng Hà
Trong thời kỳ đầu của văn minh Sumer và đế chế Akkad, nông nghiệp là nền tảng kinh tế chính. Người dân xây dựng hệ thống thủy lợi phức tạp để phục vụ cho việc trồng lương thực và cây ăn quả. Ngoài ra, họ còn chăn nuôi nhiều loại gia súc như cừu, bò, lừa, và gia cầm như vịt, ngỗng, cũng như đánh bắt cá.
Gia đình trong xã hội Lưỡng Hà thường theo chế độ gia trưởng và đa thê, nhưng con cái đều có quyền thừa kế tài sản, không chỉ riêng con trưởng. Tầng lớp nô lệ dần hình thành và chiếm một phần đáng kể trong xã hội, dù nông dân tự do vẫn là nhóm đông đảo nhất. Ban đầu, phụ nữ Lưỡng Hà có nhiều quyền lợi, nhưng xã hội dần trở nên phụ quyền hơn. Các hội đồng trưởng lão gồm cả nam và nữ bị thay thế bởi chế độ quân chủ tập trung vào nhà vua. Tuy nhiên, phụ nữ vẫn được quyền sở hữu tài sản và có thể ly hôn nếu có lý do chính đáng.
Đến thời kỳ Babylon, nền kinh tế Lưỡng Hà phát triển mạnh mẽ hơn. Nông nghiệp vẫn là trụ cột, nhưng việc buôn bán bắt đầu có quy mô lớn hơn. Sản phẩm nông nghiệp được trao đổi với nước ngoài qua đường biển và đường bộ, mang về kim loại như đồng và sắt. Thủ công nghiệp cũng phát triển cao, với các công trình kiến trúc, cung điện, lăng mộ, đồ trang sức, dệt may và đóng thuyền.
Trong thời kỳ Assyria, nền kinh tế không phát triển mạnh do điều kiện tự nhiên khó khăn. Người Assyria tập trung vào chăn nuôi, săn bắn và khai thác gỗ, đá. Sau khi mở rộng lãnh thổ, họ dùng của cải từ các vùng chiếm đóng để xây dựng đền đài và các công trình lớn. Dưới thời Assyria, các thần dân của đế chế hay những người nước ngoài có cơ hội để đạt được những vị trí rất cao trong chính quyền, tuy vậy tổ chức xã hội chính vẫn là các gia đình và bộ lạc sinh sống quanh vùng đất canh tác và chăn nuôi của riêng họ.
Giáo dục ở Lưỡng Hà chỉ dành cho con cái của người giàu, quan chức, quý tộc và những người quản lý đền thờ. Trẻ em thường học nghề từ cha mẹ, như con nhà thương gia học buôn bán, con nông dân học làm ruộng từ nhỏ. Con gái thường ở nhà học nấu ăn và quản lý gia đình. Người dân Lưỡng Hà cũng có nhiều trò chơi giải trí như đấm bốc, đấu vật, và chơi các trò board game, nổi tiếng nhất là "Trò chơi vương giả thành Ur" – một trong những trò board game cổ nhất thế giới.
Những thành tựu đáng chú ý nhất của các nền văn minh Lưỡng Hà có lẽ là thiên văn học. Vào thời kỳ Babylon, cư dân Lưỡng Hà đã tư duy được về hình ảnh vũ trụ, biết được năm hành tinh khác trong Hệ Mặt trời là Sao Kim, Sao Thủy, Sao Hỏa, Sao Mộc và Sao Thổ. Họ đã có thể tính toán trước được hiện tượng nhật thực và nguyệt thực, đặt ra âm lịch. Lịch của họ về sau cũng được cải tiến thành Âm dương lịch, và từ đấy dẫn đến sự thành hình của chiêm tinh học và nghề bói toán.

Lịch Lưỡng Hà
Dân Lưỡng Hà cũng đạt được nhiều thành tựu về y học. Ngành phát triển nhất của họ có lẽ là giải phẫu học, tuy vậy họ vẫn chịu ảnh hưởng nặng về tôn giáo. Một mảng khác là toán học cũng có nhiều phát triển quan trọng. Dân Lưỡng Hà đóng vai trò tiên phong trong toán học khi họ là những người đầu tiên khám phá ra được hệ số thập lục phân, tính toán chu vi cũng như tìm ra được số pi, hệ thống vị trí giữa các con số cùng các phép tính căn bản khác, như còn tìm ra được cách tính tam giác vuông trước cả Pythagore suốt nhiều thế kỷ. Một số mảng khác cũng được dân Lưỡng Hà đi trước bao gồm cách cất nước, tạo nến và thủy tính, thuật luyện kim cũng như kiểm soát dòng chảy của những con sông. Những di sản này về sau đã được những nền văn minh khác như Hy Lạp hay Ba Tư kế thừa.

Văn hóa Lưỡng Hà
Lưỡng Hà, cùng với Ai Cập, là một trong những nền văn minh đầu tiên phát triển nghệ thuật một cách toàn diện. Một trong những thành tựu nổi bật nhất của họ là Cổng Ishtar ở Babylon. Cổng này là một công trình đôi với những bức tường được trang trí bằng gạch tráng men màu xanh lam, cao tới 15 mét và có móng sâu 14 mét. Đến nay, Cổng Ishtar vẫn là một trong những di tích vật chất ấn tượng nhất còn sót lại của nền văn minh Babylon.
Nghệ thuật Lưỡng Hà thường được thể hiện qua các tác phẩm bằng đất sét. Mặc dù nhiều tác phẩm đã bị thời gian hủy hoại, một số vẫn còn được lưu giữ, như Sư tử cái Guennol – một tác phẩm điêu khắc kết hợp hình dáng phụ nữ và sư tử, có niên đại hàng nghìn năm. Các tác phẩm điêu khắc của người Lưỡng Hà thường tập trung vào hình tượng đàn ông, có thể là các vị vua, với đặc điểm như bộ râu dài và đôi mắt to. Nghệ thuật phù điêu cũng rất phổ biến, được sử dụng để trang trí các bia đá, lễ vật cầu nguyện, và các bia kỷ niệm chiến thắng. Dưới thời Assyria, các công trình nghệ thuật quy mô lớn được xây dựng, miêu tả chi tiết các cảnh chiến tranh, săn bắn, và những bức tượng hộ thần khổng lồ.

Sư tử cái Guennol
Người Lưỡng Hà cũng là những người đầu tiên trên thế giới quy hoạch đô thị một cách bài bản. Trong sử thi Gilgamesh, thành phố Uruk được miêu tả như một nơi tráng lệ và phồn thịnh, với những khu vườn, chợ, đền đài, và những bức tường thành khổng lồ. Vật liệu xây dựng chủ yếu là sậy, đá, gỗ, gạch, và bùn. Đối với các công trình lớn như cung điện, họ sử dụng thêm đá quý và gạch để trang trí, phục vụ mục đích tôn giáo.
Một công trình kiến trúc độc đáo của người Lưỡng Hà là Ziggurat – những tòa tháp bậc thang giống như kim tự tháp của Ai Cập. Người Lưỡng Hà tin rằng các vị thần sống trên đỉnh Ziggurat, vì vậy chỉ có các linh mục và những người có quyền lực mới được phép lên đó. Ziggurat không chỉ là nơi thờ cúng mà còn là biểu tượng của quyền lực và sự kết nối giữa con người với thần linh.
Ngôn ngữ được biết đến sớm nhất của Lưỡng Hà là tiếng Sumer, theo sau nó là tiếng Semit, cả hai đều đại diện cho những sắc dân phổ biến nhất của vùng. Trong thời kỳ thống trị của đế chế Akkad, tiếng của dân Akkad được sử dụng rộng rãi nhưng tiếng Sumer vẫn được ưa chuộng trong hành chính, văn học và các công việc tôn giáo. Ngôn ngữ Sumer sử dụng chữ hình nêm, với các đầu bút tam giác được sử dụng để khắc các ký hiệu trên đất sét ướt. Do bản thân hệ thống chữ tượng hình này mất nhiều năm để sử dụng nên cần mất nhiều thời gian để sử dụng. Phải đến thời vua Sargon, chữ viết theo âm tiết mới được sử dụng rộng rãi và số lượng người biết chữ đã được phổ biến hơn.

Môt thành tựu quan trọng khác của văn hóa Lưỡng Hà có thể kể đến sự ra đời của bộ luật Hammurabi - được viết đến 282 điều, đây được coi là bộ luật cổ xưa nhất thế giới và được khắc trên một tấm đá bazan cao hơn 2 mét với đường kính đáy gần 2 mét. Mặt trước khắc họa cảnh thần mặt trời trao phiến đá cho vua Hammurabi trong tư thế nghiêm trang. Phiến đá này được tìm thấy vào năm 1902 và đến nay vẫn được lưu trữ cẩn thận tại Bảo tàng Louvre của Pháp.

Marduk versus Tiamat
Thần thoại Lưỡng Hà
Truyền thuyết của người dân Lưỡng Hà cho rằng thế giới là một cái đĩa phẳng, bao quanh bởi một cái hố lớn và trên tất cả chính là thiên đường. Họ còn tin rằng nước bao trùm lấy cả thế giới và vũ trụ được khai sinh từ vùng nước này. Thần thoại của họ, như nhiều thần thoại khác, có rất nhiều dị bản và mâu thuẫn với nhau vì sự thay đổi của tôn giáo theo thời gian. Tuy vậy, giữa cả bốn nền văn hóa lớn từng thống trị Lưỡng Hà vẫn có một số điểm chung nhất định. Trong số đó, có ba thần thoại sáng thế nổi tiếng nhất bao gồm Enuma Elish, Atra-Hasis và Sáng thế Eridu.
Enuma Elish là thần thoại gốc Babylon miêu tả quá trình hình thành thế giới, bắt đầu với thần Apsu và thần Tiamat. Tiamat và Apsu giao phối với nhau và từ họ, một loạt thực thể ra đời được biết đến với tên gọi Igigi. Trong số các Igigi, 2 vị thần quyền lực nhất là Lahmu và Lahamu, và như cha mẹ, cả hai đều giao phối với nhau để sinh ra Ansa và Kisar. Ansa và Kisar nốt gót cha mẹ và sinh ra Anu, người có cháu nội là Ea. Những hậu duệ từ Ansar và Kisar được gọi là Annuaki, nghĩa là dòng máu của An. Sau một quãng thời gian, Apsu, nhận thấy bản thân hậu duệ quá ồn ào, định giết chết con cùng cháu chắt của ông. Tuy nhiên, Tiamat đã nhanh chóng cảnh báo cho Ea và để đáp trả lại, Ea đã giết chết Apsu và dùng thân xác của cụ tổ để làm nhà cho mình cùng người thân. Ngay trong xác của Apsu, con trai của Ea là thần Marduk ra đời.
Trong khi đó, sau cái chết của Apsu, Tiamat lại muốn đối đầu với các vị thần. Bà kết hôn với Qingu, con trai của mình và đưa Qingu Tablet vận mệnh, qua đấy công nhận Qingu là vị thần tối cao. Nhận thấy tình thế vô cùng nguy cấp, Ansar - lúc đấy đang là người đứng đầu những hậu duệ của mình đã trao quyền lực cho Marduk, trong khi Lahmu và Lahamu cũng tuyên bố Marduk là vua của toàn Igigi. Với quyền năng của bản thân, Marduk đã vượt qua nỗi sợ và giết chết Tiamat, chiếm lấy Tablet Vận Mệnh từ tay Qingu, qua đấy tuyên bố bản thân là vị thần tối cao của toàn vũ trụ. Từ thân xác của Tiamat, ông tạo ra thiên đường và mặt đất, mặt trời mặt trăng cùng những vì sao, với hai dòng Tigris và Euphrates từ mắt của Tiamat, trong khi thân xác của Apsu trở thành địa ngục. Marduk sau đó trao Tablet Vận Mệnh cho Ansar như những gì đã thỏa thuận, và Ansar chấp nhận, đồng thời công nhận vương quyền của Marduk. Cuối cùng, Marduk tạo ra Babylon - Ngôi nhà của những vị thần vĩ đại. Thần Ea sau đó tạo ra con người từ máu của Qingu. Sau khi tất cả hoàn tất, Marduk xưng vương một lần nữa và cai trị cả thế giới từ đô thành Babylon.
Atra-Hasis - có nguồn gốc từ thời đế chế Akkad, câu chuyện xoay quanh nhân vật cùng tên với tác phẩm cùng quá trình hình thành thế giới. Câu chuyện bắt đầu với việc các vị thần - đứng đầu bởi Elil, người sở hữu Tablet Vận Mệnh - sau quá trình lao động vất vả để duy trì sự sống đã tạo ra con người với mục đích thay thế công việc của bọn họ. Tuy nhiên, con người lại sinh sôi nảy nở nhanh chóng, gây phiền đến các vị thần. Enlil, vị thần tối cao trừng phạt con người bằng một trận lụt, tuy nhiên nhờ vào sự tranh cãi giữa các vị thần lẫn sự trợ giúp từ Enki, con người đã sống sót, đổi lại bằng việc bản thân các vị thần áp đặt thêm bệnh tật cùng các tai họa khác để kiểm soát dân số.
Sáng Thế Eridu - còn được gọi là thần thoại sáng thế của người Sumer bắt đầu với lời độc thoại của nữ thần Nintur, người đã sinh ra nhân loại. Mặc dù những trang đầu bị thiếu, ta vẫn có thể thấy được Nintur đã rất ngạc nhiên trước việc con người có thể đi từ giai đoạn du mục sang việc xây dựng một nền văn minh. Nintur bắt đầu lên kế hoạch để trao vương quyền cho con người, tuy nhiên sau đoạn truyện đó, Enlil, thần tối cao đã nhấn chìm toàn bộ con người vì thấy họ quá ồn ào. Tuy vậy, may mắn thay, vị thần Enki đã thông báo một tư tế mang tên Ziusudra về hành động của Enlil. Ziusudra sau đó đã xây dựng một con thuyền để cứu sống bản thân ông cùng tất cả những sinh vật khác. Như chúng ta đã thấy, Sáng Thế Eridu có thể coi là một trong những văn bản đầu tiên trên thế giới về truyền thuyết đại hồng thủy và ảnh hưởng đến câu chuyện của Noah trong kinh thánh về sau, trong khi câu chuyện về Enlil nhấn chìm cả nhân loại có thể là lời gợi nhắc đến điều kiện thiên nhiên bất thường của miền đất Lưỡng Hà.
Bên cạnh ba câu chuyện trên, dân Lưỡng Hà còn có nhiều câu chuyện sáng thế khác như thần thoại người Sumer miêu tả Nammu, nữ thần đại dương sao đã sinh ra thần bầu trời An và thần mặt đất Ki và tạo ra thế giới. Thần phả Anu miêu tả Duri và Dari - vị thần đại diện cho thời gian vĩnh cửu đã tạo ra thế giới trong khi thần phả Enlil lại đề cập đến thần đất Enki và Ninki mới là những người đã tạo ra thế giới. Thần phả Enlil lại ảnh hưởng về sau đến thần phả Anu để tạo nên một phiên bản mới.
Thần thoại vùng Lưỡng Hà có rất nhiều các vị thần lớn nhỏ. Nhưng trong đó tiêu biểu nhất là nhóm Bảy vị thần quyết định Vận mệnh. Họ là bảy vị thần quyền lực nhất trong nhóm Annuaki; lần lượt là Anu, Ishtar, Enlil, Ea, Ninhursag, Nanna và Shamash. Trong đó Nanna là cha của Ishtar và Shamash. Ông là vị thần đại diện cho mặt trăng và là người bảo trợ cho thành phố Ur cùng Harran. Tuy vậy, Nanna không phải người đứng đầu các vị thần mà vị trí đấy thuộc về Enlil, vị thần bảo trợ Nippur và đại diện cho bão tố, gió và đất đai cũng như là hình mẫu lý tưởng cho những bậc quân vương.
Ea hay Enki - là vị thần đại diện cho sáng tạo, kiến thức và ma thuật. Ông được coi là người bảo vệ nhân loại và thế giới và là nhân vật quan trọng trong Sáng thế Eridu. Bản thân Ea cũng là người bảo trợ thành quốc Eridu. Trong sử thi Gilgamesh, ông đã tạo ra Enkidu để đánh bại anh hùng Gilgamesh; trong khi một lần khác ông tạo ra Saltu để đánh bại Ishtar. Tương truyền, Ea có mối quan hệ đối thủ với người chị em Ninhursag của ông vì cả hai đều muốn trở thành vị thần vĩ đại thứ ba sau Anu và Enlil; tuy nhiên một số câu chuyện vẫn miêu tả hai người là vợ chồng thông qua việc để Damkina - tên vợ của Ea thành danh hiệu của Ninhursag. Một điểm thú vị khác là Ea cũng có phiên bản khác là Enki mà ta đã đề cập đến bên trên. Mặc dù cùng tên, tuy nhiên nếu Ea là vị thần trí tuệ thì Enki lại là vị thần nguyên thủy của mặt đất.

Ishtar
Ishtar - vị thần đại diện cho tình yêu, chiến tranh và quyền lực. Tôn giáo thờ Ishtar có từ thời Sumer và vẫn được bảo lưu đến thời Assyria. Bà là nữ vương thiên đường và là vị thần bảo trợ cho đền Eanna của thành quốc Uruk. Nhiều học giả tin rằng Ishtar không phải một vị thần gốc Sumer mà đã sát nhập vào rthần thoại dưới thời Sumer-Akkad. Bản thân bà đại diện cho Sao Kim và kết hôn với Dumuzid - vị thần đại diện cho những người chăn cừu cùng sự màu mỡ, sinh sôi và suy tàn. Tuy vậy, bản thân ông bị đày xuống địa ngục từng năm để thay thế cho Ishtar, và hằng năm khi ông trở lại, cả Ishtar lẫn Dumuzid sẽ ân ái với nhau để có thể đem sự sống trở lại lần nữa. Câu chuyện của Dumuzid lí giải sự thay đổi từng năm theo mùa của Lưỡng Hà và có thể về sau đã truyền cảm hứng cho câu chuyện tương tự của Persephone bên thần thoại Hy Lạp.
Bên cạnh Ishtar còn có Shamash, anh em sinh đôi của bà và là vị thần của mặt trời, công lý, luân lý và sự thật. Ông là người truy cầu công lý và bảo vệ những nhà lữ hành, quân lính, thương gia và thủy thủ. Tương truyền, ông rất thân với Ishtar và là người biết đến tương lai cũng như những giấc mơ. Qua những đứa con là Mamu và Zaqiqu, Shamash đem đến giấc mơ để báo trước tương lai cho mọi người.

Ereshkigal - bà là là nữ thần, chủ nhân của Irkalla- âm phủ của thần thoại Lưỡng Hà. Bà là chị gái của Ishtar, mặc dù một số phiên bản thần thoại có đề cập Ereshkigal như phiên bản khác của Ishtar. Ereshkigal lên làm địa phủ đến từ việc bản thân bà bị bắt cóc về âm phủ và bị giam cầm dưới đó. Về say, bản thân Kurr - kẻ bắt cóc bà đã đánh nhau với Enki một trận chiến khủng khiếp. Sau cuộc chiến đó, Ereshkigal nhân cơ hội để trở thành chủ nhân của âm phủ.
Câu chuyện phổ biến nhất về Ereshkigal có lẽ là cuộc đụng chạm giữa bà và người chị gái Ishtar. Một ngày nọ, Ishtar xuống âm phủ để có thể có được quyền kiểm soát tất cả những mặt của thế giới - âm phủ, mặt đất và thiên đường. Neti, người gác cổng âm phủ đã làm theo lệnh của nữ hoàng, ép Ishtar phải đi qua bảy cánh cổng của âm phủ. Qua mỗi cánh cổng, Ishtar phải từ bỏ một món đồ và chẳng còn gì để bảo vệ bản thân, tuy vậy bà vẫn đủ sức để đe dọa sẽ sử dụng xác sống để khuất phục Ereshkigal. Ereshkigal ghen tỵ với Ishtar đã thừa cơ bắt trói chị gái và treo xác bà trên một móc câu dưới địa ngục.
Không còn Ishtar, thế giới rơi vào hỗn loạn. Thần Nishubur bèn bàn với Enki giải thoát cho Ishtar bằng cách tạo nên một sinh vật, lệnh cho nó mang nước sự sống chảy xuống âm phủ. Được truyền năng lượng từ dòng nước, Ishtar trở lại dương gian và thu lại những món đồ của mình, qua đấy khôi phục trật tự cho thế giới.

Marduk - Trong thần thoại, Marduk là con của thần nước Enki và nữ thần Damkin. Ông là vị thần bảo trợ cho trật tự, công lý, ma thuật và sự công bằng, cũng như bão tố và nông nghiệp. Ông là một vị thần trẻ và cực kì mạnh mẽ, được công nhận là vua của các thần - vì thế mà sau này người Hy Lạp coi ông là phiên bản Zeus của Lưỡng Hà. Ông cũng gắn liền với Sao Mộc, hành tinh vĩ đại nhất mà người Lưỡng Hà biết đến. Tuy vậy, dưới thời Hammurabi, Marduk vẫn không phải vị thần tối cao mà vị trí đó thuộc về Enlil. Thay vào đó, Marduk được nhìn nhận là người liên kết giữa chư thần và con người.
Bên cạnh câu chuyện giành lấy vương quyền và đánh bại Tiamat, Marduk cũng từng được ghi nhận là vị thần đại diện cho nông nghiệp và sự màu mỡ. Sự khác biệt giữa Marduk - vua chư thần và Marduk - thần nông nghiệp địa phương có thể đến từ việc thành Babylon của ông đi từ một thành bang nhỏ bé sang một thành bang quyền lực và rộng lớn.
Sau sự suy yếu của Babylon, Marduk dần bị lấn át bởi vị thần của Assyria, Ashur. Trong các tác phẩm như Sử thi Erra, Marduk từ người đem đến trật tự và sự ổn định biến thành người đem đến hỗn loạn và bị lật đổ.
Tiamat - Tiamat là một nữ thần nguyên thủy trong thần thoại Lưỡng Hà, có lẽ nguyên gốc của bà là nữ thần khởi nguyên Nammu. Bà là nữ thần của nước mặn. Là người đã sinh ra các thần, bà cũng đã sinh ra 11 con quái vật, đứng đầu trong số đó là Qingu - một kẻ có hình dáng nửa người nửa rồng, nhiều lúc được miêu tả dưới hình thành một con rồng đen. Bên cạnh Qingu, Tiamat còn sinh ra Basmu - một con rắn độc, Usumgallu - một con rồng khổng lồ có ba sừng, đầu sư tử, bốn chân và có cánh, Musmahu, một con rắn bảy đầu, Mushussu - một con bò sát có thân dài như rắn cùng chân cao như chân mèo, Lahmu - một gã đàn ông cao lớn đầy lông, Ugallu - con quái vật đầu sư tử, Uridimu - một gã nửa người nửa sư tử, Girtabullu - một con quái vật nửa người nửa bọ cáp, Umu Dabrutu - một cơn bão được né lại , Kulullu - một con nhân ngư và Kusarikku - một con nhân ngưu.
Câu chuyện của Tiamat có lẽ là phiên bản đầu tiên của Chaoskampf - hay cuộc chiến đấu lại hỗn mang, xoay quanh cuộc chiến giữa anh hùng cùng một hình tượng quái vật từ địa ngục hay từ biển cả; điều mà về sau có thể đã truyền cảm hứng cho cuộc chiến giữa Zeus và Typhoon trong thần thoại Hy Lạp hay Sáng Thế trong Kinh Thánh. Cái chết của bà cũng có thể được diễn giải quá trình thay đổi của xã hội con người từ giai đoạn mẫu hệ sang giai đoạn phụ quyền.

Sử thi Gilgamesh
Sử thi Gilgamesh
Sử thi này xuất hiện trong khoảng từ năm 2100 TCN đến 1200 TCN, vẫn còn được gìn giữ đến ngày nay. Với thần thoại Lưỡng Hà, có lẽ câu chuyện nổi tiếng nhất chính là Sử thi Gilgamesh
Câu chuyện bắt đầu với những dòng văn miêu tả thành phố phồn hoa Uruk nằm dưới quyền kiểm soát của vua Gilgamesh, vị vua có đến 2/3 dòng máu chảy trong huyết quản là thần. Trong bối cảnh của câu chuyện, Gilgamesh được coi là chưa trưởng thành khi dành nhiều thời gian để đánh nhau, vật lộn, tiệc tùng và nhiều trò tai hại khác. Các vị thần khi bèn cử người thú Enkidu đến để đánh bại Gilgamesh. Cả hai đánh nhau cả ngày lẫn đêm, tuy nhiên đến cuối cùng họ lại kết thân với nhau và dành nhiều thời gian để thám hiểm thế giới. Cùng nhau, họ đánh bại Aga, vị vua thành Kish; tiêu diệt con bò của thiên đường và Humbaba, một vị thần bảo vệ rừng cây. Tuy nhiên, hành động của họ cuối cùng lại chọc tức các vị thần và Enkidu qua đời vì bệnh tật không lâu sau đó.
Đau buồn trước cái chết của người bạn, Gilgamesh nhận thức được sự tàn nhẫn của cái chết và ông ra đi tìm kiếm sự bất tử. Ông cuối cùng thất bại và trở về Uruk, và như cách câu chuyện mở đầu, Gilgamesh lại miêu tả cảnh phồn hoa của Uruk một lần nữa cho người đọc. Tuy nhiên, điều khác biệt lớn nhất là trong lần này, bản thân Gilgamesh đã nhận ra được một bài học quan trọng về sự kiêu ngạo lẫn tính cách nóng vội. Ông đã trở về cai trị vương quốc của mình một cách công bằng suốt hơn một trăm năm.
Mặc dù là một câu chuyện đã có từ rất lâu, nhưng những giá trị của Sử thi Gilgamesh vẫn đáng được ghi nhận đến ngày nay. Bên cạnh những giá trị của hành trình trưởng thành hay những lời cảnh báo về tác hại của bạo chúa và lạm dụng quyền lực, Sử thi Gilgamesh còn khác biệt khi không xây dựng một hình mẫu anh hùng hoàn mỹ như nhiều sử thi khác về sau.
Lịch sử Lưỡng Hà
Lưỡng Hà bắt đầu hình thành từ những cộng đồng nhỏ sống dọc theo các con sông trải dài từ Địa Trung Hải đến Vịnh Ba Tư. Theo thời gian, họ bước vào giai đoạn Ubaid, kéo dài từ năm 6500 TCN đến năm 3800 TCN. Thời kỳ này dân Lưỡng Hà phát triển nền nông nghiệp và văn hóa. Nhờ sản lượng lương thực dư thừa, cư dân ở đây đã có điều kiện phát triển thủ công mỹ nghệ, hình thành hệ thống thuế và quản lý lương thực, dẫn đến sự ra đời của các nhà nước sơ khai.
Từ đó, những thị trấn và thành phố bắt đầu xuất hiện, nổi bật nhất là Uruk – một thành phố lớn với hệ thống quan chức và các công xưởng được tài trợ bởi các đền thờ. Khác với nhiều mô tả, Uruk không được cai trị bởi một vị vua mà bởi một tư tế hoặc một nhóm những tư tế, điều này cho ta thấy tầm ảnh hưởng lớn của đời sống văn hóa và tôn giáo đối với người dân Lưỡng Hà. Dưới quyền tư tế là các quan chức, học giả và người lưu trữ, đảm bảo xã hội vận hành trơn tru. Tầng lớp thấp nhất là nông dân và ngư dân. Giai đoạn này cũng chứng kiến sự ra đời của chữ viết, ban đầu được dùng để ghi chép thuế và phân phối lương thực.
Từ năm 3500 TCN trở đi, ảnh hưởng của thành phố Uruk ngày càng lan rộng, kéo theo quá trình đô thị hóa và hình thành các thuộc địa dưới quyền kiểm soát của Uruk, giờ là thế lực hùng mạnh nhất vùng. Giai đoạn này được gọi là thời kỳ Uruk. Tuy nhiên, sau một thời kỳ hỗn loạn – có thể do nội chiến, du mục hoặc các cuộc nổi dậy của thuộc địa, Uruk dần suy yếu và nhường chỗ cho các thế lực khác.

Thành phố Uruk ngày nay
Hàng thế kỷ sau sự suy yếu của Uruk, người Sumer bắt đầu xây dựng các thành phố riêng như Umma, Eridu và Nippur. Mỗi thành phố là một tiểu quốc độc lập với các vị thần riêng biệt, tương tự như các thành bang của Hy Lạp cổ đại. Các thành bang này tập trung vào khu vực đô thị và được bao quanh bởi những ngôi làng cung cấp lương thực. Sự phát triển nông nghiệp và sự giàu có của vùng đất đã thu hút nhiều người nhập cư, khiến dân số tăng nhanh. Điều này tạo ra áp lực lớn về hậu cần, dẫn đến các cuộc chiến tranh giành tài nguyên giữa các thành bang và các thế lực bên ngoài. Bối cảnh này dần chuyển đổi xã hội Lưỡng Hà từ thể chế dân chủ sơ khai sang thể chế quân chủ, với sự xuất hiện của các Lugal – hay còn gọi là "Vĩ Nhân", những vị vua sống trong cung điện. Tuy nhiên, tôn giáo vẫn giữ vai trò quan trọng, với mỗi thành bang tuyên bố được một vị thần bảo hộ, như Inanna bảo trợ Uruk hay Enlil bảo trợ Nippur. Vị vua huyền thoại Gilgamesh có lẽ cũng xuất hiện trong thời kỳ này.

Vua Sargon xứ Akkad
Sargon xứ Akkad
Trong giai đoạn này, Enshakhushanna, một vị vua của Uruk, đã tạm thời thống nhất nền văn minh Sumer. Tuy nhiên, sự cai trị của ông không kéo dài. Sau khi ông qua đời, Lugal-Zage-Si, một vị vua từ Umma, đã thống nhất thành công Lưỡng Hà và cai trị các chư hầu từ Uruk – thành phố mà ông đã chinh phục và biến thành thủ đô mới của mình.
Trong thời kỳ Lugal-Zage-Si cai trị, có một câu chuyện kể rằng một nữ tư tế sinh ra một đứa con trai và đặt đứa bé vào giỏ thả trôi sông Euphrates. Đứa trẻ sau đó được Akkii, người làm vườn cho vua thành Kish, nhận nuôi. Khi lớn lên, đứa trẻ được vua Kish tin tưởng giao cho vị trí hầu rượu. Tuy nhiên, vua Kish sau đó nằm mơ thấy mình chìm trong hồ máu và lo sợ đứa trẻ sẽ phản bội mình, nên đã gửi nó đến Lugal-Zage-Si. Nhưng cuối cùng, đứa trẻ này đã lật đổ vua Kish và trở thành Sargon – người sáng lập đế chế đầu tiên trong lịch sử nhân loại.
Câu chuyện về nguồn gốc của Sargon có lẽ là một thông điệp chính trị được tạo ra để thuyết phục người dân Akkad và Sumer rằng ông vừa là một người phi thường, vừa là một nhà cai trị có nguồn gốc khiêm tốn, khác với những kẻ giàu có trước đây. Tương tự như những thần dân, ông cũng có xuất phát điểm từ sự nghèo đói. Từ căn cứ tại Kish, Sargon đã chinh phục vùng phía nam, giành chiến thắng hơn 30 trận chiến và lần lượt kiểm soát các thành bang khác. Ông tiến quân đến Uruk, đánh bại Lugal-Zage-Si, rồi tiếp tục hành quân xuống phía nam đến Vịnh Ba Tư. Sau đó, ông quay về phía bắc, xử tử Lugal-Zage-Si và chính thức thành lập triều đại mới. Nhận thấy chưa thể mở rộng về phía bắc ngay lập tức, Sargon tập trung vào việc mở rộng lãnh thổ về phía đông và phát triển giao thương.
Từ năm 2300 TCN, ông chinh phục Susa – thủ đô của người Elam – và mở rộng đế chế từ Địa Trung Hải đến Vịnh Ba Tư. Điều này mang lại sự ổn định cho giao thương và kinh tế, đồng thời giúp Lưỡng Hà tiếp cận các nguồn tài nguyên quan trọng như đồng, bông, đá quý, bạc, voi và trâu. Từ thời Sargon, các vị vua Lưỡng Hà sau này thường sử dụng hàng hóa ngoại quốc để thể hiện quyền lực.
Sargon đưa người Akkad bản địa vào các vị trí cai trị và sử dụng tôn giáo để thuyết phục thần dân rằng các vị thần đã trao đế chế cho ông, chứ không phải ông tự chiếm lấy. Ông cũng giao những vị trí quyền lực cho người thân, như con gái cả được giao làm vị trí hiến tế. Sargon tiếp tục trị vì và duy trì quyền lực cho đến khi ông qua đời vào năm 2279 TCN, sau 56 năm cai trị. Sau cái chết của Sargon, hai người con trai là Rimush và Manishtushu dành phần lớn thời gian để dẹp loạn trong đế chế. Dưới thời Naram-Sin – cháu nội của Sargon – ông không chỉ dẹp loạn thành công mà còn đánh bại người Elam và khuất phục nhiều bộ lạc du mục, củng cố đế chế. Dẫu vậy, triều đại của Naram-Sin cũng đánh dấu thời kỳ huy hoàng cuối cùng của đế chế Akkad. Sau khi ông qua đời, đế chế dần suy yếu và cuối cùng sụp đổ vào năm 2154 TCN.
Sau sự sụp đổ của Đế chế Akkad, người Gutia – từng là kẻ thù của Akkad – đã tràn vào Lưỡng Hà và thành lập một triều đại mới quanh thung lũng sông Euphrates. Tuy nhiên, họ không thể kiểm soát hoàn toàn vùng đất này. Liên minh các thành bang Sumer, đứng đầu là Uruk, đã lật đổ vua Gutia và tạm thời cai trị Lưỡng Hà trong một khoảng thời gian ngắn. Sau đó, Ur-Nammu, một vị quan đến từ thành Ur đã lật đổ Uruk và thành lập triều đại mới, sau được gọi là Triều Đại Thứ Ba của thành Ur.
Ur
Khác với Akkad, triều đại này tập trung vào việc củng cố và quản lý đế chế thay vì liên tục mở rộng lãnh thổ. Dưới thời Ur, vai trò của "ensi" thay đổi từ người đại diện địa phương sang quan chức dưới quyền nhà vua. Mặc dù không có nhiều ghi chép về các cuộc nổi loạn trong giai đoạn này, Lưỡng Hà vẫn phát triển mạnh về thương mại, hệ thống tưới tiêu và dân số. Các thành phố cũ tiếp tục phát triển, trong khi những thành phố mới dần trở thành trung tâm kinh tế quan trọng, một trong số đó chính là thành quốc Babylon.
Tuy nhiên, triều đại Ur cuối cùng cũng sụp đổ vào năm 2004 TCN do hạn hán, dịch bệnh và cuộc xâm lược của người Amorite – một nhóm dân du mục mới. Lưỡng Hà rơi vào hỗn loạn giữa các thế lực bản địa và người Amorite. Trước đó, người Amorite đã nhiều lần tấn công Lưỡng Hà, chiếm được Palestine, Syria và các vùng lân cận. Giống như những dân tộc du mục khác từng đến đây, họ dần hòa nhập vào cộng đồng bản địa và bị đồng hóa chỉ sau vài thập niên.

Cuộc xâm lăng của dân Amorites
Theo thời gian, người Amorite thành lập nhiều thành bang, phát triển hệ thống chữ viết và ngôn ngữ, nền tảng cho đế chế Babylon sau này. Tuy vậy, những thành bang quyền lực nhất trong giai đoạn này lần lượt là Ibin và Larsa. Trong giai đoạn này, Shamshi-Adad, một nhà chinh phạt và quân phiệt dần mở rộng thế lực. Sau nhiều năm lưu vong, ông trở về quê hương Ekalatum, đánh bại người Assyria và tự xưng là vua Assyria. Ông xây dựng thủ đô mới là Shubat-Enlil và giao cho hai con trai cai trị các thành phố khác. Tuy nhiên, đế chế của ông không tồn tại lâu do các cuộc tấn công từ người du mục vùng núi Zagros và các cuộc nổi loạn trong nước. Đứa con trưởng của ông, Ishmi-Dagan, mất phần lớn lãnh thổ, và chiến tranh lan rộng khắp vùng. Các thành bang như Mari và Babylon liên minh để chống lại Eshnunna và người Elam, dọn đường cho sự trỗi dậy của Babylon.
Babylon và Assyria
Babylon, một trong những thành phố nổi tiếng nhất thế giới cổ đại, bắt đầu từ một ngôi làng nhỏ thờ thần nông nghiệp Marduk. Dưới thời các vua Ur, nó phát triển thành một thành phố lớn. Sau cuộc xâm lược của người Amorite, Babylon mở rộng và chiếm lấy nhiều thành phố giàu có như Kish. Đối thủ chính của Babylon lúc này là Larsa, một thành bang thờ thần mặt trời Utu. Tuy vậy, Larsa lại là kẻ chiếm ưu thế nhờ kiểm soát Ur và giao thương với Vịnh Ba Tư, thậm chí đánh bại liên minh giữa Uruk và Babylon do vua Sin-Muballit lãnh đạo.
Năm 1792 TCN, con trai của Sin-Muballit là Hammurabi lên ngôi thay cha. Lúc này, Shamshi-Adad vẫn thống trị vùng Thượng Lưỡng Hà, còn Larsa đang mạnh ở phía nam. Hammurabi dành nhiều năm củng cố quyền lực, phát triển kinh tế và xây dựng thành phố. Khi đế chế của Shamshi-Adad sụp đổ, Hammurabi lợi dụng tình hình hỗn loạn để thành lập liên minh chống lại người Elam. Dù Larsa từ chối tham gia, Hammurabi vẫn đánh bại Elam và sau đó dùng ngoại giao khéo léo để hạ gục Larsa, thống nhất Lưỡng Hà dưới vinh quang của Babylon. Ông tự xưng là hiện thân của thần, khác với các vua trước chỉ coi mình là đại diện của thần. Triều đại của Hammurabi kéo dài trong hòa bình và thịnh vượng cho đến khi ông qua đời. Mặc dù các vị vua sau không giữ được di sản của ông, Hammurabi vẫn được nhớ đến như một nhà cai trị lý tưởng, và Babylon tiếp tục là trung tâm kinh tế – văn hóa của khu vực trong nhiều thế kỷ sau đó.
Sau khi Đế chế Babylon suy yếu, người Assyria ở phía bắc Lưỡng Hà bắt đầu nổi dậy và xây dựng lãnh thổ của mình. Từ trước đó, dân Assyria đã là chư hầu của đế chế Akkad và thành lập nên thành phố của riêng họ, Ashur. Dưới thời vua Ilushuma, dân Assyria đã tiến hành nhiều cuộc cướp phá quanh vùng Lưỡng Hà, và theo thời gian, cả Assyria lẫn Babylon dần hình thành mối quan hệ đối thủ với nhau, tương tự như Athen và Sparta.Trong một quãng thời gian nhất định, Babylon chiếm ưu thế trước Assyria nhưng sau sự suy tàn của Babylon, người Assyria có một cơ hội mới.
Họ duy trì hòa bình với các dân tộc lân cận, trong đó có người Kassite – nhóm người đã chiếm Babylon và thành lập triều đại riêng. Tuy nhiên, không có nhiều thông tin về người Kassite, ngoại trừ việc họ bị người Elam đánh bại. Trong khi đó, người Assyria, dù từng thất bại trước người Hurri trong một thời gian ngắn, cuối cùng đã lật đổ được họ và bước vào thời kỳ hưng thịnh. Đến thế kỷ 12 TCN thì xảy ra sự kiện “Sụp đổ đồ đồng”, khi một loạt nền văn minh đồ đồng ở quanh Địa Trung Hải suy yếu nghiêm trọng, thậm chí là diệt vong. Tuy nhiên, đế chế Assyria vẫn chống chọi được và dần khôi phục quyền lực.
Đầu thiên niên kỷ 1 TCN, cả Babylon và Assyria đều bị các bộ lạc du mục tấn công. Nhưng dưới thời vua Ashur-dan II, người Assyria đã tổ chức các cuộc chinh phạt để khôi phục lãnh thổ của tổ tiên. Họ tàn phá các thành phố đối thủ, phá hủy tượng thần và hành hạ tù nhân. Ban đầu, người Assyria thờ thần Ashur – vị thần nông nghiệp, nhưng khi bước vào thời kỳ chiến tranh, hình tượng thần Ashur lại biến đổi thành thần chiến tranh và được cư dân Assyria lẫn chư hầu của họ thờ phụng như nhau. Họ cũng tiếp nhận nhiều vị thần khác, tạo nên một hệ thống tôn giáo phức tạp với hàng trăm vị thần.
Dưới thời vua Ashurnasirpal II (tên ông có nghĩa là "thần Ashur là người tạo ra người thừa kế"), quyền lực của đế chế Assyria lên đến đỉnh cao. Quân đội của Assyria đều được công nhận là đội quân mạnh nhất thế giới vào thời điểm bấy giờ, với kỵ binh, công cụ công thành và quân đội thường trực. Ông mở rộng lãnh thổ đến tận cao nguyên Armenia và ép các thành phố xa xôi phải cống nạp. Một trong những thành tựu lớn nhất của ông là xây dựng nhiều công trình quan trọng, đặc biệt là thư viện Ashurnasirpal và thành phố Nimrud (năm 879 TCN).
Theo các ghi chép, ông đã tổ chức một bữa tiệc khổng lồ tại Kalhu với 70.000 khách mời, bao gồm 16.000 người từ kinh đô và 5.000 khách nước ngoài. Trong bữa tiệc, họ đã tiêu thụ 10.000 con bồ câu, 10.000 chân gấu và 10.000 thùng rượu. Ngoài ra, vua Ashurnasirpal còn trưng bày vô số vàng bạc, đá quý để thể hiện sự giàu có và quyền lực của mình. Và thông điệp ông muốn truyền tải rất rõ ràng: Ông là vị vua vĩ đại nhất thế giới, vượt xa những vị vua nhỏ bé ở phương Tây.
Việc xây dựng Kalhu ở vị trí trung tâm giữa ba thành phố lớn giúp Ashurnasirpal II quản lý đế chế dễ dàng hơn và hạn chế quyền lực của các gia đình quý tộc lâu đời. Tuy nhiên, sau khi ông qua đời, đế chế Assyria dần suy yếu do các quý tộc tranh giành quyền lực. Sau nhiều năm suy thoái, đế chế Assyria tạm thời ổn định dưới thời Tiglath-Pileser III. Ông thực hiện nhiều cải cách, xây dựng quân đội thường trực, tổ chức lại chế độ cống nạp và đánh bại các liên minh chống đối. Ông cũng áp dụng chính sách di dân để kiểm soát các vùng có nguy cơ nổi loạn, đồng thời xây dựng hệ thống liên lạc và gián điệp để củng cố quyền lực. Dưới thời ông, Assyria chinh phục được Babylon và mở rộng lãnh thổ.

Bản đồ Kalhu cùng các thành khác
Tuy nhiên, đế chế Assyria cuối cùng cũng sụp đổ dưới tay Nabopolassar, một tướng lĩnh người Chaldea. Ông liên minh với các thành bang lân cận, đánh bại Assyria và cướp phá thủ đô Nineveh vào năm 612 TCN. Nabopolassar thành lập Đế chế Tân Babylon, lần đầu tiên đưa Babylon trở lại vị thế trung tâm quyền lực của Lưỡng Hà kể từ thời Hammurabi. Dưới thời vua Nebuchadnezzar II, Babylon không chỉ khôi phục thương mại mà còn xây dựng kỳ quan Vườn treo Babylon. Nền học thuật cũng phát triển rực rỡ, với nhiều ghi chép lịch sử được lưu giữ. Tuy nhiên, tất cả đã bị phá hủy khi Đế chế Tân Babylon bị người Ba Tư đánh bại vào năm 539 TCN, chấm dứt sự tồn tại của nó sau chưa đầy một thế kỷ. Sau sự sụp đổ của đế chế Ba Tư, vùng Lưỡng Hà trở thành một phần triều đại Seleucid của người Hy Lạp và bước vào thời kỳ cổ điển.
Trong một quãng thời gian nhất định, dân Lưỡng Hà đã nằm dưới quyền kiểm soát của đế chế La Mã nhưng đến giai đoạn trung đại, Hồi giáo dần lan tỏa quanh vùng, và Lưỡng Hà chính thức bước sang một trang sử mới.

Nimrod, thủ đô của đế chế Assyria
Phần kết
Và vừa rồi là toàn bộ nội dung của bài viết. Cảm ơn các bạn vì đã đọc đến đây.

Lịch sử
/lich-su
Bài viết nổi bật khác
- Hot nhất
- Mới nhất











