VĂN CHƯƠNG TỒN TẠI NHƯ THẾ NÀO TRONG THỜI ĐẠI THỊ TRƯỜNG?
Ý kiến của một cô gái nhỏ học cách yêu cuộc đời và những gì của nó
Một nhà sư yêu cầu hai vị đệ tử của mình so tài bằng cách vẽ một bức tranh nói về cái tĩnh. Bức tranh thứ nhất là một dòng sông phẳng lặng dưới ánh trăng lấp lánh. Bức tranh thứ hai lại là thác nước dữ dội chảy từ trên cao xuống tạo thành những xoáy nước. Ai cũng đồng loạt cho rằng vị đồ đệ thứ nhất thắng rồi. Còn vị đồ đệ thứ hai chẳng những không thắng mà còn không giác ngộ được cái tĩnh tại từ tâm. Vị hòa thượng sau khi ngắm nhìn hai bức trang liền tấm tắc khen ngợi bức tranh thứ hai. Mọi người không hiểu, bèn nhờ vị đại sư giải thích cho. Vị đại sư bèn trỏ vào dấu chấm nhỏ bên cạnh thắc nước. Hóa ra đó là con chim. “Trong tĩnh có động, trong động có tĩnh.” Bấy giờ mọi người mới hiểu ra. “Thời đại càng tốc độ, con người càng sống nhanh, sống gấp thì con người lại càng phải học cách tĩnh. Vì nếu không, con người sẽ lầy lội vào bi kịch tốc độ của chính mình.” Văn chương cũng giống như hội họa. Tĩnh động đan xen, nhưng văn chương lại lấy chính cái động để dạy con người ta cái tĩnh.
Trong thời kì kinh tế thị trường này, thời gian không ngừng chảy trôi, vạn vật chuyển động không ngừng. Và con người cũng buộc phải sống nhanh, sống gấp để theo kịp nhịp sống thời đại. Nhiều người sẵn sàng hy sinh nhiều giá trị cao quý như tình thân, tình bạn, chấp nhận từ bỏ những vẻ đẹp vĩnh hằng để đi nhanh. Để rồi cuối cùng chính họ lại sa lầy vào “bi kịch tốc độ” do mình tạo ra. “Bi kịch tốc độ” là gì? Có thể hiểu đơn giản rằng nó là bi kịch của việc đánh mất, đánh mất những giá trị cuộc sống, đánh mất chính bản thân mình. Thế nên cuộc đời càng gấp gáp, càng động một cách dữ dội thì con người lại càng phải tĩnh lặng. Không phải đơn thuần chỉ là tĩnh lặng ở mặt nước mà trong lòng sóng cuộn trào. Con người cần phải tĩnh lặng tự sâu thẳm trong mình, “tĩnh trong cái động". Nhận định trên đã cho thấy được vai trò quan trọng của văn chương. Văn chương, chứ không phải bất gì một thứ gì khác, sẽ đưa con người đến với cái tĩnh trong tâm hồn hơn.
Bàn về văn chương, Thanh Thảo đã từng nói rằng: “Văn chương giúp ta trải nghiệm cuộc sống ở những tầng mức và những chiều sâu đáng kinh ngạc. Nó giúp con người sống “Ra người” hơn, sống tốt hơn nếu ta biết tìm trong mỗi quyển sách, những vệt sáng, những nguồn sáng soi rọi vào những góc khuất của cuộc đời và của con người”. Thế mới thấy văn chương quan trọng như thế nào trong công cuộc khai mở ra những cánh cửa của chiều sâu tâm hồn. Nghệ thuật bao gồm nhiều lĩnh vực, văn chương lại là lĩnh vực ôm trọn hết những lĩnh vực khác, thực hiện trách nhiệm mà những lĩnh vực khác còn khuyết thiếu. Những bức vẽ phong cảnh, những khúc nhạc du dương đưa con người vào tiềm thức thì văn chương lại giúp con người mở cánh cửa tiềm thức ra và bước vào trong. Văn chương giúp con người khai mở cánh cửa tâm hồn, tĩnh lặng trong cuộc sống vì nhiều lí do. Văn chương cho người đọc bước vào một thế giới khác tách biệt hoàn toàn với sự xô bồ, vội vã của thế giới bên ngoài. Thạch Lam đã từng nói rằng: “Văn chương là một thứ khí giới thanh cao để cho con người ta một bài học trông nhìn và thưởng thức". Khi bước vào thế giới văn chương tức là ta đã thâm nhập được vào một thế giới khác. Nhưng cái thế giới đó có gì lại phụ thuộc nhiều vào người đọc. Tại sao lại có một thời kì “văn- sử- triết” bất phân? Phải chăng là vì chúng có một mối quan hệ nào đó? Văn học cũng có những đặc điểm của Triết học, có những vấn đề làm cho ta phải đau đáu suy nghĩ. Thế nhưng tại sao có người lại không thể hiểu nỗi Triết học và cho rằng chúng rất khó hiểu? Triết học hay văn học cũng dẫn con người đến với một thế giới mới. Nhưng thấy gì trong thế giới đó còn tùy vào mỗi cá nhân.
Tại sao con người chúng ta lại tin vào tâm linh và có cho mình một tôn giáo, tín ngưỡng? Bởi vì khi có cho mình một tín ngưỡng, ta sẽ tìm được chỗ để kêu cứu, có được niềm tin để bấu víu. Nhưng mỗi tôn giáo thì khác nhau. Vậy tại sao đạo Kito, đạo Hồi hay đạo Phật lại đều cho đệ tử của mình thiền định? Vì thiền định giúp ta lắng nghe chính mình, đối mặt với chính mình. Đến đây ta lại thấy văn chương cũng có nét giống với thiền định. Mỗi độc giả mang trong mình một tôn giáo khác nhau, một màu da, một dòng máu khác nhau. Nhưng họ đều giống nhau ở chỗ được văn chương đưa vào thế giới khác để đối mặt với bản thân, lắng nghe bản thân để sống tĩnh tại. Hoài Thanh cũng cho rằng: “Đời chúng ta nằm trong vòng chữ tôi, mất bề rộng ta đi tìm bề sâu.” Văn chương là vậy, đưa con người đi tìm bề sâu tâm hồn để tránh chúng ta sa lầy vào bi kịch cuộc đời, vũng lầy của sự vội vã.
Văn chương và thiền định cũng giống nhau, đều giúp cho con người dễ dàng tĩnh tâm trong cái cuộc sống đâu đâu cũng là động như bây giờ. Nền văn học Nhật Bản có rất nhiều thể loại văn học, nhưng thể thơ Haiku lại là thể thơ rất đặc biệt- thơ Thiền. Có ý kiến cho rằng đọc thơ Haiku thì tâm phải tĩnh, không tĩnh thì không hiểu thơ muốn nói gì. Bởi thơ Haiku chỉ mượn sự vật ở hiện tại nói lên tâm tưởng. Nhà thơ không bao giờ thổ lộ hết lòng. Người làm thơ luôn nép mình bên lề trong con hẻm nhỏ để người đọc tiến lùi tùy ý, đi sâu vào tâm tưởng của chính họ.
“Những cánh hoa đưa
Rơi thành tiếng xuống đất
Hoa lãng quên?” (Basho)
Mở đầu bài thơ là những cánh hoa đong đưa trong gió, nhẹ nhàng rơi thành từng tiếng mỏng xuống đất. Chỉ đơn giản thế thôi nhưng đã gợi lên một khoảnh khắc vô cùng của đời người. Khoảnh khắc vô cùng chỉ là một hạt cát trong quỹ thời gian của con người. Nhưng nó lại để lại những suy nghĩ sâu sắc về kiếp nhân sinh, về được mất giữa cuộc đời này. Con người cũng giống như đóa hoa kia, đẹp đẽ nở rộ giữa muôn ngàn bông hoa khác, rồi cũng lặng lẽ ra đi. Basho muốn mượn cái đẹp của hoa để nói về cái tạm thời của vạn vật, không thứ gì là tồn tại vĩnh viễn, kể cả khi đó là cái đẹp. Đó là quy luật tất yếu của cuộc đời. Chúng ta ai rồi cũng sẽ về với cát bụi:
“Tôi nay ở trọ trần gian
Mai kia về chốn xa xăm cuối trời.”
Vậy nên dù cho có là ai rồi cũng sẽ ra đi, bạc vàng nhiều vô kể cũng chẳng thể đem đi. Vậy hà cớ chi ta phải tính toán chi li, sống vội, sống gấp mà bỏ quên bản thân. Đó là thiền trong văn chương, là cái tĩnh trong cái động của chiếc hoa rơi. Đó là tự ta tìm về cái tĩnh, còn có cái tĩnh mà xã hội ép ta tìm về. Cuộc sống con người giống như đóa hoa, nở rộ đẹp đẽ nhưng chưa chắc đã có người quan tâm. Để rồi ta phải chấp nhận cái tĩnh mặc dù bản thân không hề muốn. Khi ấy bài thơ lại khuyên ta nên tĩnh lặng thật sự vì mỗi người sinh ra đều có vận mệnh của riêng mình. Vậy nên chớ hề lo lắng khi ta không kịp nhịp sống vội vã của xã hội. Hãy biết tĩnh tâm để nhìn ngắm thế giới vì con người chỉ là cái hữu hạn trong cái vô hạn của cuộc đời này thôi.
Văn chương không phân màu da, không chia sang hèn. Dù là khác nhau về quốc tịch nhưng tư tưởng thiền định của tác giả Ba Gàn trong tác phẩm “Đủ nắng thì hoa nở” cũng giống tác giả Basho. Thiền định là cách tập cho tâm hồn con người ta tĩnh tại giữa thế giới xô bồ. Nhưng nhiều khi làm sao để tĩnh tâm khi chúng ta có quá nhiều trách nhiệm để gánh vác thì nhiều tác giả vẫn chưa nói được. Thế nên trong tác phẩm của mình, tác giả Ba Gàn đã nói một câu rất hay: “Ráng bưng chậu nước đầy để tiếp tục rót cho khỏi đổ, chi bằng ngưng không rót nữa.” Nhiều khi con người ta muốn tĩnh tại thì không chỉ đơn thuần là “bỏ phố về quê” mà còn phải biết buông bỏ, đặt xuống. Trong lòng luôn muốn tĩnh tại nhưng khăng khăng níu giữ mọi thứ thì làm sao mà tĩnh tâm được? Nhiều khi buông bỏ không phải là sai lầm, là không kiên trì. Buông bỏ có khi là học cách tĩnh tại. Giáo lí của các tôn giáo có thể dạy con người ta cách thiền định, buông bỏ nhưng khó lòng chậm đến tim ta. Còn văn chương thì hoàn toàn có thể.
Trong cuộc sống xô bồ hiện tại, con người ta cần phải học cách tĩnh, tĩnh ngay trong động. Và văn chương sẽ giúp ta dễ dàng lắng nghe bản thân để tĩnh lặng hơn. Nhưng không phải tất cả các tác phẩm văn chương đều giúp cho con người tĩnh lặng. Văn chương là một thứ khí giới thanh cao nhưng không phải bất cứ thứ văn chương nào cũng có thể thanh cao. Có những tác phẩm khi gắn nó với hai chữ văn chương thì tức là xem nhẹ, là khinh rẻ văn chương. Văn chương giúp con người đi sâu vào tâm hồn, tĩnh tâm nhưng phải là thứ văn chương đích thực. Còn những loại văn chương “không đáng thờ” thì chẳng những không cho ta tĩnh tâm . Mà ngược lại còn khuấy động tâm hồn ta trở thành một vũng nước đục ngầu.
“Ta dại, ta tìm nơi vắng vẻ
Người khôn, người đến chốn lao xao.”
Khôn và dại là vô cùng, nhiều khi khôn mà dại, nhiều khi dại mà khôn. Chỉ có khi con người ta tĩnh tâm, tìm về nơi tĩnh lặng thì mới khôn ngoan hơn. Goeth đã từng nói rằng: “Tĩnh lặng nảy sinh ra trí tuệ, giông gió tôi luyện tính cách.” Chỉ có khi con người thật sự tĩnh lặng thì mới tránh khỏi kiếp sống “nô lệ”, nô lệ của thời đại, nô lệ của dục vọng, nô lệ của bản thân. Và văn chương sẽ giúp ta thoát kiếp nô lệ như Bác đã từng dùng văn chương cổ vũ nhân dân.

Quan điểm - Tranh luận
/quan-diem-tranh-luan
Bài viết nổi bật khác
- Hot nhất
- Mới nhất