Vai trò của xe tăng trong cuộc Kháng chiến chống Mỹ cứu nước (1960 - 1975)
Lịch sử Việt Nam hiện đại Lịch sử khoa học - công nghệ thế giới
1. Bối cảnh lịch sử và nhu cầu trang bị xe tăng của Việt Nam

Quân Giải phóng chiếm trường Thiết giáp tại Nước Trong (Biên Hòa). Từ đầu tháng 4/1975, các binh đoàn chủ lực của ta từ khắp các hướng tiến về Sài Gòn, tấn công địch với sức mạnh vũ bão.
Sau Hiệp định Genève năm 1954, tình hình chính trị - xã hội Việt Nam bước vào một giai đoạn phức tạp: Tại miền Bắc, nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa bắt đầu quá trình xây dựng nền kinh tế xã hội chủ nghĩa và tái thiết đất nước sau chiến tranh, đồng thời đặt trọng tâm vào việc củng cố quốc phòng với mục tiêu lâu dài là thống nhất quốc gia. Trong khi đó, miền Nam với chính quyền Sài Gòn được Hoa Kỳ bảo trợ toàn diện cả về chính trị, quân sự, kinh tế. Trong bối cảnh đó, nhận thức rõ nguy cơ xảy ra một cuộc chiến tranh lớn, cùng mục tiêu chuẩn bị cho một cuộc kháng chiến trường kỳ thống nhất đất nước, Quân đội Nhân dân Việt Nam (QĐNDVN) đã chủ động xây dựng lực lượng và phương án tác chiến trong điều kiện đối đầu với đế quốc Mỹ có tiềm lực quân sự vượt trội.
Một trong những thách thức đặt ra với QĐNDVN là nâng cao khả năng tác chiến trong điều kiện chiến tranh hiện đại, đặc biệt khi đối đầu với đối thủ có ưu thế vượt trội về phương tiện chiến tranh (Không quân mạnh và hệ thống hỏa lực tầm xa với mức độ chính xác cao). Cần nhấn mạnh rằng, chiến thuật chiến tranh trong nửa sau thế kỷ XX không còn là sự đối đầu đơn thuần giữa bộ binh, pháo binh và hải quân, mà chuyển sang một hình thức chiến tranh hiệp đồng chặt chẽ giữa cơ giới hóa, điện tử và kĩ thuật hiện đại (đặc biệt là tên lửa). Trước tình hình đó, việc tiếp thu các công nghệ quân sự mới, trong đó có mục tiêu xây dựng lực lượng Tăng - Thiết giáp, là một yêu cầu cấp thiết để hiện đại hóa quân đội. Việc này không chỉ bổ sung hỏa lực trên chiến trường mà còn là biểu hiện của tư duy quân sự đổi mới của Việt Nam, hình thành những quân đoàn chủ lực có khả năng triển khai trong các chiến dịch tấn công quy mô lớn.
Do nguồn lực còn hạn chế, việc phát triển lực lượng này đòi hỏi sự đồng bộ từ đào tạo nhân lực, tiếp nhận công nghệ đến hậu cần kỹ thuật. Chính vì vậy, Đảng và Nhà nước đã sớm tuyển chọn và cho nhiều cán bộ đi học các trường học binh chủng, kĩ thuật quân đội trong và ngoài nước (Liên Xô, Trung Quốc là chủ đạo). Kết quả, “Đoàn cán bộ đầu tiên đi học về xe tăng ở Trung Quốc gồm 36 cán bộ từ cấp trung đội đến cấp trung đoàn, do thiếu tá Đào Huy Vũ làm trưởng đoàn. Đây là những cán bộ được đào tạo dài hạn về chỉ huy Tăng Thiết giáp đủ làm khung cán bộ quân sự cho một trung đoàn xe tăng”.
Ngày 5/4/1958, trong bài nói tại Trường sĩ quan Lục quân Việt Nam, Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ rõ hai nhiệm vụ trong tình hình mới: “Xây dựng quân đội nhân dân ngày càng hùng mạnh và sẵn sàng chiến đấu; 2. Thiết thực tham gia lao động sản xuất để góp phần xây dựng chủ nghĩa xã hội. Đó là hai nhiệm vụ rất vẻ vang; hai nhiệm vụ đó nhất trí với nhau”. Với sự viện trợ từ các nước xã hội chủ nghĩa, đặc biệt là Liên Xô và Trung Quốc, Việt Nam bắt đầu tiếp nhận các loại xe tăng từ cuối những năm 1950. Ngày 5 tháng 10 năm 1959, “bộ đội thiết giáp thành lập với trung đoàn đầu tiên gồm 202 cán bộ, chiến sĩ, trang bị 35 xe tăng T.34 và 16 pháo tự hành 76 milimet (CAY.76) do Liên Xô sản xuất. Sự ra đời của bộ đội thiết giáp đánh dấu bước tiến mới về sức mạnh đột kích của quân đội ta”. Từ đó, công tác đào tạo cán bộ, huấn luyện kỹ thuật và chiến thuật cho các kíp xe được chú trọng nhằm phục vụ cho các chiến dịch lớn sau này. Cho đến năm 1961 - 1963, “bộ đội thiết giáp có một trung đoàn gồm ba tiểu đoàn xe tăng T.34, T.54, xe tăng bơi PT.76 và pháo tự hành 76 milimet (CAY.76), có thể cùng bộ binh làm nhiệm vụ đột kích trong các trận đánh then chốt”, cho thấy QĐNDVN đã bước đầu làm tốt nhiệm vụ chuẩn bị khí tài, rèn luyện nhân lực trong các binh chủng Tăng - Thiết giáp.
2. Hiệp đồng giữa xe tăng với các binh chủng khác qua một số chiến dịch quan trọng

2.1. Chiến dịch Đường 9 - Nam Lào
Chiến dịch Đường 9 - Nam Lào (1971) là một chiến dịch quy mô lớn trong cuộc kháng chiến chống Mỹ của nhân dân Việt Nam, được triển khai trên địa bàn dọc tuyến Đường 9 ở phía Tây Quảng Trị (miền Trung Việt Nam) và khu vực trung - nam nước Lào. Đây là khu vực có vị trí chiến lược quan trọng, nằm trên trục chính của đường mòn Hồ Chí Minh chiến lược, phụ trách vận tải hậu cần quân sự từ miền Bắc vào chiến trường miền Nam Việt Nam. Địa hình ở đây chủ yếu là rừng núi hiểm trở, độ dốc lớn, đường sá phức tạp, phân tán cao, khí hậu khắc nghiệt, gây cản trở cho các hoạt động quân sự quy mô lớn, đặc biệt đối với các lực lượng cơ giới. Tuy khó khăn, QĐNDVN đã áp dụng chiến thuật đánh luồn sâu, tấn công bất ngờ và cơ động linh hoạt - những yếu tố đã trở thành đặc trưng trong nghệ thuật quân sự của quân đội Việt Nam.
Về phía Mỹ và đồng minh, muốn làm chủ Đường 9 nhằm mục đích ngăn chặn sự chi viện của miền Bắc Việt Nam đối với miền Nam và lực lượng cách mạng Lào, Campuchia. Tình hình chính trị tại Mỹ hết sức bất ổn, cuộc chiến Mỹ tiến hành tại Việt Nam đang gặp phải nhiều bất đồng và phản đối từ số đông cử tri, do đó kế hoạch làm chủ Đường 9 trở nên cấp thiết để cho thấy “tình hình chiến tranh tại Việt Nam đang rất khả quan cho đồng minh”. Chính vì vậy, QĐNDVN đã tập trung lực lượng hùng hậu với hỏa lực yểm trợ tối đa, trong đó lực lượng Tăng - Thiết giáp có mặt đông đảo: “Lực lượng xe tăng tham gia chiến dịch gồm có Tiểu đoàn 198 đã ém sẵn tại Đường 9 từ cuối năm 1967 và các tiểu đoàn 297, 397 vừa được điều vào sau khi tham gia diễn tập ở phía nam Quân khu 4, tổng cộng 88 xe”.
Về diễn biến chiến dịch, có hai cứ điểm cần lưu ý: Thứ nhất, căn cứ hỏa lực 31 của Mỹ và đồng minh đặt tại Điểm cao 543 (mạn bắc Đường 9), là nơi yếu địa do án ngữ trực tiếp trên Đường 16A - huyết mạch vận tải từ Bắc vào Nam. Thứ hai, Điểm cao 550 (cách Đường 9 khoảng 9 km) là nơi đóng quân của Lữ đoàn thủy quân lục chiến 147 do Nguyễn Văn Thiệu sắp xếp, nhưng cũng có địa hình thoải, đủ cho xe tăng cơ động. Bộ Tư lệnh QĐNDVN tính toán rằng, hai cứ điểm trên bị hạ sẽ hoàn thành mục tiêu cơ bản của chiến dịch.
Trong quá trình do thám và tiến đến điểm cao 543, do hỏa lực từ không quân Mỹ đã khiến nhiều xe tăng phía ta bị hỏng hóc, tiêu diệt. Thời gian di chuyển liên tục trên đường dài và đường xấu (do bị bom Mỹ phá hủy) khiến lực lượng Tăng - Thiết giáp Việt Nam chỉ còn 5 chiếc có khả năng tấn công điểm cao 543. Ban Chỉ huy quyết đinh thời gian nổ súng sẽ vào 11h30 ngày 25/2/1971: “Xe tăng húc đổ các cây đã được công binh cưa “đứt ngậm” tiến về điểm cao 543. Khi lên đến mỏm 3, xe tăng bắt liên lạc với bộ binh, đồng thời phát hỏa tiêu diệt mục tiêu ở mỏm 4 và điểm cao 543. Thấy xe tăng xuất hiện, địch tập trung hỏa lực pháo binh và không quân ngăn chặn. Các chiến sĩ xe tăng vừa dùng pháo, súng máy tiêu diệt mục tiêu trong cứ điểm vừa sử dụng 12 ly 7 bắn máy bay và đã bắn rơi 1 máy bay F-4H”. Trong lúc tiến công, do hỏa lực địch quá mạnh, quân ta thiệt hại 2 xe tăng, còn lại 3 xe tăng trong đó xe tăng 555 do Đặng Văn Đoàn điều khiển tham chiến trực tiếp tại mỏm 4, còn 2 xe khác yểm trợ từ bên ngoài. Đáng chú ý, kíp lái của xe 555 đã chiến đấu kiên cường, tiến công không ngừng lên thẳng điểm cao 543: “Tại đây, xe 555 vừa dùng hỏa lực diệt địch, vừa dùng xích sắt chà xát phá hủy công sự và phương tiện của địch, tạo điều kiện cho bộ binh bắt sống đại tá Nguyễn Văn Thọ và Bộ Tư lệnh Lữ đoàn dù 3. 16 giờ 50 ngày 25/02/1971, quân ta hoàn toàn làm chủ điểm cao 543. Đó cũng là lúc xe 555 sử dụng hết toàn bộ cơ số đạn pháo, đại đại liên và đạn 12 ly 7. Đây là trận đánh hiệp đồng binh chủng đạt hiệu suất chiến đấu rất cao của xe tăng 555 cũng như Đại đội xe tăng 9, góp phần vào thắng lợi của chiến dịch Đường 9 - Nam Lào”.
Về điểm cao 550, Bộ Tư lệnh giao cho Sư đoàn bộ binh 324, trong đó có 10 xe tăng T.34. Lực lượng này đóng vai trò cơ bản - càn quét và che chắn hết sức hiệu quả cho bộ binh tiến vào điểm cao: Ngày 22/3/1971, sau khi giao chiến từ 16h15 đến 21h, quân địch mất mỏm 500 và buộc phải rút về mỏm 550. Không để địch chạy thoát, “hai xe 265, 269 tiến phía trước, vừa tiến vừa bắn mãnh liệt; xe 254 tiến phía sau yểm trợ; xe 132 của đại đội trưởng bị hỏng phải dừng tại mỏm 500 để chỉ huy. Khi còn cách sở chỉ huy lữ đoàn địch 50 mét thì xe 265 trúng đạn M72 bốc cháy, hai xe còn lại tiếp tục xung phong lao vào sở chỉ huy. 22 giờ 30, toàn bộ quân dịch trên mỏm 5 đã bị tiêu diệt, một số chạy được sang mỏm 480. 23 giờ 30, xe tăng và bộ binh tiếp tục tiến sang mỏm 480. Lúc 0 giờ 30 ngày 23/3, ta hoàn toàn làm chủ cứ điểm. Lữ đoàn 147 thủy quân lục chiến bị đánh thiệt hại nặng nề với 65% quân số bị tiêu diệt, 87 tên bị bắt sống”. Chiến dịch Đường 9 - Nam Lào còn một số trận đánh nhỏ lẻ khác, nhưng về cơ bản đã thành công sau khi chiếm đóng được điểm cao 543 và 550. Trận đánh này cho thấy, mặc dù đối mặt với nhiều khó khăn về địa hình, hỏa lực kẻ thù và trang bị lạc hậu (T.34 là xe tăng từ Thế chiến II), song nhờ quyết tâm chiến đấu và tư duy chiến trận, hiệp đồng binh chủng linh hoạt, xe tăng đã thể hiện tốt vai trò của mình trong cuộc kháng chiến chống Mỹ.
2.2. Chiến dịch Xuân - Hè 1972
Lúc bấy giờ, QĐNDVN đã đạt được nhiều chiến thắng quan trọng trước Mỹ và các đồng minh, vấn đề thống nhất đất nước càng được thực hiện một cách chỉnh chu, cẩn trọng. Nhận thức rõ tình hình có lợi, Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam quyết định tiến hành cuộc tấn công chiến lược năm 1972 tại khu vực miền trung - miền nam Việt Nam, với quy mô triển khai trên ba mặt trận chiến lược: Trị - Thiên, Tây Nguyên và Đông Nam Bộ. Địa hình tác chiến trải dài từ vùng rừng núi, cao nguyên đến đồng bằng và đô thị, trong đó, mặt trận Trị - Thiên là chiến trường trọng điểm do có khả năng phối hợp với các mặt trận khác, dễ tổ chức các cuộc tiến công đánh chiếm đô thị và kiểm soát các tuyến giao thông huyết mạch.
Trên mặt trận Trị - Thiên, trận đánh tăng thiết giáp lớn nhất trong kháng chiến chống Mỹ là trận Cửa Việt (Quảng Trị), vào thời điểm ngay trước thời khắc Hiệp định Paris có hiệu lực vào ngày 28/01/1973. Đó cũng là trận đấu có sự chênh lệch lực lượng lớn nhất: 8 xe tăng, thiết giáp của Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam đối đầu trực tiếp với khoảng 60 xe tăng, thiết giáp phía chính quyền Nguyễn Văn Thiệu. Về lực lượng Tăng - Thiết giáp, “tính đến ngày 25/01/1973, lực lượng Tăng Thiết giáp bố trí tại Nam Cửa Việt chỉ có 5 xe. Đó là: 1 xe tăng bơi nước K63-85 (số hiệu 704), 2 xe thiết giáp K63 (có trang bị 2 bệ phóng tên lửa chống tăng B72), 2 xe thiết giáp BTR-50PK lắp cao xạ 23mm. Trong đó xe tăng bơi K63-85 do Đại đội trưởng Ngô Văn Khoán chỉ huy cùng 2 xe K63 bố trí tại điểm cao 12 ở phía đông thôn Hà Tây, còn 2 xe cao xạ tự hành bố trí ở Vĩnh Hòa”. Vẫn như thường lệ, quân đội Mỹ và chính quyền Sài Gòn dùng hỏa lực không quân và pháo binh đánh phá dữ dội trên toàn bộ khu vực Cửa Việt nhằm làm khó quân ta di chuyển. Rất có thể, phía địch đã nhận thức được vai trò lớn của xe tăng nên đã làm nhiều cách để cản trở lực lượng Tăng - Thiết giáp của QĐNDVN. Sau hơn một ngày giao chiến (rạng sáng ngày 26/1 đến 22h30 ngày 27/1), cả hai bên đều chịu thiệt hại tương đối lớn. Tuy nhiên, với tinh thần bất khuất, phía quân dân Giải phóng quyết phải đẩy địch ra khỏi Cửa Việt trước khi Hiệp định Paris có hiệu lực lúc 8h ngày 28/1, vì vậy đã tăng cường thêm lực lượng phản kích. Song, hỏa lực địch quá mạnh buộc quân ta phải tạm rút lui bàn chiến thuật. Đích thân Đại tướng Võ Nguyên Giáp đã gọi điện cho tướng Lê Trọng Tấn - Tư lệnh mặt trận B5: “Các anh cho đánh chiếm lại ngay. Cố gắng đưa cho được những đứa con khỏe mạnh nhất của Đào Huy Vũ sang nhé? Phải lấy lại bằng được”. Đại tá Đào Huy Vũ là Tư lệnh Binh chủng Tăng Thiết giáp, cuộc gọi trên với hàm ý đưa những xe tăng mạnh nhất mà quân đội có đến mặt trận Trị - Thiên, cho thấy việc chiếm Cửa Việt là hết sức quan trọng. Kết quả, “Bộ Tư lệnh B5 quyết định điều 1 đại đội xe T-54, T-59 của Trung đoàn xe tăng 203 từ Cam Lộ xuống dùng phà tự hành sang bờ nam Cửa Việt… 10 giờ 30 phút ngày 31/01, toàn bộ lực lượng Việt Nam Cộng hòa rút chạy khỏi khu vực Nam Cửa Việt… Riêng lực lượng tăng thiết giáp của Tiểu đoàn bộ binh cơ giới 66 và 1 xe T-59 của Trung đoàn 203 đã bắn cháy 18 tăng thiết giáp địch, thu 3 xe M48, 3 xe M41 và 5 xe M113… Trận đấu tăng thiết giáp Cửa Việt tuy không thật điển hình, song đã đi vào lịch sử và để lại nhiều bài học quý giá về sử dụng tăng thiết giáp”.
Tại mặt trận Đông Nam Bộ, chiến trường B2 (gồm các tỉnh Nam Bộ và 5 tỉnh của Liền khu 5 ở cực Nam Trung Bộ: Ninh Thuận, Bình Thuận, Quảng Đức, Tuyên Đức, Lâm Đồng) là nơi xa hậu phương miền Bắc nhất tính đến năm 1972. Hơn thế nữa, quân đội Giải phóng mới chiến đấu kịch liệt tại mặt trận Trị - Thiên, vì vậy hỗ trợ hậu cần vào B2 hết sức khó khăn. Tuy nhiên, với tinh thần dân tộc đang lên, vào cuối tháng 3/1972, các đơn vị xe tăng của QĐNDVN đã có mặt nhanh chóng tại chiến trường B2. Theo chỉ đạo, binh chủng QĐNDVN sẽ tấn công chủ yếu vào Đường 13 (từ Campuchia qua Lộc Ninh, Bình Long về Sài Gòn), đặt mục tiêu uy hiếp chính quyền Sài Gòn từ phía bắc và tây bắc.
Về cứ điểm Lộc Ninh, nằm trên một quả đồi với hệ thống công sự bao quanh kiên cố, không gian dây thép gai và mìn rộng lớn, nhiều trận địa pháo và không quân yểm trợ, có thể nói là một cứ điểm vững chắc. Ngày 6/4/1972, QĐNDVN chính thức nổ súng, hiệp đồng các binh chủng tấn công Lộc Ninh: “Thiết đoàn 1 Việt Nam Cộng hòa từ căn cứ Hoa Lư cơ động về giải vây cho Lộc Ninh rơi vào bẫy phục kích, bị tiêu diệt gọn. Trung tá Nguyễn Đức Dương, Thiết đoàn trưởng bị bắt sống. Đêm 06/4, rạng ngày 07/4, xe tăng cơ động từ vị trí tập kết lên tuyến triển khai. Máy bay AC-130 lên không kích chặn đường. Đại đội cao xạ tự hành 52 nổ súng bắn rơi 1 máy bay AC-130, đảm bảo xe tăng đến đích đúng thời gian quy định. Đúng 5 giờ sáng ngày 07/4/1972, tận dụng kết quả vây lấn của Trung đoàn 2 và hỏa lực chuẩn bị của pháo binh, Trung đoàn bộ binh 3 và Đại đội xe tăng 10, Đại đội cao xạ tự hành 52 đồng loạt tiến công trên hai hướng vào căn cứ Lộc Ninh. Hết sức bất ngờ vì sự xuất hiện của xe tăng Quân Giải phóng, tinh thần binh lính Việt Nam Cộng hòa “xuống đến gót chân” nên nhanh chóng tan rã. Vì vậy, chỉ sau hơn hai giờ chiến đấu Quân Giải phóng đã làm chủ hoàn toàn căn cứ Lộc Ninh, tiêu diệt và bắt sống hơn 1.000 tên địch, trong đó có đại tá Nguyễn Công Vĩnh, chỉ huy trưởng Chiến đoàn 9”. Một lần nữa, QĐNDVN đã thể hiện sự linh hoạt, sáng tạo trong hoạt động tác chiến tại chiến trường mới, ứng dụng hiệu quả vai trò của tăng thiết giáp tại mặt trận. Chiến trường Đông Nam Bộ về cơ bản được QĐNDVN kiểm soát.
Phối hợp với các chiến trường khác, Bộ Tư lệnh Mặt trận Tây Nguyên mở chiến dịch Đăk Tô - Tân Cảnh (Bắc Tây Nguyên) để mở đường tiến đánh Kon Tum ở phía Nam, kiểm soát toàn bộ Tây Nguyên. Đây là khu vực chiến lược quan trọng, nổi tiếng vì được đánh giá rằng “Ai làm chủ được Tây Nguyên thì sẽ làm chủ được cả Đông Dương”. Vì vậy, Đăk Tô - Tân Cảnh được quân đội Mỹ quan tâm sâu sắc, viện trợ không hạn chế để củng cố.
Rạng sáng ngày 24/4/1972, Quân Giải phóng đồng loạt tiến đánh. Đến 8 giờ sáng, quân đội về cơ bản đã làm chủ Tân Cảnh. Tuy nhiên, tại Đăk Tô, Quân Giải phóng gặp nhiều khó khăn do kẻ địch đã nhanh chóng được viện trợ. Trước tình hình trên, Bộ Tư lệnh nhanh chóng điều động một trung đội xe tăng lên yểm trợ chiếm đóng. Được biết rằng, trung đội này là Trung đội xe tăng 3 do thiếu úy Nguyễn Nhân Triển chỉ huy, gồm 3 xe tăng lần lượt là 377, 354 và 369, ngoài ra còn 1 xe cao xạ tự hành ZSU57-2 số hiệu 020. Cuộc tấn công đơn độc của thiếu úy Nguyễn Nhân Triển vào Đăk Tô đã đi vào lịch sử, thể hiện tinh thần chiến đấu kiên cường và sẵn sàng hi sinh vì Tổ quốc: “Nguyễn Nhân Triển quyết định không chờ các xe sau đến mà chỉ huy xe lao thẳng vào đội hình địch. Như một con mãnh hổ lao vào giữa đàn sói, xe 377 nhanh chóng bắn cháy 2 xe M41 làm cho quân địch kinh hoàng. Chúng không dồn ép bộ binh nữa mà tổ chức lại đội hình bao vây xe 377 lại và bắn trả liên tiếp. Xe 377 lợi dụng địa hình địa vật đánh trả kiên cường… Sauk hi diệt thêm 5 xe địch nữa thì xe 377 trúng 3 phát đạn và bốc cháy. Ngay cả khi khói đen đã bốc lên từ tháp pháo, các chiến sĩ bộ binh vẫn thấy 1 phát pháo nữa được bắn ra thiêu cháy 1 xe tăng địch… Kết thúc trận đánh, phía Việt Nam Cộng hòa bỏ lại 9 xác xe M41, M24 cháy đen, trong đó xung quanh 377 là 7 chiếc, có chiếc chỉ cách 377 chưa đầy 100 mét”.
Sau trận này, cụm căn cứ Đăk Tô - Tân Cảnh, một căn cứ phòng ngự quy mô lớn đã bị Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam tiêu diệt, từ đó làm chủ một vùng tương đối rộng, ảnh hưởng mạnh đến tinh thần chiến đấu của quân lực kẻ thù tại Kon Tum và Buôn Mê Thuột. Xe tăng trong chiến dịch Xuân - Hè 1972 không chỉ là phương tiện càn quét, che chắn cho bộ binh tiến công, mà đã phần nào đóng vai trò hỏa lực trọng điểm, mở đường cho các cuộc tiến công và chiến thắng liên tục tại chiến trường miền trung và miền nam Việt Nam.
2.3. Chiến dịch Hồ Chí Minh 1975

Kể từ khi Hiệp định Paris có hiệu lực, quân đội Mỹ và các nước đồng minh rút khỏi Việt Nam, chính quyền Sài Gòn đã lộ rõ nhiều điểm yếu trong tư duy đánh trận. Mặc dù vậy, Đảng và Nhà nước vẫn yêu cầu chú trọng, cảnh giác cao độ, không để có sai lầm diễn ra trong công cuộc thống nhất đất nước. Trên tinh thần đó, “Sau 8 lần dự thảo, bản “Kế hoạch tổng tiến công, tổng công kích” ra đời. Bản dự thảo này được trình ra cuộc họp của Bộ Chính trị mở rộng có các tướng lĩnh phụ trách các chiến trường tham dự từ ngày 18/12/1974 đến ngày 08/01/1975 với 3 phương án. Hội nghị đã lựa chọn phương án 1: Tổng tiến công chiến lược. Hướng chủ yếu là Tây Nguyên. Hướng tiến công chủ yếu và nội dậy là miền Đông và Sài Gòn. Đồng thời nhấn mạnh: “Nếu tạo được thời cơ vào đầu năm 1975 thì lập tức giải phóng miền Nam ngay trong 1975”.
Thành công của các chiến dịch Tây Nguyên, Huế - Đà Nẵng và Phan Rang - Xuân Lộc (đều diễn ra năm 1975) đã làm tan rã hệ thống phòng ngự chiến lược của chính quyền Sài Gòn. Với thế chủ động hoàn toàn, Bộ Chính trị quyết định tiến hành Chiến dịch Hồ Chí Minh giải phóng hoàn toàn miền Nam, kết thúc chiến tranh. Địa hình khu vực Sài Gòn - Gia Định là vùng đất thấp, hệ thống giao thông dày đặc với mạng lưới đô thị hóa cao, xen kẽ các khu vực dân cư đông đúc. Điều này vừa đặt ra thuận lợi cho việc cơ động theo các trục lộ chính, vừa tạo ra thách thức lớn trong việc tránh tổn thất dân thường trong tác chiến đô thị. Với đặc điểm đó, việc tổ chức tấn công đồng loạt, nhanh chóng, bất ngờ, đánh thọc sâu các vùng ven, mở đường tiến thẳng vào trung tâm đầu não được xem là giải pháp tối ưu, quyết định. Cụ thể, Bộ Chính trị đặt ra yêu cầu: “Phải hành động “thần tốc, táo bạo, bất ngờ”; phải tiến công ngay lúc địch hoang mang, suy sụp; phải tập trung lực lượng lớn hơn nữa vào những mục tiêu chủ yếu trên từng hướng, trong từng lúc”. Vì vậy, trong chiến dịch Hồ Chí Minh, lực lượng Tăng - Thiết giáp giữ vai trò chủ lực, là mũi nhọn tiến vào trung tâm Sài Gòn, số lượng xe tăng được huy động đông đảo: Hướng tây bắc: Trung đoàn xe tăng 273 với 83 tăng thiết giáp (59 xe tăng, 24 xe thiết giáp); Hướng bắc và đông bắc: Lữ đoàn xe tăng 202 với 67 tăng thiết giáp (35 xe tăng, 29 xe thiết giáp, 3 xe cao xạ tự hành); Hướng đông: Gồm 3 tiểu đoàn của đoàn M26 với 69 xe (61 xe tăng, 7 xe thiết giáp, 1 xe dắt); Hướng đông nam: Lữ đoàn xe tăng 203 với 81 xe (46 xe tăng, 34 xe thiết giáp, 1 xe dắt). Dự bị của chiến dịch có 17 xe tăng. Tổng cộng có 398 xe tăng, xe thiết giáp tham gia Chiến dịch Hồ Chí Minh trên cả năm hướng tiến công.
Chiến dịch lịch sử bắt đầu lúc 17 giờ ngày 26/4/1975 trên cả năm hướng tấn công. Nhiều trận chiến đã kéo dài hàng giờ, chủ yếu giữa xe tăng, xe thiết giáp của Quân Giải phóng và chính quyền Sài Gòn, kết quả thu về toàn thắng cho QĐNDVN. Với lối đánh bài bản, bình tĩnh xử lý, các hướng tiến công liên tục thắng trận, toàn bộ lực lượng tiến về nội thành Sài Gòn. Ngày 28/4, nhận thức rõ cục diện chiến trận, Tổng thống Dương Văn Minh viết bức điện văn số 033TT/VT gửi Đại sứ Mỹ tại Sài Gòn rằng: “Trân trọng yêu cầu ông Đại sứ vui lòng ra chỉ thị cho các nhân viên cơ quan tùy viên quân sự DAO [Defense Attache Office] rời khỏi Việt Nam trong 24 giờ đồng hồ kể từ ngày 29/4/1975 để vấn đề hòa bình Việt Nam sớm được giải quyết”. Sáng ngày 30/4/1975, “Tiểu đoàn 1 xe tăng do Đại đội 4 dẫn đầu, tiếp cận cổng chính Dinh Độc Lập… Chiếc xe tăng mang số hiệu 390 do Chính trị viên Vũ Đăng Toàn chỉ huy lao vào húc đổ cánh cổng chính của Dinh Độc Lập. Đại đội trưởng Nguyễn Quang Thận lái xe tăng 843 vào, được đồng đội yểm trợ và được người trong Dinh dẫn đường, tiến lên tầng thượng, hạ lá cờ ba sọc của chính quyền Sài Gòn, kéo lá cờ Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam lên cột cờ cao nhất của Dinh Độc Lập lúc 11 giờ 30 phút”. Đó chính là thời khắc báo hiệu chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử đã toàn thắng.
3. Đánh giá về hiệu quả của xe tăng trong cuộc Kháng chiến chống Mỹ
Trong cuộc Kháng chiến chống Mỹ, lực lượng Tăng - Tthiết giáp đã chứng minh vai trò hết sức quan trọng trong các chiến dịch quy mô lớn, từ giai đoạn phòng ngự phản công, đánh chiếm tiêu hao cho đến cuộc tổng tiến công cuối cùng. Là binh chủng cơ giới hóa với hỏa lực mạnh, sức cơ động cao và khả năng đột phá tuyến phòng thủ vững chắc, xe tăng đã trở thành lực lượng xung kích trong nhiều đợt tấn công then chốt của Quân Giải phóng. Trên các chiến trường rừng núi, đồng bằng hay đô thị, xe tăng được sử dụng để mở các mũi đột phá, hỗ trợ bộ binh đánh chiếm các mục tiêu quan trọng như căn cứ quân sự, sân bay, lô cốt và đầu mối giao thông chiến lược. Khả năng hiệp đồng chiến đấu giữa xe tăng với pháo binh, công binh và bộ binh ngày càng được QĐNDVN hoàn thiện, tạo nên sức mạnh to lớn, góp phần quyết định đến tốc độ và hiệu quả chiến dịch; đẩy mạnh công cuộc giải phóng miền Nam và thống nhất cho đất nước.
Có thể khẳng định, nhờ có Đảng và Nhà nước đã tranh thủ nhận viện trợ từ các nước Xã hội Chủ nghĩa, tạo điều kiện phát triển tư duy khoa học, sáng tạo trong quá trình xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân hiện đại, hiệu quả chiến đấu của xe tăng đã được khai thác tối ưu. Những năm đầu sau Hiệp định Genève, trong bối cảnh tiềm lực kinh tế còn hạn chế, việc quyết định thành lập một binh chủng cơ giới hóa như xe tăng đã thể hiện tầm nhìn xa và ý chí hiện đại hóa quân đội.
Không chỉ dừng lại ở việc tiếp nhận trang bị công nghệ, QĐNDVN còn chú trọng xây dựng học thuyết sử dụng xe tăng phù hợp với điều kiện địa hình Việt Nam, phát triển các phương thức tác chiến sáng tạo nhằm tận dụng tối đa sức mạnh của binh chủng này. Kết quả tích cực từ nhiều cuộc giao tranh đã phản ánh trình độ tổ chức và chỉ huy ngày càng cao của QĐNDVN, biến xe tăng thành một lực lượng tác chiến chủ lực trong thời đại của tiêm kích, oanh tạc và tên lửa. Chính người Mỹ đã chú ý đến mối đe dọa của lực lượng xe tăng Việt Nam, “nhận ra trong trận chiến Lam Sơn 719 [chiến dịch Đường 9 - Nam Lào theo cách gọi của Mỹ và chính quyền Sài Gòn], xe tăng hạng trung T-54 của QĐNDVN đã đánh bại xe tăng hạng nhẹ M-41 của Quân lực Việt Nam Cộng hòa, MACV đã trang bị cho một tiểu đoàn xe tăng của chính quyền miền Nam Việt Nam những chiếc M-48 nặng hơn của Hoa Kỳ, song kết quả cuộc chiến đã không xoay chuyển theo tính toán của Mỹ.
4. Kết luận
Kể từ khi ra đời, xe tăng luôn là phương tiện chiến đấu chủ lực trong các lực lượng cơ động đột kích trên chiến trường mặt đất, là phương tiện cơ bản tạo nên hình thái cơ giới hóa chiến tranh. Vũ khí này tích hợp khả năng cơ động, phòng thủ và hỏa lực lớn, vừa góp phần phá vỡ các tuyến phòng ngự vững chắc của địch, vừa hỗ trợ hiệu quả cho lục quân trong các cuộc tiến công then chốt trên nhiều địa hình. Thành công trong việc đưa xe tăng vào Kháng chiến chống Mỹ không chỉ là kết quả của việc tiếp nhận và làm chủ công nghệ quân sự, mà còn là minh chứng cho tư duy chiến lược linh hoạt, sáng tạo và thực tiễn của Quân đội Nhân dân Việt Nam.
Có thể nói rằng, xe tăng tại Việt Nam tạo nên sự bất ngờ khi đã hoạt động tương đối tốt trong điều kiện địa hình phức tạp. Hơn thế nữa, trước đế quốc Mỹ vượt trội về khoa học kĩ thuật và tiềm lực kinh tế, Quân đội Nhân dân Việt Nam vẫn có thể giành lấy chiến thắng bằng cách hiệp đồng xe tăng và các binh chủng cơ bản khác một cách linh hoạt. Với những đóng góp ấy, lực lượng xe tăng đã khẳng định vị thế là một binh chủng hiện đại, biểu tượng của sức mạnh quân sự quốc gia.
Tài liệu tham khảo
1. Bộ Quốc phòng (1994), Lịch sử quân đội nhân dân Việt Nam, tập II, Nxb. Quân đội nhân dân.
2. Bộ Quốc phòng (2004), Từ điển Bách khoa Quân sự Việt Nam, Nxb. Quân đội nhân dân.
3. Bộ Quốc phòng (2013), Lịch sử Kháng chiến chống Mỹ cứu nước (1954 - 1975), Tập VIII: Toàn thắng, Nxb. Chính trị Quốc gia.
4. Nhiều tác giả tổng hợp (2011), Hồ Chí Minh: Toàn tập, tập 12: 7-1957 - 12-1958, Nxb. Chính trị Quốc gia Sự thật.
5. Nguyễn Khắc Nguyệt (2024), Xe tăng trong chiến tranh ở Việt Nam: Lịch sử nhìn từ tháp pháo, Nxb. Trẻ.
6. Nguyễn Văn Quyền (2022), Việt Nam tranh thủ nguồn viện trợ của các nước xã hội chủ nghĩa trong cuộc khánh chiến chống Mỹ, cứu nước (1954 - 1975), Nxb. Chính trị Quốc gia Sự thật.
7. Phillip B. Davidson (1998), Vietnam at War: The History, 1946-1975, Presidio Press.

Khoa học - Công nghệ
/khoa-hoc-cong-nghe
Bài viết nổi bật khác
- Hot nhất
- Mới nhất
