Vài điều suy ngẫm về "Người không mang họ" (Phần 2)
Sự giải toả của một cái tôi mặc cảm- khoái lạc của sự huỷ diệt ...
Sự giải toả của một cái tôi mặc cảm- khoái lạc của sự huỷ diệt
Trong tác phẩm “Nhật ký dưới hầm” của nhà văn Dostoiepsky, nhân vật tôi đã ngấm ngầm tìm kiếm niềm vui phi lý trong nỗi đau khổ của chính mình: “Tôi cảm thấy một loại khoái cảm bí mật, bất thường, đáng khinh khi, khi trở về nhà vào một trong những đêm tồi tệ nhất ở Petersburg, tôi thường nhận ra một cách sâu sắc rằng một lần
nữa tôi đã phạm phải một hành động đê hèn nào đó vào ngày hôm đó… và bên trong, một cách bí mật, tôi thường tiếp tục cằn nhằn bản thân, lo lắng về bản thân, tự buộc tội mình, cho đến khi cuối cùng sự cay đắng mà tôi cảm thấy đã biến thành một loại ngọt ngào đáng xấu hổ, đáng nguyền rủa, và cuối cùng, thành niềm vui tích cực thực sự! Vâng, thành niềm vui! … Cảm giác vui sướng ở đó chỉ vì tôi nhận thức sâu sắc về sự suy thoái của chính mình .” Khi người ta ngỡ như mình đã vứt bỏ quyền tự do lựa chọn thì trách nhiệm của mỗi sự lựa chọn vẫn chẳng thuộc về ai khác. Có khi lao vào những nỗi đau, lựa chọn những điều gây hại cho chính mình lại khiến cho người ta có được một sự khoan khoái ngắn ngủi khi nhận ra rằng mình còn có quyền quyết định, mình còn được sống. Dù biết rằng điều mình sẽ làm là sai trái, nhưng ý chí thiện lương không thể kháng cự lại sức mạnh của một khao khát man dại: để xem cuộc đời ta sẽ rơi xuống và vỡ tan tành ra
sao. Đó là sự trả thù cay độc với chính mình.
Những hành động của Lãm sau khi anh chọn cho mình cái tên Trương Sỏi lại càng độc ác, táo tợn hơn và càng nhanh chóng đẩy bản thân anh rơi xuống vực thẳm huỷ diệt. Anh lao vào những cuộc rượu choáng váng và hả hê: “Uống nào! Đệ nhị nào! Hảo hớn nào! Râu mép dài nào!... Sợ đếch gì mà không uống?”. Anh điên cuồng thực hiện
những kế hoạch tội ác dù biết rằng như thế là nhục nhã và bất lương biết bao nhiêu! Tiếng nói phản kháng của phần người bên trong anh có lúc đã yếu ớt vang lên: “Hại một con người như thế có quá ác chăng?” nhưng rồi ý nghĩ ấy liền bị thổi bạt đi. Khi không còn hy vọng vào sự cứu rỗi, anh thả trôi mình trong sự sa đoạ để nhận ra thứ quyền lực mình có được là chọn lấy sự đoạ đày tận cùng. Giờ đây anh chỉ là hòn sỏi, cần gì phải quan tâm nữa!
Cái tôi bị đè nén trong mặc cảm bấy lâu của Sỏi bỗng được đắm chìm trong sự vỗ về, tâng bốc, được thoả mãn bởi thứ quyền lực hư hoại và giả tạo. Trước lô lốc những lời lẽ nịnh hót của đám trẻ bụi đời, anh vừa thấy ghê tởm vừa thấy kiêu hãnh: “Giả tạo quá! Tởm lợm quá! Nhưng cũng hay hay. Đôi khi con người ta sống được nhờ chút thoả mãn với sự giả tạo của xung quanh.” Lần đầu tiên, việc cầm đầu một băng đảng trộm cắp đã cho Sỏi cảm giác được thuộc về một cộng đồng. Nhưng họ
cũng chính là tập hợp những kẻ bất lương từng gây ra nỗi bất hạnh và kinh sợ cho ông Cống, cho chính bản thân anh mà anh không có khả năng kháng cự. Khi xướng lên cái tên Trương Sỏi- Đệ nhị mãi võ uy danh lẫy lừng trước những tên cướp hung hăng và khiến chúng phải run sợ, quỳ rạp và tuân phục mình bằng sự đe doạ sức mạnh bạo lực, có lẽ cái tôi của Sỏi đã ngập tràn sự thoả mãn khoái trá. Chất men của quyền lực tiếp tục cám dỗ và thôi thúc anh để rồi bằng một ý chí điên dại, bằng sự man rợ thú vật, Sỏi đã giành lấy địa vị cầm đầu của một băng cướp.
Cái tôi của Sỏi không chỉ chứng thực sự tồn tại bằng cách chuốc lấy sự đoạ đày, củng cố lòng kiêu hãnh bằng cách đắm chìm vào quyền lực và danh vọng, mà còn duy trì sự uy dũng của mình bằng cách dùng vũ lực để thực hiện cái ác. Cái tôi được định nghĩa bằng sức mạnh của bạo lực, phá huỷ và giết chóc. Khi biết Lãm gia nhập gánh thuốc Sơn Nam mãi võ, Khánh Hoà đã lo lắng rằng anh sẽ dụng võ vào vào việc
bất lương. Quyền lực, sức mạnh và tội ác dường như chỉ cách nhau gang tấc. Sỏi đã dùng vũ lực để thu phục băng đảng “Hận đời”, không ngại ngần đánh đấm người khác đến đổ máu, sẵn sàng đạp lên xác của người khác để bước lên, nhổ toẹt nước bọt lên một thanh niên đau đớn nằm dưới đất để thị uy. Khi người ta đã chứng kiến được uy lực của sức mạnh mà mình có, chẳng dễ gì để từ bỏ nó. Tội lỗi này kéo
theo tội lỗi khác xảy ra, Sỏi đã dùng đến cách thức táng tận lương tâm nhất là dìm chết đứa con trai duy nhất của thiếu tá Toại để uy hiếp và buộc cảnh sát ngừng truy nã mình. Băng cướp Mũ đen ở Đông Hà tan tác sau giải phóng, sống trong cảnh túng bấn, Sỏi lại mang ngón nghề võ ra để trấn lột tiền của những kẻ trấn lột. Khi xuất hiện ở thành Vinh với cái tên Thái Lưỡng, anh lại dùng nắm đấm để thu phục băng cướp “Ngũ hổ”… Những thế võ anh được học từ Sơn Nam và Kiều Loan, những thế võ từng không giúp anh thoát khỏi sự thất bại ê chề tất yếu trong trận đánh với Sơn Nam, những thế võ đưa anh đến kết cục bị bỏ rơi một cách thảm hại giờ đây lại được anh tung ra như một thứ sức mạnh hoành tráng, lộng lẫy, thứ sức mạnh tấn phong anh lên vị trí “đại ca”. Sử dụng bạo lực để đánh bại kẻ khác dường như cũng chính là cách anh ngấm ngầm trả thù cho thất bại năm xưa. Một sự trả
thù phi lý nhưng đủ khiến cho cái tôi từng co cụm trong tự ti và tổn thương của anh nay được thoả sức tung hoành. Chính trong sự huỷ diệt, Sỏi lại tìm thấy những khoái lạc tủn mủn, méo mó, lay lắt cố gắng khoả lấp cho quá khứ mênh mông mà anh đã bỏ lại sau lưng, một tuổi thơ hiền hoà mà anh đã đánh mất…
Tận cùng của hành trình huỷ diệt và tự huỷ diệt của Sỏi là khi hắn không còn thiết chỉ huy ai, không cần ai cung phụng nữa, mọi khoái lạc buổi ban đầu đã ráo cạn đi, chỉ còn lại lớp cặn của nỗi chán nản, sự vô nghĩa và ý niệm về cái chết. Người ta đâu biết rằng một Đệ nhị mãi võ oai dũng bề ngoài lại là kẻ đã sụp đổ bên trong, yếu đuối trước chính mình. Sỏi ngập mình trên bàn đèn thuốc phiện, tối đến
lại lững thững ra đường như một cái bóng vô danh. Trong những cơn say thuốc, hắn muốn mửa nhưng chẳng còn gì để mửa, kể cả nỗi buồn. “Đầu hắn trống rỗng một cách kỳ lạ... Không còn cả hằn học và căm giận, giờ đây hắn sống như một kẻ mất trí. Cuộc sống tàn tạ và mang dấu hiệu tắt thở. Hắn không dằn vặt trước ngày giờ, không bận tâm vì tội lỗi. Hắn chỉ còn đủ sự tỉnh táo để giấu bặt lai lịch và trốn khỏi ánh sáng…”. Dường như hắn muốn phủi sạch quá khứ, chặt đứt hết những sợi dây mong manh nối bản thân với cuộc đời.

Một phần bức tranh "At Eternity’s Gate" của Vincent van Gogh
Những vết chàm của tội ác- không ai có thể trốn chạy quá khứ của chính mình
Lời nói dối đầu tiên của Lạng trên hành trình lưu lạc là để che đậy tội lỗi mà bản thân anh đã gây ra với Mẫn trước người mẹ của bạn. Thế mà người mẹ ấy lại cưu mang anh, cho anh cái họ Nguyễn Viết của con trai bà, đặt tên cho anh là Lãm. Món nợ ấy không biết bao giờ anh mới trả đủ. Không có sự trừng phạt nào nặng nề bằng bản án của lương tâm. Trước bàn thờ của Mẫn, “Lạng ngồi khuất vào một góc, đầu
cúi thấp như một kẻ sắp bị đưa đi hành hình. Tiếng khóc nấc nghẹn chen lẫn lời khấn vái của người mẹ như nạo vét vào đáy lòng anh. Tội ác đang tê buốt trong từng thớ thịt…”.
Nhưng sau này, khi càng đi sâu vào con đường phạm tội, cái cảm giác tê buốt buổi ban đầu của anh trước sự phán xử của lương tâm càng nhạt nhoà đi. Mỗi ngày anh càng trơ lì ra, càng ít rung động. Tất cả những kí ức tội lỗi cứ chồng chéo lên nhau, hỗn độn và nháo nhác. Anh sống như chìm trong đêm dài chồng chất ác mộng của bệnh tâm thần. Nhưng khi sực nhớ lại sự hiện diện của ánh mặt trời, của sự
bình yên và hạnh phúc mà quay đầu lại, Sỏi mới bàng hoàng nhận thấy những dấu vết tội ác mình đã để lại. Chính anh đã đào những hố thẳm, phá huỷ những chiếc cầu bắc về bờ lương thiện. Trong một buổi sáng năm 1976, khi nôn nao rảo bước đến nhà Khánh Hoà, lòng anh ngập tràn hy vọng và khao khát yêu thương. Anh đã biết được phần nào tình cảm mà Hoà dành cho mình. Có thể anh sẽ thổ lộ tình cảm. Có
thể anh sẽ cùng Hoà nói đến chuyện gia đình… Anh ngỡ ngàng nhận ra mình có quyền hạnh phúc. Có lẽ một hòn sỏi cũng có quyền hạnh phúc… Nhưng rồi từng chứng tích của tội ác hắn gây ra bỗng hiện lên rõ mồn một, đào xới lên những mảnh kí ức bất lương thê thảm mà hắn từng giấu giếm chính mình. Đây là góc phố anh đã lao vào cướp xe máy của một cậu thanh niên rồi lao đầu chạy đi, mặc kệ nạn nhân sống chết ra sao. Đấy là ngôi nhà hai tầng chứng kiến lần đầu tiên anh lao vào tội ác. Kia là đoạn đường anh đã điên dại xô một người đàn bà xuống mà trấn lột, mặc người ta đau khổ van xin… Càng tìm đường trở về, Sỏi càng thấy bất lực khi không thể chen chân qua những bụi gai tàn độc anh đã tự tay trồng. Nỗi tuyệt vọng trào dâng, cuốn phăng những ước ao, hy vọng. Những vết chàm tội ác hằn trên gương mặt anh ở hiện tại đã khiến anh không dám đối diện với người khác một
cách thật thà, thản nhiên và cũng không dám đối diện với chính mình. Anh chỉ còn biết sỉ vả mình: “Tổ cha cái năm tháng ấy!”.
Những tháng ngày lẩn trốn ở nhà Phan, một cô gái mà Sỏi đã giúp đỡ ở bến xe Đô Lương, anh lại trỗi lên một mong ước xa xôi: được gắn bó với gia đình này suốt đời. Một mái nhà ấm cúng và những con người yêu thương mình đã là ước mơ của cậu bé Lạng những ngày còn sống trong nhà địa chủ họ Hoàng và vẫn là ước mơ của một tướng
cướp Trương Sỏi thất trận trước cuộc đời. Nhưng càng ngày, khả năng anh chạm tới được hiện thực ấy càng mong manh và rồi bất khả. Dù anh có tiếp tục lừa dối, chối bỏ quá khứ và cố gắng sống cuộc đời khác, anh vẫn không bao giờ có thể yên ổn khi đã gây ra quá nhiều tội ác. Rảo bước trong khu rừng gần nhà Phan, Sỏi lại thầm ước: “Giá như biến được thành con chim hay thành một phiến đá, xa lánh hẳn
con người mà nhập vào cái màu xanh hun hút kia thì hạnh phúc biết bao!”. Nhưng anh không thể trốn tránh sự thật rằng bản thân đang bị truy nã. Những tiếng kêu la, tiếng súng nổ lại gọi dậy trong anh kí ức về chuỗi tháng ngày sống trong sợ hãi, bản năng trốn chạy mạnh mẽ lại được kích hoạt. Nhưng còn nơi nào để anh lẩn trốn? Anh có thể trốn khỏi họ tên mình, trốn khỏi xã hội nhưng đâu thể trốn khỏi
sự sống mà anh đang cố gắng nắm giữ.
Liệu con người có thực sự cần họ tên để sống?
Gặp lại Kim Chi giữa rừng đêm tăm tối và lạnh lẽo, Sỏi bỗng khao khát được giãi bày tâm sự về cuộc đời mình. Trước một người “đồng đội” đáng tin, một “đàn em” trung thành, một người tình dai dẳng, anh kể tỉ mỉ không sót một chi tiết nào. “Nó kể như một sự sám hối. Hoá ra nó vẫn chưa hề quên một sự việc nào mặc dù từ lâu nó vẫn cố tình nhấn chìm mọi quá khứ.” Lắng nghe câu chuyện của anh và vui mừng khi biết anh nhẹ lòng, Kim Chi bỗng thốt lên những lời vừa thô như đất cục, vừa chân tình, ấm áp lại triết lý sâu xa, xin được trích nguyên vẹn:
“Tốt lắm! Đại ca thấy không, bấy lâu nay sai lầm lớn nhất của đại ca là cố tình bưng bít quá khứ. Làm như vậy có lợi chi? Chẳng ích lợi mẹ gì hết. Đại ca đã tự lựa chọn cho mình một con đường thì cứ thế mà đi, dù có muốn quay lui cũng chẳng được nữa. Quá khứ là cái đếch gì? Chẳng là gì sất! Nó chỉ là cái bao tải trĩu nặng sau đít người ta khiến không ai cất mình lên được. Cái tồn tại hiện hữu là cái có trước. Còn nữa là phi lý tất. Ai đẻ ra mình, mình có lựa chọn được đâu. Xã hội nào nuôi dưỡng mình, mình cũng không chọn lựa được. Vậy thì việc chó gì mà mang sầu đeo cảm? Như đại ca chẳng hạn, từ họ Hoàng, họ Nguyễn đến họ Trương, họ Thái, tất cả đều là ngẫu nhiên. Nhưng đại ca có chết đâu. Thế thì họ đếch gì mà chẳng được, không còn họ cũng chẳng sao. Đời này là thế đấy!”.
Suốt đời Lạng, nỗi đau của sự lạc loài, vô danh tính luôn là nỗi ám ảnh. Từ ngày thị trấn Đông Hà, Quảng Trị được giải phóng, quan hệ nam- bắc càng nhích lại gần, anh lại càng thấy thấm thỏm lo âu về cái ngày anh sẽ trở nên trơ trọi, lẻ loi giữa cuộc đời. Anh thèm khát một mái ấm gia đình, một chốn nương thân, nhưng khốn thay, “không có một căn nhà nào, một cặp vợ chồng nào lập ra mà không cần đến một
gốc gác.” Nhớ lại những cái tên xa xưa- Hoàng Lạng, Ngô Sỹ Lạng, Nguyễn Viết Lãm rồi Trương Sỏi, mỗi cái tên là cột mốc của một biến cố, là một vết đau hằn lên cuộc đời, anh ao ước được sống ngoài tên họ, ngoài gia phả, ngoài những điều kiện sinh tồn của xã hội, ngoài mọi sự định danh… nhưng điều đó dường như là không thể. Khi đã sống trong một xã hội người, anh phải chấp nhận từ bỏ một phần
tự do cá nhân để tham gia vào một “khế ước xã hội” và chịu sự quản chế của pháp lý. Những kẽ hở trong pháp luật và quản lý xã hội sẽ chính là nơi bóng tối ẩn nấp và sinh sôi- “hung hiểm, tàn bạo và ngắn ngủi” là viễn cảnh mà Thomas Hobbes nhìn thấy ở một thế giới vô trật tự. Họ tên không chỉ thuộc về một cá nhân mà còn mang theo đó ký ức của dòng tộc, lịch sử gia đình và quan trọng nhất là một chức năng xã hội.
Những cái cây, những chú chim, những dòng sông vốn không cần được đặt tên. Chỉ có ở xã hội loài người, bi kịch “người không mang họ” mới xuất hiện và đeo đẳng người ta suốt cuộc đời. “Không có con người thì sống dễ lắm!”, nhân vật ông giáo Chi trong một truyện ngắn của Nguyễn Huy Thiệp đã thốt lên một cách chua chát như thế về cuộc đời. Nếu sự tồn tại của anh là có thật thì dẫu không có họ tên, anh vẫn tồn tại. Cái tên không phải là “bản lai diện mục” của ta, không tạo ra sự tồn tại của ta. “Cái tồn tại là cái có trước”, ngay từ đầu, mỗi con người chỉ đơn giản là hiện diện trên cuộc đời này, vì những điều kiện cần có đã tập hợp, vì mỗi người đều có một ý nghĩa nào đó để được sinh ra. Bản thân sự hiện diện trần trụi đã có ý nghĩa. Cái tên, sự định danh, vai trò xã hội đều là sự sắp đặt từ bên ngoài, là những cái đến sau, không thể nói lên toàn vẹn và không mang tính quyết định với cái tồn tại ban đầu. Vậy nên, tất cả những thiết chế xã hội, hệ thống giáo lý, học thuyết khoa học,… nếu không thừa nhận cái hiện hữu là gốc thì đều là phi lý theo nghĩa hiện sinh. Một con người vẫn sống dù không có tên gọi, không được thừa nhận. Anh ở hiện tại là sự tiếp nối của những cái tên, những hình ảnh về con người anh trong quá khứ, không là con người khác, cũng không còn là chính anh, nhưng anh vẫn sống.
Vậy thì ta có nhất thiết phải trả lời câu hỏi: “Ta là ai? Ta từ đâu đến?” hay không? Ta chẳng là một cái gì cố định. Ta chẳng từ đâu đến cả. Ta đang hiện diện và vẫn luôn hiện diện, chỉ đơn giản như vậy thôi. “Tôi vui chơi giữa đời ới a biết đâu nguồn cội…”, đó là một tâm thế sống của một con người có đôi mắt thiền. Nhưng điều khiến một con người chênh vênh và sa vào tội ác không phải vì anh ta không trả lời được câu hỏi về bản thể, về cố hương mà là bởi anh đã khước từ và bị khước từ trước một chữ “thương.” Chí Phèo có cần biết “đứa chết mẹ nào đã đẻ ra hắn” mới cảm nhận được hạnh phúc khi ăn bát cháo hành của Thị Nở đâu. Lạng có quan tâm quê hương mình là bắc hay nam, cuộc đời mình sẽ ra sao mỗi lần thay tên đổi họ đâu, anh chỉ trằn trọc mãi giấc mơ về một mái ấm bình yên, một vòng tay có thể vỗ về quá khứ của anh, nâng niu sự hiện diện của anh và chấp nhận anh như một thằng người…
Chính Sỏi là một sự hiện diện xuyên suốt trong trí nhớ và tình yêu của Kim Chi. Nếu Khánh Hoà chỉ yêu một con người Nguyễn Viết Lãm cần cù, lương thiện- một hình ảnh lý tưởng, thì Kim Chi lại chấp nhận tất cả của anh, từ đầu đến cuối, không bám víu vào những cái tên mà chỉ chú tâm vào sự hiện diện có thực của anh, dù hiền lành hay tàn bạo, dù uy dũng hay yếu đuối. Dường như chỉ có Kim Chi mới thực sự yêu Lạng như yêu thương một con người.

Một phần của bức tranh “La Madeleine repentante” - Georges de La Tour
Tính người là ngọn đèn chợt sáng chợt tắt
Tôi không đồng tình với nhận định của thượng uý Lê Hoài Nam về cuộc đời tướng cướp Trương Sỏi: “trước khi làm một con quỷ hoành hành trong bóng tối, Nguyễn Viết Lãm đã có một quãng làm Người.” Chữ “người” viết hoa như một dụng ý của tác giả khi đặt những suy nghĩ của mình vào lời nhân vật. Thế nhưng đâu phải Sỏi đã từng làm người và rồi lột xác làm quỷ. Từ đầu đến cuối câu chuyện, anh vẫn cứ là “người” đấy thôi. Một con người được định nghĩa ở tận cùng của sự tuyệt vọng.
Không một con người nào có quyền tước đi danh phận làm người của kẻ khác. Những người nhân danh luật pháp và công lý để giết chết kẻ khác có đang làm người lương thiện? Sự trả thù bằng máu liệu có đủ khoả lấp những đau thương, liệu có chấm dứt những tội lỗi trên thế gian? Vậy thì việc cáo buộc một con người là quỷ dữ có ích lợi gì ngoài việc đánh bóng con người của chính ta, rằng ta là người lương thiện,
ta là công lý để rồi thiết lập trật tự của sự đối nghịch và sự hận thù dai dẳng? Bằng việc đẩy một người khác vào sự trừng phạt và lưu đày vĩnh viễn ra ngoài xã hội, ta yên tâm rằng mình vẫn đang thuộc về xã hội. Quỷ dữ là một hình ảnh của sự tưởng tượng do con người tạo ra. Anh có ý niệm về quỷ dữ tức là đang có mầm mống của quỷ dữ bên trong mình, nếu không, làm sao anh có thể hình dung ra nó? Với hình ảnh về Thượng đế cũng như vậy.
Không chịu mang trên mình cái ách của tội lỗi vô lý và sự bài trừ của xã hội, cậu bé Lạng đã phải phá cũi, sổ lồng vượt tuyến. Lạng đã luôn cúi đầu chịu tội với chính mình từ khi gây ra cái chết cho anh Mẫn. Vì cái đói cùng cực, Lãm phải đi gánh thuê, lòng tự trọng và sĩ diện không cứu anh ra khỏi cái đói nên dần dần anh cứ xông vào gánh hàng, cứ đòi tiền, dẫu người ta có xua đuổi cũng phải bâu vào. Tiếng sáo và lời ca “chiếc khăn piêu thêu chỉ hồng” cứ vương vất mãi trong trí nhớ anh. Thuở Lãm vừa gia nhập Sơn Nam mãi võ, khi bị cảnh sát Đông Hà bắt vì lầm tưởng là kẻ trộm cướp, dù không có lỗi, anh vẫn cúi đầu nhục nhã khi thấy mình như tên tội phạm đang đến ngưỡng cửa ngục tù. Tiếng chửi đổ dồn không chút dung thứ của người dân với anh còn đau đớn hơn bất kì đòn đánh nào. Lãm đã một mình chịu đựng cơn đau bỏng rát, ê chề khi tự nguyện làm vật thí nghiệm cho “thuốc thần” của Sơn Nam, nhằm tận dụng lòng thương hại và sự tham lam của con
người để bán thuốc. Lãm đã không bò dưới chân “băng chủ” mà quỳ lạy như người ta xúi giục mà dám đứng dậy chấp nhận lời thách đấu của Sơn Nam khi anh bị đem ra trừng phạt vì tội dan díu với Kiều Loan. Những lần Lãm vật lộn với cuộc đời để giữ cho mình sự lương thiện, sự kiêu hãnh của một tư cách làm người, có ai thấu hiểu chăng?
Trong những năm tháng bị người ta xem là quỷ dữ, Sỏi vẫn níu giữ mãi ước mơ hạnh phúc, nỗi thèm khát một mái ấm chỉ tan đi chứ không mất hẳn. Khi thoáng nghĩ về tình cảm của Khánh Hoà dành cho mình, “cái phản xạ căm uất lúc ban đầu tan biến đâu mất, nhường chỗ cho cơn say đến ngột ngạt. Chao ôi là hạnh phúc! Lẽ nào lại thế?
Có thật là thế không?...”. Anh ngỡ ngàng và hoài nghi khi biết rằng mình được yêu thương nhưng cũng không chối bỏ thực tại ấy. Đó không phải là khát khao của một “thằng người” hay sao? Khi Sỏi nghĩ rằng tương lai mình chỉ còn bóng tối và tuyệt vọng, rằng không thể tiếp tục một cuộc sống nhục nhã và bất lương nữa, anh đã cố tìm đến cái chết. Nhưng anh không chấp nhận được một cái chết mà quá
khứ vẫn bám theo, một cái chết để người đời hả hê kết tội: “Ồ, tên Đệ nhị mãi võ đã chết rồi!... Đáng đời lắm, đáng kiếp lắm!”. “Chao, thế mới biết chết cũng khó lắm thay!”. Đến cả sự thương cảm cho cái chết của mình anh cũng phải mơ ước, phải cầu xin; một sự mủi lòng tối thiểu trước cái chết của đồng loại mà anh vẫn không tin rằng mình có thể có được. Anh muốn chết với sự trong sạch, với tư cách một con người. Nhưng có ai còn coi anh là người không? Giây phút Trương Sỏi
gặp lại Khánh Hoà với tư cách thù địch, một bên là kẻ bị truy bắt, một bên là kẻ truy bắt, những kí ức về mái nhà lợp nứa, về cô gái hàng sắt với cái nhìn chan chứa yêu thương lại ùa về trong tâm trí anh. Hai khẩu súng trên tay anh hướng về phía Hoà nhưng không bắn trúng cô một phát đạn nào. Đó là sự chống cự của một con quỷ dữ sao? Trước khi bị bắt, Sỏi và Kim Chi đã bảo vệ cho nhau và cùng nhau trốn chạy. Kim Chi đã thắp lên trong anh một niềm hy vọng, rằng còn tiến về
phía trước thì còn có khả năng để sống. Nhưng cô đã gục xuống trước anh. Lẽ ra anh đã có thể bỏ mặc Kim Chi mà thoát thân, nhưng khi cô chết, nhuệ khí trong anh đã cạn sạch, tia hy vọng cuối cùng của anh đã vụt tắt… Sỏi và Kim Chi tựa như đôi tình nhân đã chạy trốn từ nguyên thuỷ. Như chim chắp cánh, cây liền cành. Dù cả thế giới có nả súng chống đối, hai con người ấy vẫn sẵn sàng nắm tay nhau, cùng nhau đấu tranh cho niềm khát sống, cho một lý tưởng dù méo mó, lệch
lạc nhưng có thực và là điểm tựa cuối cùng của nhau… Lấy cớ gì để anh tước bỏ tư cách làm người của một con người?
Tính người giống như một ngọn nến, nó không xuất hiện và rồi vì một biến cố nào đó mà mất hẳn đi. Chừng nào ngọn bấc còn trên cây nến của sự sống thì tính người vẫn còn đó. Ngọn lửa có thể bị thổi tắt, bởi sự túng bấn, hận thù, cô độc… nhưng nó chưa bao giờ ngừng hiện diện. Ngọn lửa ấy cần một nguồn nhiệt của tình thương để thắp lên, đó là điều kiện duy nhất để nó được biểu hiện thành một thứ ánh sáng
mới, một hơi ấm mới trong cuộc đời. Nhìn lại cuộc đời của tướng cướp Trương Sỏi, ta tiếc nuối cho những lần ngọn lửa ấy được thắp lên rồi lại bị thổi tắt, ta đau xót cho những lần anh cố níu lấy hy vọng vào tình thương, vào cơ hội được sống nhưng rồi những gì anh nhận được chỉ là sự sợ hãi, căm phẫn và thù ghét. Một nhà văn nào đó từng viết, con người luôn đáng thương hơn là đáng trách, luôn cần sự yêu thương hơn là oán giận. Ngọn lửa vẫn luôn hiện diện ở đâu đó và chỉ cần
có đủ điều kiện, nó sẽ sáng lên, rực rỡ, ấm áp…
Những lời lẽ “Don Quixote” là giấc mộng nghĩa hiệp, màn kịch giữa cuộc đời thực hay sự hoa mỹ của cái ác?
Nhân vật Don Quixote trong tiểu thuyết cùng tên của nhà văn Cervantes dường như đã trở thành một biểu tượng về kiểu con người bị mắc kẹt trong những ảo tưởng về quá khứ, con người nhân ái, nghĩa hiệp và nhiều ước mơ nhưng rốt cuộc lại trở thành một trò cười của thiên hạ vì không phân biệt được đâu là lý tưởng và thực tại… Trong tác phẩm, Don Quixote sử dụng những từ ngữ đậm chất hiệp sĩ, hoa mỹ, cổ xưa và nhiều khi sáo rỗng, chính cái tên của vị hiệp sĩ lỡ thời này cũng là một minh chứng. Ngôn ngữ đóng khung con người trong phạm vi của nó. Ngôn ngữ là sự ảo tưởng và nỗi tuyệt vọng của con người về một thời đã mất. Ngôn ngữ có khi lại là tấm màn che đậy cho cái ác.
Trong “Người không mang họ”, những tên cướp trong các băng đảng đối thoại với nhau bằng những lời lẽ kì quái, tối cổ, bắt chước lối nói của các giang hồ trong sách chưởng: “Thưa đại ca”, “Hiền đệ cứ thẳng thắn”, “Nhị vị hổ tướng hãy nói giúp chủ soái vài lời”, “Ngũ hổ”, “Kim công nương”, “hảo hán”... Những lá thư mà đảng “Đào lưu” gửi đảng “Hận đời” cũng đầy rẫy những lời lẽ hoa mỹ: “Tự nghĩ, có mặt trời
cũng phải có mặt trăng, có đại thụ cũng cần có lau sậy, chẳng lẽ đại ca nỡ sống một mình? Thế nên cúi xin đại ca mở rộng cửa cho kẻ nhỏ mọn này được tiếp kiến…”. Nhưng hàm nghĩa của bức thư lại dẫn đến một trận đánh hỗn loạn. Những từ ngữ cổ kính khi đã hoàn tất nhiệm vụ phô diễn của nó liền bị thay thế bởi những câu chửi tục nhất, những cử chỉ đểu cáng nhất. Từ ngữ tạo nên chiếc mặt nạ để người ta
tha hồ đóng vai. Những gì trong thực tại ta không có được thì đành tìm kiếm trong sự ảo tưởng, thực là đơn giản! Nếu như Trương Sỏi không có tư cách làm người, không được sống trong ánh sáng thì anh sẽ làm một “Đại ca”, một “Đệ nhị mãi võ” người người kính sợ!
Những từ ngữ tương tự cũng được gánh thuốc Sơn Nam mãi võ sử dụng. Nào là “băng chủ”, “Kiều tiểu muội”, nào là những “đệ nhị”, “đệ tứ”, “đệ tam” rủng roảng. Nhưng mục đích cuối cùng của cả thầy và trò là bán thuốc cổ truyền. Sau những màn trình diễn hoành tráng, những hộp thuốc được bày ra, những lời quảng cáo lập tức được
thốt ra để tâng bốc, tô vẽ cho sản phẩm hòng lôi kéo khách hàng. Nếu không có đồng tiền thì cũng chẳng còn “Sơn Nam mãi võ” nữa. Uy danh của Sơn Nam chẳng thể che giấu được quá khứ bị một tên nhỏ con đánh bại, không thể phủ nhận được bản thân hắn là một phiên bản phái sinh của cha mình mà thôi. Khi biết được việc “Nguyễn
Đệ nhị” dan díu với vợ mình, Sơn Nam tổ chức một buổi “đại hội” và tuyên bố rằng hắn sẽ không trả thù, vì nghĩa lớn trả thù mới là hảo hán. Nhưng ngay sau đó hắn lại thực hiện cách trả thù tàn nhẫn nhất: dùng sức mạnh đánh bại Lãm và rồi bỏ rơi anh. Đó là một thất bại thê thảm. Hoá ra cách trả thù của một vị “hảo hán” là không chỉ đánh cho kẻ thù tan nát về thân xác mà còn làm hắn sụp đổ về tinh thần, danh dự, lòng tự tôn của một con người! Sơn Nam là kẻ không phân biệt được đâu là lý tưởng, đâu là đạo đức hay chỉ là một con người tầm thường thêu dệt nên sự cao cả của chính mình?
Lớp từ ngữ ấy tạo nên một màn kịch giữa đời thực, một màn kịch lộ liễu đến thảm hại, nực cười và cũng vô cùng nghiệt ngã, tàn ác- bởi nó kéo con người ta vào những lý tưởng méo mó, không thực để rồi lảng tránh, đối đầu với phần còn lại của cuộc đời. Sự nghiệp vĩ đại mà Kim Chi khuyên Sỏi không nên từ bỏ hoá ra chỉ là một màn kịch, một sự ảo tưởng. Danh vọng và quyền lực mà Sỏi có được khi nắm địa vị tướng cướp cũng chỉ là thứ giả dối. Vậy mà anh lại đặt cược đời mình vào những điều giả dối ấy thay vì lao động thực thụ để rồi cuối cùng chẳng còn đường để thoái lui…
Cuộc đời tướng cướp Trương Hiền đã khép lại từ rất lâu, nhưng câu chuyện về một “Người không mang họ” còn sống mãi, đầy day dứt và xót xa trong lòng mỗi người đọc. Ta không được biết về tâm trạng, suy nghĩ của Trương Sỏi khi bị bắt và chờ ngày hành hình- Liệu anh có nhìn lại đời mình một lần nữa mà xót xa rồi cười ngất ngưởng? Liệu anh có còn trăn trở, nghĩ suy hay linh hồn trong anh đã chết cùng
với tia hy vọng cuối cùng? Đó là khoảng trống mà mỗi người đọc có thể nghĩ thêm, nghĩ mãi. Nhưng cái nghĩ khẩn thiết nhất có lẽ là về cách ta lựa chọn giữa thiện và ác trong cuộc đời, cách ta đối diện với thực tại, với tội lỗi của chính mình và cách ta đối xử với những người khác. Ta không thể chạy trốn khỏi con người hay chạy trốn trách nhiệm sống của mình, vậy thì cứ “cố yêu người mà sống, lâu rồi đời mình cũng qua…”.

Sách
/sach
Bài viết nổi bật khác
- Hot nhất
- Mới nhất