Với những tác phẩm đã có vị trí nhất định trong kí ức cộng đồng, dường như chúng ta luôn biết về nó trước khi thực sự đọc nó. Cái tên "Người không mang họ" không biết từ lúc nào đã ở trong trí nhớ tôi và dù chỉ là một cái tên, nó cũng hàm chứa một nỗi buồn man mác khi gợi nhắc đến một người vô cố hương, không gốc gác một số phận lững lơ và lênh đênh giữa cuộc đời.
Hai câu hỏi: "Ta đến từ đâu?" và "Ta sẽ đi về đâu?" dường như luôn hiện lên như một niềm trăn trở xuyên suốt mọi phận người. Vậy mà với "Người không mang họ", hắn ta đã chênh vênh một nửa cuộc đời khi không thể trả lời câu hỏi đầu tiên. Một đầu cầu nối giữa hắn với cuộc đời đã bị gãy. Vậy thì hắn có thể đi về đâu? Đó cũng là bi kịch của "con quỷ dữ làng Vũ Đại": "Không biết đứa chết mẹ nào đẻ ra thân hắn cho hắn khổ đến nông nỗi này? A ha! Phải đấy, hắn cứ thế mà chửi, hắn cứ chửi đứa chết mẹ nào lại đẻ ra thân hắn, đẻ ra cái thằng Chí Phèo! Hắn nghiến răng vào mà chửi cái đứa đã đẻ ra Chí Phèo. Nhưng mà biết đứa nào đã đẻ ra Chí Phèo? Có trời mà biết! Hắn không biết, cả làng Vũ-đại cũng không ai biết...". Nhưng nếu Chí Phèo luôn ước vọng về một quê hương thì tướng cướp "Người không mang họ" lại trốn chạy và đánh mất quê hương.
Nhà văn Xuân Đức, tên đầy đủ là Nguyễn Xuân Đức, sinh năm 1947, quê ở xã Vĩnh Hòa, huyện Vĩnh Linh, tỉnh Quảng Trị. Tháng 8 năm 1980, tại thành Vinh, tỉnh Nghệ Tĩnh, băng cướp do Trương Hiền (biệt danh là Toọng) cầm đầu chính thức bị xoá sổ với 4 bản án tử hình, 4 bản án chung thân, 1 án hai mươi năm và 1 án 15 năm. Tin tức về bản án chấn động đó cùng những thông tin nhạt nhoà về một con người mang tên Trương Hiền quê quán ở Vĩnh Hoà khiến nhà văn Xuân Đức băn khoăn nhớ lại những kỉ niệm xa xưa với người bạn từng chăn trâu cắt cỏ cùng mình đã vượt giới tuyến và lưu lạc biệt tăm từ năm 1964.
Những ý tưởng về tiểu thuyết "Người không mang họ" dần thành hình khi nhà văn cố truy tìm lại hình ảnh nhạt nhoà trong kí ức về một người bạn thời ấu thơ, khi tình thương và niềm trăn trở về số phận con người dần lớn hơn sự căm phẫn dành cho một tướng cướp. Năm 1983, tiểu thuyết "Người không mang họ" ra đời và gây tiếng được vang lớn. Điều còn lại trong tâm trí mỗi người khi đã sống cùng nhân vật qua ba trăm trang tiểu thuyết không phải là sự hả hê khi bản án hình sự được thực thi để trừng phạt một con quỷ dữ, mà là sự đồng cảm và đau xót dành cho một con người càng cố níu lấy ánh sáng, càng khao khát được thuộc về lại càng bị chính lựa chọn của mình xô đẩy vào bóng tối...
Sự đứt gãy của lịch sử là sự đứt gãy trong số phận con người
Con người là sinh vật thuộc về lịch sử và không thể nào đứng ngoài những biến cố lịch sử. Bởi họ  không chỉ là tập hợp của những cá thể tồn sinh nhờ điều kiện tự nhiên mà còn là những cá nhân gắn mình vào xã hội và chịu chung số phận với xã hội trong dòng chảy lịch sử nghiệt ngã.
Ngày 20 tháng 7 năm 1954, Hiệp định Geneva được ký kết, đất nước tạm thời bị chia cắt thành hai miền bắc-nam bởi ranh giới là vĩ tuyến 17 (sông Bến Hải, Quảng Trị). Từ tháng 7 năm 1956, nơi đây chính thức trở thành ranh giới giữa hai vùng trời đối lập. Dòng sông từ muôn thuở lưu chuyển sự sống và nuôi nấng mảnh đất quê hương của biết bao con người bỗng trở thành “sông Giới Tuyến”, cái tên “mới mà lại rất cũ, cũ mà lại quá mới, như vành khăn tang mà bất kỳ một ai khi chít nó vào đầu cũng thấy bàng hoàng không tin được một điều bất hạnh khủng khiếp đã xảy ra với chính mình.” Vĩ tuyến 17 không chỉ chia đôi đất nước mà còn cắt ngang qua cuộc đời mỗi con người sống trong thời thế ngổn ngang, tang tóc ấy; cắt những nhát kéo chia ly qua mối quan hệ giữa người với người- tình thân, bằng hữu, phu thê, phụ tử,… Sự chia cắt nghiệt ngã ấy kéo con người vào những cuộc chiến chinh bất tận, nơi người ta phải chĩa súng vào nhau, nơi người ta phải trả lời dứt khoát: ta hay địch, sống hay chết.
Sống ở miền Bắc, cậu bé Hoàng Lạng thui thủi trong mặc cảm không được thuộc về cộng đồng mà mình đang sống. Cậu luôn nghĩ rằng mình là con của địa chủ Hoàng Ất, mà địa chủ là kẻ thù của nhân dân, sớm muộn gì cũng phải cúi đầu chịu tội trước cách mạng. Tiếng chửi của một người bạn chăn trâu thân thiết đã giáng xuống tâm hồn cậu bé mười sáu tuổi ấy một nỗi đau và mặc cảm tội lỗi cậu chưa hiểu hết nhưng đã phải gánh chịu một mình. Sự đối nghịch về xuất thân đã đẩy Lạng tới quyết định bỏ lại cây sáo, gác lại tuổi thơ, rời xa quê hương, lãng quên một thời đã sống để tìm kiếm một đời sống mới ở bên kia giới tuyến.
Nhưng chính vì cái mà Lạng phải vượt qua không chỉ đơn giản là một dòng sông mà còn là ranh giới giữa sống và chết, cõi trần và địa ngục, kiếp người và kiếp thú, là sự chia cắt phải nói chuyện bằng súng nên hành trình sang sông của cậu đẫm trong cái lạnh tái tê, trong tiếng gió gào lâm ly, trong nỗi sợ hãi tột cùng, sự giằng xé bất tận giữa ý nghĩ: “Vượt đi!” và “Dừng lại!”… Sự yếu đuối cùng cực Lạng cảm thấy ở mình khi vượt tuyến có lẽ không phải là sự yếu đuối về thể lực mà là sự sợ hãi trước khoảng trời vời vợi trước mắt, là nỗi tiếc nuối về những kỉ niệm mình bỏ lại sau lưng đã làm nặng trĩu cái ý chí vượt tuyến của cậu. Có lúc cậu đã nghĩ: “Thôi thì chìm đi. Thà như thế còn hơn…”. Còn hơn điều gì? Còn hơn là chịu đựng sức nặng khủng khiếp của thân phận một kẻ lưu vong chính trị, của nỗi đau ly hương chồng chất lên sức nặng vốn dĩ đã hiện hữu trong trách nhiệm của mỗi sự lựa chọn mà người ta thực hiện. Nếu hai bờ Hiền Lương đều là chốn quê nhà, Lạng đâu phải “khóc trong ngập ngụa bùn lầy” và nói lời “vĩnh biệt”, Lạng đâu phải ngỡ ngàng tự hỏi: “Mình là ai?”. Bỏ lại khoảng trời bên kia sông, Lạng phải bắt đầu một cuộc sống khác khi nhận ra chính mình không là gì cả, mình không còn là mình nữa…
Trớ trêu thay, khi chối bỏ xuất thân và tìm kiếm vùng trời khác để thuộc về, điều đầu tiên Lạng nhận ra lại là sự thật bàng hoàng về chính mình, họ Hoàng anh mang chỉ là sự vay mượn để lấp liếm, che đậy một vết nhơ. Trong đơn vị công binh cầu đường, Lạng lại bị khinh rẻ bởi thân phận của một thanh niên miền bắc vượt tuyến. “Không một ai bắt chuyện với Lạng trừ mệnh lệnh và những câu chửi tục”. Đó là một sự thù địch nghiễm nhiên, bất di bất dịch, bỏ qua mọi bằng chứng về thái độ làm việc chăm chỉ, tận tuỵ của Lạng. Lịch sử đã đeo lên vai cậu cái ách của tội lỗi vô lý. Rất nhiều người trong những cơn tai ương của lịch sử đã phải chịu sự trừng phạt cho tội lỗi mà ngay từ đầu người ta chẳng gây ra, bởi đối tượng của sự trừng phạt ấy không được xem xét như một cá nhân, một con người mà là một kẻ thù chính trị.
Trong chiến tranh, hoặc là anh bắn, hoặc là anh bị bắn, không có khoảng trống cho tình cảm, cho suy xét và do dự. Đó cũng là nguyên cớ đẩy Lạng vào hố thẳm tội ác đầu tiên trong cuộc đời mình. Ngay khi tình bạn giữa Lạng và đầu bếp Mẫn trong đơn vị công binh vừa nảy nở nhờ những lời hỏi và đáp thân tình, qua mối dây đồng cảm là chất giọng của quê hương Quảng Trị, thì nỗi sợ hãi, hoảng loạn và tuyệt vọng của anh trong đêm tập kích bất ngờ từ phía bắc đã đẩy anh vào cuộc vật lộn, giằng co với chính người bạn mà anh nhầm tưởng là Việt cộng để giành lấy sự sống. Đó là lần đầu tiên trong đời Lạng giết một mạng người. Dường như anh không thể lựa chọn hay khước từ sự giết chóc mà là anh phải giết chóc để bản thân được sống… Con người cố níu lấy sự sống nhuốc nhơ đó để rồi đến cuối cùng, khi một ván cờ của lịch sử đã qua đi, người ta bàng hoàng trước những tội lỗi mà bản thân mình không thể trốn chạy, không thể biện minh…
Về sau, dưới cái tên Lãm, anh từng ao ước được gắn bó với gia đình Khánh Hoà và sống bình yên. Nhưng anh không ngờ rằng Hoà là một trinh sát Việt Cộng nằm vùng. Cô đã trốn biệt đi để tránh sự truy lùng của cảnh sát trước khi Lãm kịp nhận ra sự thật ấy. Biến cố lại đẩy anh rời khỏi Đông Hà quay lại với cuộc sống lang bạc trong gánh thuốc Sơn Nam để rồi anh lại bị cám dỗ trước Kiều Loan, sa chân vào lỗi lầm. Nếu không ở trong hoàn cảnh lịch sử lúc bấy giờ, tình thương và sự bao dung của gia đình Khánh Hoà là quá đủ để Lãm kịp quay về bước đường lương thiện. Chỉ ở dưới mái nhà ấy, anh mới nhận được sự tin tưởng tuyệt đối, anh mới được đối đãi như một thằng người… Không phải sự lãnh cảm và định kiến đẩy con người vào bất hạnh mà chính là cảnh tang tóc, li loạn của chiến tranh đã hết lần này đến lần khác xé vụn những hy vọng của con người.
Cầu Hiền Lương, sông Bến Hải, Quảng Trị (1956)
Cầu Hiền Lương, sông Bến Hải, Quảng Trị (1956)
Bi kịch của sự lựa chọn: tự do hay tất định?
Từ một cậu bé Hoàng Lạng hiền lành, say mê nghệ thuật đến tướng cướp Trương Sỏi sừng sỏ, mưu mô -liệu con người ấy có chịu trách nhiệm phần nào với cuộc đời mình, hay từ đầu đến cuối chỉ là nạn nhân trong trò chơi của định mệnh?
Những người theo thuyết tất định cho rằng sự lựa chọn chỉ là ảo tưởng, những gì xảy ra với con người đều có sự can thiệp của định mệnh, một cái gì tiền định điều khiển ta như những con rối. Hành trình của Lạng đầy rẫy những biến cố ngẫu nhiên xô dạt anh đến những bến bờ vô định. Vì cớ gì anh lại sinh ra trong gia đình họ Hoàng? Tại sao anh lại va phải Mẫn trong lúc tuyệt vọng trốn chạy để rồi ra tay nặng nề với người bạn đáng tin cậy duy nhất của mình? Tại sao anh lại làm việc cho ông Phù Ái và vướng vào mối duyên nghiệt ngã với Kim Chi? Tại sao anh lại bước vào mái nhà của ông Trương Phú để rồi Khánh Hoà  trở thành ước vọng hạnh phúc mong manh của anh, cũng chính là người sau này đưa anh vào tù ngục? Điều gì đã đẩy anh bước vào làm việc trong gánh thuốc Sơn Nam, được vị thầy này tin tưởng, để rồi học được võ công và nếm trải cả nỗi chua chát ê chề?... Nhà văn đã có một sự so sánh rất xác đáng: Như một kẻ bơi trong ao bèo, anh càng cố bơi hướng khác thì đám bèo càng bám lấy anh như đỉa đói.
Dường như khi càng cố thoát khỏi sự bất hạnh thì bất hạnh càng vây lấy anh. Lạng vượt con sông Thạch Hãn để chạy trốn bi kịch của sự cô độc và tội lỗi của xuất thân để rồi lại vướng vào bi kịch của kẻ vô cố hương, vong thân và bỉ cực. Lãm ngỡ như mình có thể mượn cái hung hăng bạo tàn ngắn ngủi để đổi lấy sự bình yên và hạnh phúc lâu dài về sau. Nhưng không thể nào có một hành động ác lại thoả mãn một mục đích thiện. Khi anh đã bước vào trong bùn lầy, anh chỉ ngày càng lún sâu thêm mà thôi. Dù đã thề với lương tâm mình, rằng dù có đói cũng “không thể đi xin, nhục nhã quá; lại càng không thể móc túi, tàn ác bất lương quá. Dẫu có chết gục vì đói cũng không thể bắt chước đám bụi đời trong đây được.” Trong cảnh túng bấn ê chề, lại chịu sự khinh bỉ của đám bụi đời ở Đông Hà, anh không thể chịu nổi: "Nhục quá! Mà cũng đau quá! Để cho bọn nhãi nhép này xỉ vả thì còn ra cái kiếp chó gì nữa!", anh phải làm gì đó để rửa nhục. Nhưng anh cũng không thể đánh đập chúng để ra oai, bởi: “Những bộ mặt kia vừa đáng ghét, vừa đáng thương. Ở cái tuổi đáng lẽ là tuổi ăn tuổi ngủ thì chúng lại đói. Đói cả cơm, đói cả ngủ. Đói thì cắn bậy nhau thôi...”. Nhìn những đứa trẻ đói khổ, anh lại căm phẫn bọn nhà giàu: "Tiên sư đứa có tiền. Đ. mạ bọn nhiều tiền!". Với ba động cơ rất mực lương thiện ấy, anh quyết định đi ăn cắp. Cái cách mà Sỏi cướp của dường như không còn là hành động của con người mà đã trở nên hoang dại, đầy thú tính: “Tội đếch gì mà lén lút, ăn trộm ư? Cóc cần. Cứ lao sầm vào mà đòi tiền. Băm vằm những đứa có tiền ra.” Bị người ta đuổi, Sỏi điên dại vồ lấy một người đàn bà đi đường mà cướp hết tài sản, mặc người đó ríu lưỡi van lạy. Sỏi toan tính hợp nhất các băng đảng trộm cướp ở Đông Hà thành một dưới sự kiểm soát của anh để rồi chuyển hướng sang buôn bán, tuyên bố không bao giờ móc túi, trấn lột nữa, cứ thế mà làm ăn lương thiện! Nhưng cuồng vọng quyền lực và những âm mưu che đậy tội ác đã ghim chặt anh trên cái ghế “tướng cướp”. Càng lựa chọn, anh càng rơi vào vòng xoáy của bi kịch và vực thẳm tội lỗi.
Ngay từ đầu, Lãm hiểu rằng anh có thể chọn lựa cho mình một cuộc đời lương thiện: "Mình chỉ ước được yên ổn, dù làm thuê làm mướn, dù ăn muối ăn dưa miễn sao yên ổn…”. Nhưng rồi không biết từ bao giờ, cái sai này lại chồng chất lên cái sai khác, những biến cố này va vào những điều tình cờ khác, dường như anh chẳng thể làm chủ cuộc đời mình: “Suốt đời mình chẳng hành hạ ai, chỉ mong có một điều đừng bị ai hành hạ. Nhưng rốt cuộc có thoát nổi đâu...”. Cuối cùng, anh chỉ còn biết đổ lỗi cho cuộc đời: “Cuộc đời là cái chó gì? Là cạm bẫy, là trò đùa, là tâm địa độc ác với nhau. Có đất nào cho ta dung thân không?”.
Vậy thì rốt cuộc tất thảy bất hạnh và tội lỗi trong cuộc đời Sỏi là tiền định, là không thể phanh hãm, không thể chạy thoát chăng? Cuộc đời không hãm hại anh, không đánh gục anh, mà chính anh đã lựa chọn từ bỏ cuộc đời. Đó cũng là lúc mà anh chọn cho mình cái tên Trương Sỏi.
Thu mình lại để hoà vào sự tĩnh lặng mênh mông hay vì sự mặc cảm và chán nản trước cuộc sống?
Ta thường định danh mình trong khuôn khổ của “cái tôi”, tức là tất cả những gì ta tưởng là thuộc quyền sở hữu của mình- tên tôi, thân xác tôi, tư tưởng của tôi, thành tựu của tôi, tài sản của tôi… Và rồi từ đó ta thiết định sự đối lập gay gắt giữa “cái tôi” của mình và “tha nhân”. Người khác không ủng hộ tôi là kẻ thù của tôi. Người khác được thành công và hạnh phúc hơn tôi là tước đoạt những gì tôi có…. Khi người ta càng cố bành trướng “cái tôi” của mình, coi bản thân mình là trung tâm tức là đang xây một nhà tù lớn hơn và vững chãi hơn để giam hãm mình- một cái buồng vọng âm khổng lồ mà dù có đi đến đâu ta cũng chỉ thấy được điều mình muốn thấy, chỉ nghe được những gì mình muốn nghe. Thế giới trong tâm tưởng ta dần trở nên nhỏ bé và đầy rẫy sự thù địch.
Thu nhỏ mình để hoà vào cái tĩnh lặng mênh mông cũng chính là thu nhỏ bản ngã, buông bỏ sự bám chấp vào cái tôi, như một giọt nước tìm về hoà mình vào biển cả. Cuộc đua tranh nhằm đặt cái tôi của mình lên vị trí hàng đầu là một nỗ lực vô nghĩa, bởi lẽ tất cả những gì ta cố gắng sở hữu đều là ảo ảnh, cuộc đời ta đang sống là một cõi tạm bợ và ngắn ngủi, một thoáng hiện giữa dòng chảy miên man bất tận của sự sống: “Thân như điện ảnh hữu hoàn vô/ Vạn mộc xuân vinh thu hựu khô…” (Vạn Hạnh thiền sư). Một khi buông bỏ những ảo ảnh về cái tôi và hoà vào dòng chảy của miên man  của tồn tại, con người mới có được sự an yên-  “ly sinh hỷ lạc”. Hơi thở của ta cũng là hơi thở của muôn vật và cỏ cây. Những gì cấu thành nên ta và nuôi dưỡng ta cũng đang hiện diện trong mọi sự tồn tại. Tất cả tiếp nối, chuyển hoá cho nhau, hiện diện rồi ẩn tàng. Chẳng có người khác, chẳng có một tôi. Sự sống của ta luôn là một phần của dòng chảy vô thuỷ vô chung luôn biến chuyển chứ chẳng hề mất đi… Chúa Jesu khuyên nhủ các môn đệ: “Ai hạ mình xuống như trẻ nhỏ, người ấy là kẻ lớn nhất trong Nước Trời” cũng với hàm nghĩa ấy. Khi buông bỏ những ý niệm về sự sở hữu thì cũng chẳng còn sự toan tính, thù địch, căm giận, sợ hãi nữa, mà chỉ còn lại một nụ cười hồn nhiên, một tình thương rộng mở.
Trở lại nhân vật Lãm, sau sự thất bại chua xót và đau đớn trong cuộc giao chiến với Sơn Nam và bị bỏ rơi ở kinh thành Huế, anh lại trở về mái nhà lợp nứa của bác Trương Phú như tìm về chốn nương thân cuối cùng. Bị nghi ngờ là Việt cộng, anh lại phải đổi tên. Khi Lãm cố tìm cho mình một cái tên mới, “một nỗi hằn học quẫy dậy. Lãm thấy căm uất tất cả. Mình chỉ là một hòn sỏi trên dặm đường đời mà thôi. Mình là hòn sỏi... Đau chưa? Tôi tên là Trương Sỏi! Lãm kêu lên bất ngờ và bật cười ngất ngưởng...”. Đó không phải là sự lựa chọn tự nguyện, tỉnh thức của một kẻ “xin làm đá cuội và lăn theo gót hài” mà là sự thừa nhận đầy mỉa mai, hằn học và phẫn nộ. Lãm cảm thấy mình là một kẻ thất bại, tồi tệ, thậm chí không có tư cách tồn tại một cách đàng hoàng và đầy đủ trong cuộc đời. Anh càng khao khát được thuộc về, được công nhận thì thực tại đến với anh lại càng đào sâu thêm mặc cảm về sự vô nghĩa, lẻ loi, nhỏ bé của chính anh. “Tôi tên là Trương Sỏi!”, đó không chỉ là một cái tên mà còn là sự lựa chọn thái độ sống- tôi không xứng đáng với điều gì cả nên cứ buông bỏ tất thảy, mặc kệ tất thảy đi, không chờ đợi nữa, không hy vọng nữa! Cái cười ngất ngưởng của anh như cái cười của một kẻ điên, một kẻ say, hàm chứa cả sự đau xót và khinh bỉ của anh dành cho chính mình. Cái cười như thể là sự hả hê khi anh đã thực hiện sự tự do lựa chọn cuối cùng của mình là phó mặc cuộc đời cho mọi biến cố ngẫu nhiên, mọi tai ương và tội lỗi,… Đó là cái cười khi nỗi đau vượt quá ngưỡng. Đó là cái cười của một kẻ đã đưa tang chính mình.
Nhưng sự buông bỏ, tự phủ định mình của Lãm không phải là hành động thu cái tôi bé lại để làm giọt mưa tan cùng trời đất mà thực chất anh vẫn đang đặt cái tôi của mình ở trung tâm, nhưng đó là cái tôi yếu đuối, bị khước từ và chịu sự thoá mạ của chính nó. Việc tầm thường hoá bản thân mình là một phương diện khát của việc mong muốn được công nhận. Khao khát bị quên lãng chính là một cách phản ứng khi tham vọng của cái tôi không được đáp ứng. Dẫu có vẻ như đang chối từ chính mình nhưng anh vẫn vẫy vùng đầy đau khổ. Khi đã chạm đến điểm cực hạn của sự tủi nhục, cái tôi liền chuyển sang một thái cực khác- một cái tôi sẵn sàng tước đoạt, bành trướng, giết chóc để thoả mãn cơn khát của mình. Tham vọng của một con người đã mất hết tất cả có khi còn dữ dội hơn bất kỳ ai đang sống trong đủ đầy và sung túc. Khi Sỏi được nhấm thử thứ men say của những lời nịnh hót, những câu tán tụng, của sự sợ hãi và tôn kính người ta dành cho anh, anh càng lao mình đuổi theo. Sự cuồng vọng quyền lực của cái tôi muốn xác lập cho mình một địa vị đã đẩy Sỏi trượt dài trên con dốc của sự huỷ diệt…