Bối cảnh kinh tế của Thái Lan trước khủng hoảng và liên hệ với Việt Nam hiện nay
Hiệp định Plaza, được ký kết vào tháng 9 năm 1985, là một thỏa thuận giữa G5 (bao gồm Hoa Kỳ, Vương quốc Anh, Đức, Pháp và Nhật Bản) về can thiệp phối hợp vào thị trường ngoại hối đã khiến đồng Yên tăng giá mạnh từ dao động quanh mức 240 JPY/USD lên mức 120 JPY/USD chỉ trong vòng 3 năm. Điều này dẫn đến không chỉ chi phí sản xuất hàng hóa ở Nhật Bản tăng mạnh mà giá các sản phẩm của nước này trên thị trường quốc tế cũng tăng  gây bất lợi cho xuất khẩu ảnh hưởng lớn đến nền kinh tế phụ thuộc lớn vào xuất khẩu của Nhật Bản. Điều này buộc ngân hàng trung ương Nhật Bản ( BOJ ) bắt đầu 1 chính sách tiền tệ nới lỏng bao gồm duy trì lãi suất thấp kéo dài và  hạn mức tăng trưởng tín dụng cao. Tất cả những điều này thúc đẩy doanh nghiệp Nhật Bản đầu tư mạnh mẽ ra nước ngoài và chuyển hoạt động sản xuất sang các nước có chi phí thấp hơn, trong đó Thái Lan là điểm đến nổi bật. Nhờ dòng dịch chuyển này, Thái Lan thu hút lượng lớn vốn đầu tư, công nghệ và năng lực sản xuất. Thái lan nhanh chóng trở thành một trung tâm xuất khẩu lớn cho các sản phẩm chế tạo được tái xuất sang nước thứ ba, tạo ra một giai đoạn tăng trưởng mạnh mẽ. Mức tăng trung bình GDP của Thái Lan từ năm 1985 đến năm 1996 trước thời điểm khủng hoảng xảy ra là quanh mức 8.58%  và đặc biệt trong năm 1998 con số tăng trưởng GDP lên tới 13.2% 1 con số rất cao. 
Sự tăng trưởng mạnh mẽ trong việc thu hút nguồn vốn FDI từ Nhật Bản vào Thái Lan là kết quả trực tiếp từ nỗ lực tự do hóa tài chính và mở cửa thị trường vốn quốc tế. Động thái then chốt là việc thành lập Cơ sở Ngân hàng Quốc tế Bangkok (BIBF) vào năm 1992, tạo ra một kênh chính để phần lớn vốn ngoại đổ vào Bangkok. Quan trọng hơn, chính sách cố định tỷ giá hối đoái kết hợp với việc duy trì lãi suất nội địa cao hơn so với các nước phát triển đã tạo ra một cơ hội kinh doanh chênh lệch lãi suất hấp dẫn. Điều này đã thúc đẩy làn sóng vốn ngoại tệ giá rẻ khổng lồ từ Nhật Bản, Bắc Mỹ và Tây Âu ồ ạt chảy vào các tổ chức tài chính Thái Lan, cung cấp nguồn vốn rẻ quan trọng, cho phép họ vay bằng ngoại tệ lãi suất thấp và cho vay lại trong nước với biên lợi nhuận cao. Tuy nhiên, chính sự kết hợp  này lại là con dao hai lưỡi, tiềm ẩn rủi ro tỷ giá nghiêm trọng – một nhân tố cốt lõi dẫn đến cuộc khủng hoảng kinh tế Thái Lan năm 1997.
Song song với đó nền kinh tế Thái Lan cũng tích tụ những rủi ro lớn, đặc biệt trong hệ thống ngân hàng và lĩnh vực bất động sản.Các ngân hàng thường yêu cầu bất động sản làm tài sản thế chấp chính cho hầu hết các khoản vay thương mại, dẫn đến mức độ phụ thuộc quá lớn vào thị trường bất động sản. Các tập đoàn ngân hàng gốc Hoa-Thái (Sino-Thai banking groups) là những nhóm thống trị tài chính và thương mại Thái Lan từ sau Chiến tranh Thế giới thứ II. Những nhóm này đã xây dựng mạng lưới rộng lớn, sở hữu hoặc kiểm soát các ngân hàng lớn và đồng thời sở hữu các doanh nghiệp trong nhiều lĩnh vực khác. Ví dụ như Bangkok Bank ( ngân hàng lớn nhất Thái Lan ) được kiểm soát bởi gia đình Sophonpanich. Gia đình này còn kiểm soát 5 công ty tài chính, 6 công ty bảo hiểm, và có lợi ích lớn trong nhiều ngành khác như thương mại gạo, dệt may, bất động sản, xi măng, sắt thép, và nhựa. Điều này dẫn đến nhiều doanh nghiệp phát triển bất động sản có quan hệ chặt chẽ với ngân hàng, khiến việc thổi phồng giá trị tài sản thế chấp trở nên dễ dàng. Điều này cho phép họ vay với mức đòn bẩy cao dựa trên giá trị tài sản bị thẩm định quá mức.
Tương tự Thái Lan, Việt Nam kể từ năm 2017 duy trì tốc độ tăng trưởng cao trung bình 5.85% nhờ mô hình kinh tế định hướng xuất khẩu được hưởng lợi nhiều từ dòng vốn FDI. Cuộc chiến thương mại Mỹ – Trung năm 2017 đã thúc đẩy làn sóng “China + 1”, khi nhiều tập đoàn đa quốc gia chuyển một phần hoặc toàn bộ dây chuyền sản xuất khỏi Trung Quốc. Việt Nam trở thành điểm đến hưởng lợi lớn nhất nhờ chi phí lao động thấp, môi trường đầu tư cạnh tranh và vị trí địa lý gần Trung Quốc.Theo phân tích của Bloomberg, ngay từ năm 2019, Việt Nam đã tiếp nhận hơn một nửa lượng hàng xuất khẩu từ Trung Quốc chuyển sang các nước châu Á khác do thuế quan. Nhờ đó, tăng trưởng được duy trì mạnh mẽ và chỉ bị gián đoạn bởi đại dịch Covid-19.
Bối cảnh ngân hàng và thị trường bất động sản  Việt Nam hiện tại cũng xuất hiện nhiều rủi ro tương đồng với Thái Lan trước khủng hoảng.  Theo Hiệp hội BĐS Việt Nam, bất động sản hiện chiếm khoảng 70% tổng giá trị tài sản đảm bảo tại các ngân hàng – cho thấy mức độ phụ thuộc rất lớn vào thị trường BĐS. Bên cạnh đó một số doanh nghiệp bất động sản cũng đang nắm giữ lượng lớn cổ phần tại các ngân hàng, làm dấy lên lo ngại về xung đột lợi ích và khả năng “nới lỏng” thẩm định tín dụng.Ví dụ:Tại OCB, trong danh sách 20 cổ đông lớn nhất sở hữu gần 81% vốn có nhiều tập đoàn bất động sản. Hay mối quan hệ giữa BRG – SeABank, hay Kiên Long Bank – Sunshine Group ,... cũng làm xuất hiện câu hỏi về rủi ro định giá tài sản quá cao và cho vay dễ dãi. Khác với Thái Lan rủi ro đến từ việc cố định tỷ giá đồng Bath so với USD và việc sử dụng các nguồn vốn vay nước ngoài bằng ngoại tệ cho các dự án bất động sản trong nước. Thì thách thức của Việt Nam lại nằm ở sự lệch pha kỳ hạn nguồn vốn. Các doanh nghiệp bất động sản nội địa đã sử dụng công cụ trái phiếu ngắn hạn để tài trợ cho những đại dự án có thời gian phát triển và thu hồi vốn kéo dài, khiến doanh nghiệp dễ rơi vào cái bẫy 'mất cân đối dòng tiền'. Khi thị trường bất động sản khó khăn và pháp lý tắc nghẽn, rủi ro này biến thành kịch bản 'phá sản trên đống tài sản khổng lồ' do đứt gãy dòng tiền. Trường hợp của Novaland năm 2022 là ví dụ điển hình:  doanh  phải bỏ ra rất nhiều tiền để đầu tư các hạng mục hạ tầng tại những đô thị lớn. Những dự án hạ tầng (Aqua City, NovaWorld Phan Thiết) đòi hỏi thời gian hoàn vốn dài hơn rất nhiều so với một dự án bất động sản thông thường. Nhu cầu vốn cho những dự án này kéo dài 5-7 năm, còn dòng tiền tài trợ chủ yếu là vay ngắn hạn 2-3 năm. Khi thị trường bất động sản bắt đầu đi vào giai đoạn khó khăn đồng nghĩa mô hình huy động vốn từ người mua nhà trả tiền trước không còn khả thi kết hợp với rủi ro pháp lý khiến dự án chậm tiến độ và lãi suất ngân hàng tăng cao đã khiến công ty do ông Bùi Thành Nhơn làm Chủ tịch bắt đầu gặp các vấn đề tài chính, thậm chí phải đối mặt rủi ro phá sản.Đến hết quý I năm nay, tổng dư nợ vay của Novaland ghi nhận hơn 59.000 tỷ đồng.Tổng nợ vay đáo hạn trong 12 tháng theo kỳ hạn cũ khoảng 32.000 tỷ đồng. Đây là các khoản trái phiếu, vay nước ngoài và vay trong nước. Trong 3 tháng đầu năm, doanh nghiệp tốn hơn 633 tỷ đồng cho chi phí tài chính, tức trung bình hơn 7 tỷ đồng mỗi ngày tạo áp lực lớn lên tình hình tài chính của doanh nghiệp.Từ đầu năm đến nay, doanh nghiệp này đã chậm thanh toán hàng nghìn tỷ đồng trái phiếu do chưa thu xếp được nguồn tiền.
Quá trình hình thành bong bóng bất động sản. Thái Lan giai đoạn này được ca ngợi như “con hổ mới” của kinh tế Châu Á với tăng trưởng kinh tế cao duy trì liên tục. Đi kèm với đó là nhu cầu nhà ở tăng vọt, kéo theo giá nhà ở tăng và sản xuất cũng tăng theo. Nhưng điều này cũng dẫn đến một tâm lý lạc quan quá mức bao trùm khắp xã hội Thái Lan từ tầng lớp quan chức, doanh nhân  đến trung lưu bình dân. Tất cả đều bị cuốn vào con sóng đầu tư  bất động sản. Giới chủ doanh nghiệp tràn đầy tham vọng tăng đòn bẩy và vay nợ dựa trên giá trị sổ sách của tài sản  để đầu tư vào bất động sản bao gồm xây dựng bán lẻ, văn phòng và nhà ở do ngoại suy từ nhu cầu xuất khẩu mạnh mẽ kéo dài suốt hai thập kỷ. Các nhà phát triển nước ngoài đã đi theo dòng vốn công nghiệp Nhật Bản cũng rót tiền mạnh vào các sân golf, khu nghỉ dưỡng, khách sạn, công viên chủ đề và cửa hàng bán lẻ. Nguồn vốn tài chính toàn cầu giá rẻ thông qua Ngân hàng Quốc tế Bangkok (BIBF) được thành lập năm 1992 càng hỗ trợ cho việc mở rộng nguồn cung bất động sản. Các tổ chức tài chính Thái Lan vay các khoản vay nước ngoài bằng ngoại tệ với lãi suất thấp. Sau đó chuyển nguồn vốn đó cho các nhà phát triển nhà ở vay lại. Điều này cung cấp 1 lượng vốn giá rẻ khổng lồ cho ngành bất động sản vốn phụ thuộc nặng vào vốn vay. Từ đó thúc đẩy nguồn cung bất động sản phát triển nhanh.  Kết quả Thái Lan đã chứng kiến sự mở rộng tín dụng ngân hàng một cách quá nhanh so với tốc độ tăng trưởng chung của nền kinh tế (GDP). Mức tăng trưởng tín dụng ngân hàng cho khu vực tư nhân ở Thái Lan được ước tính là cao hơn 70% so với tốc độ tăng trưởng GDP.Điều này có nghĩa là lượng tiền mà các ngân hàng cho doanh nghiệp và cá nhân vay tăng lên với tốc độ vượt xa khả năng sinh lời thực tế của nền kinh tế. Dòng tín dụng khổng lồ này đã chảy mạnh mẽ vào lĩnh vực bất động sản khiến các khoản vay bất động sản chiếm từ 30% đến 40% tổng dư nợ ngân hàng, với tổng số nợ bất động sản lên tới 44% GNP quốc gia. Sự mở rộng vô kiểm soát này dẫn đến tình trạng thừa cung nghiêm trọng, đặc biệt là tại Bangkok, nơi tỷ lệ văn phòng trống đã vượt quá 25% vào năm 1996, và lượng căn hộ tồn kho ước tính lên tới 20 tỷ đô la Mỹ. Chính sự kết hợp giữa cho vay quá nóng và chất lượng tài sản thế chấp kém đã đặt hệ thống tài chính Thái Lan vào tình trạng cực kỳ dễ bị tổn thương, biến nó thành điểm khởi phát của cuộc khủng hoảng tài chính khu vực.                              Bong bóng bất động sản Thái Lan đổ vỡ Tháng 2 năm 1997, công ty Samprasong Land không thể thanh toán các khoản nợ nước ngoài trị giá 80 triệu USD.Sự kiện này đã phơi bày lỗ hổng chí mạng trong mô hình vay nợ ngoại tệ để tài trợ cho các dự án nội địa có tính thanh khoản thấp,đặc biệt là bất động sản. Điều đáng chú ý là sự kiện vỡ nợ này xảy ra ba tháng trước khi đồng Baht Thái bị các nhà đầu cơ tấn công và năm tháng trước khi đồng tiền này chính thức bị phá giá. Vụ vỡ nợ của Samprasong Land đã nhanh chóng kéo theo một loạt các vụ vỡ nợ tiếp theo, tạo áp lực khủng khiếp lên các ngân hàng và công ty tài chính. Chính phủ Thái Lan đã cố gắng can thiệp, bơm khoảng 8 tỷ đô la để hỗ trợ hệ thống tài chính, nhưng nỗ lực này không đủ để ngăn chặn sự sụp đổ. Hậu quả là, vào tháng 6 và tháng 8 năm đó, tổng cộng 58 công ty tài chính đã buộc phải đình chỉ hoạt động. Đỉnh điểm của cuộc khủng hoảng xảy ra vào tháng 8 năm 1997, khi chính phủ Thái Lan buộc phải thả nổi đồng Baht. Việc này khiến tỷ giá đồng Baht giảm mạnh từ 25,8 baht đổi 1 đô la Mỹ xuống khoảng 40 baht (và có lúc đạt 50 baht), một hành động chính thức đánh dấu sự bùng nổ của Khủng hoảng Tài chính châu Á. Nhìn lại năm 2024, Đồng Việt Nam (VND) đã mất giá khoảng 4,5% - 5%, đánh dấu mức mất giá mạnh nhất kể từ năm 2012. Mặc dù Ngân hàng Nhà nước (NHNN) đã áp dụng đồng bộ các công cụ điều hành, tỷ giá vẫn tiếp tục tăng mạnh, đặc biệt trong quý 4.  Để kiểm soát đà tăng này, NHNN đã phải can thiệp quyết liệt thông qua việc bán ra khoảng 9,4 tỷ USD từ dự trữ ngoại hối và phát hành tín phiếu. Rõ ràng, Chính phủ Việt Nam đã rút ra bài học từ cuộc khủng hoảng Thái Lan, mặc dù vẫn nỗ lực ổn định tỷ giá nhưng không cố định tỷ giá bằng mọi giá, tránh lặp lại sai lầm lịch sử.
Cuộc khủng hoảng này xảy ra sau một quá trình phát triển dài, nơi giới trẻ nông thôn đã di cư vào Bangkok để hình thành giai cấp công nhân Thái Lan, cung cấp lao động giá rẻ cho ngành du lịch, dịch vụ và bùng nổ công nghiệp những năm 1980 và đầu 1990. Chính nhóm lao động này là những người bị ảnh hưởng trực tiếp khi các công ty thất bại và đóng cửa. Ước tính có khoảng 2 triệu người thất nghiệp. Nền kinh tế Thái Lan vốn được dự đoán tiếp tục đà tăng trưởng cao duy trì trong hơn 1 thập kỷ trước đó đã chứng kiến mức giảm 2.8% vào năm 1997. Và sau đó tiếp tục thu hẹp thêm  7.8% vào năm 1998. Mức tăng trưởng GDP tồi tệ nhất của Thái Lan sau 2 thập niên duy trì mức tăng trưởng tối thiểu trên 4%. Cuộc khủng hoảng tác động nặng nề đến Thái Lan khiến nước này không thể tìm lại đà tăng trưởng GDP trước đó và  không thể thoát khỏi vị thế là một quốc gia có thu nhập trung bình. Từng dẫn trước Trung Quốc về thu nhập bình quân đầu người, hiện Thái Lan bị vượt mặt và khoảng cách GDP bình quân của hai nước có thể sớm tăng lên gần gấp đôi. Theo dữ liệu của Ngân hàng Thế giới từ năm 2024, thu nhập bình quân của Trung Quốc ở mức 13.687  USD so với 7.767 USD của Thái Lan.
III. Mô hình phân tích : tăng trưởng, lạc quan và hiệu ứng bầy đàn. Kinh tế học hành vi đằng sau cuộc khủng hoảng: Từ Tăng trưởng đến Lạc quan Thái quá: Những giai đoạn tăng trưởng kinh tế cao và kéo dài không bị gián đoạn đã khiến các công ty Thái Lan trở nên quá lạc quan về nhu cầu và lợi nhuận trong tương lai. Thành công trong quá khứ được ngoại suy một cách thiếu thận trọng thành kỳ vọng cho tương lai.
Giải thích Hiệu ứng Bầy đàn (Herd Effect) Hiệu ứng bầy đàn mô tả xu hướng các cá nhân tuân theo hành động của một nhóm lớn hơn. Trong bối cảnh này, các công ty ban đầu bi quan về triển vọng của thị trường bất động sản sau khi quan sát thấy lợi nhuận cao của các đối thủ lạc quan hơn  trong thời kỳ thịnh vượng, đã từ bỏ sự thận trọng của chính mình để chạy theo đám đông. Họ hành động không dựa trên thông tin riêng của mình mà dựa trên hành động của những người khác. Khi ngày càng nhiều công ty tham gia vào cơn sốt đầu tư, tổng cung bất động sản tăng lên một cách đột biến. Hành động này, dù có vẻ hợp lý đối với từng công ty riêng lẻ, lại làm giảm mức giá tiềm năng của thị trường trong tất cả các kịch bản tương lai (cả tốt và xấu). Cuối cùng, nó khiến toàn bộ thị trường trở nên dễ bị tổn thương hơn và các khoản lỗ tiềm tàng trong một cuộc suy thoái sẽ lớn hơn rất nhiều. Mô hình này cho thấy một nền kinh tế tăng trưởng càng nhanh lại càng có thể trở nên rủi ro hơn.
IV. Kết luận và rút ra bài học cảnh tỉnh cho Việt Nam.
Việt Nam cần nhìn nhận bài học rằng một giai đoạn tăng trưởng kinh tế kéo dài dễ tạo ra cảm giác “an toàn giả tạo”, khiến doanh nghiệp và nhà đầu tư trở nên quá lạc quan. Sự lạc quan này – đặc biệt khi bị khuếch đại bởi hiệu ứng bầy đàn – có thể dẫn đến mở rộng sản xuất và đầu tư quá mức, khiến thị trường trở nên dễ tổn thương hơn trước những cú sốc bất ngờ. Tăng trưởng liên tục không phải lúc nào cũng đồng nghĩa với an toàn; ngược lại, nó có thể nuôi dưỡng tâm lý mạo hiểm quá mức và làm tăng rủi ro tích tụ trong hệ thống. Việc nguồn cung bất động sản tăng cùng với quá trình phát triển của nền kinh tế là điều hoàn toàn bình thường. Tuy nhiên, điều đáng lo ngại xuất hiện khi giá bất động sản tăng liên tục trong thời gian dài, trong khi nguồn cung mới lại bùng nổ vượt xa tốc độ tăng thu nhập của người dân và khả năng hấp thụ thực của thị trường. Theo số liệu thống kê từ VietstockFinance với 103 doanh nghiệp niêm yết đã có công bố Báo cáo tài chính quý IV/2024 thuộc nhóm bất động sản bao gồm nhà ở và khu công nghiệp cho thấy, tổng giá trị hàng tồn kho tính đến cuối năm 2024 là hơn 491 nghìn tỉ đồng. Đây là mức tồn kho cao kỷ lục trong hơn 2 thập niên qua đi kèm với gía bất động sản tại các đô thị lớn như Hà Nội tăng gấp đôi kể từ năm 2023. Điều này gây lo ngại về khả năng xảy ra khủng hoảng bong bóng bất động sản ở Việt Nam. Vì vậy, cần theo dõi chặt chẽ sự cân đối giữa tốc độ tăng nguồn cung, khả năng chi trả của người dân và nhu cầu thực để đảm bảo thị trường phát triển lành mạnh và ổn định.