Từ, nghĩa của từ và từ điển
Lưu ý: - Đây là bản bổ sung thêm phần về từ điển cho bài viết gốc tại đây - Phần nhiều trong này là những ghi chép của cá nhân...

Lưu ý:
- Đây là bản bổ sung thêm phần về từ điển cho bài viết gốc tại đây
- Phần nhiều trong này là những ghi chép của cá nhân tôi trong quá trình học tập, nghiên cứu tiếng Việt, sẽ có một vài khái niệm tôi không giải thích, các bạn có thể hỏi ở dưới phần bình luận, tôi sẽ trả lời trong khả năng có thể
Là một ngôn ngữ có thời gian phát triển lâu và trải qua nhiều thời kỳ, tiếng Việt sở hữu lượng từ lớn hơn nhiều so với những gì chúng ta đang sử dụng trong thời kỳ hiện nay.
Bởi lẽ tiếng Việt là sự tổng hợp từ nhiều ngôn ngữ - bao gồm tiếng Việt, Hán, Nguồn, Mường, Sách, Mày, Rục... Thêm vào đó, dựa vào vị trí địa lý và lịch sử, rất nhiều từ đã bị biến đổi về ngữ nghĩa tùy theo vùng miền và chiều dài lịch sử.
Bài viết sau đây mong muốn giới thiệu cho bạn đọc một cái nhìn sơ qua về “từ” và “nghĩa của từ” trong tiếng Việt để từ đó có thể hiểu hơn về tiếng mẹ đẻ của mình.
Bởi lẽ tiếng Việt là sự tổng hợp từ nhiều ngôn ngữ - bao gồm tiếng Việt, Hán, Nguồn, Mường, Sách, Mày, Rục... Thêm vào đó, dựa vào vị trí địa lý và lịch sử, rất nhiều từ đã bị biến đổi về ngữ nghĩa tùy theo vùng miền và chiều dài lịch sử.
Bài viết sau đây mong muốn giới thiệu cho bạn đọc một cái nhìn sơ qua về “từ” và “nghĩa của từ” trong tiếng Việt để từ đó có thể hiểu hơn về tiếng mẹ đẻ của mình.
Bài cùng chủ đề
Thêm một nghĩa của “Cái”
Có thể nói, một trong những thành tố thường xuyên và hay sử dụng nhất trong tiếng Việt hiện đại là “cái”. Thông thường, “cái” có một vài nghĩa sau: để chỉ một vật (cái bàn, cái ghế) hay để chỉ giống (con cái, giống cái), hoặc không là để chỉ một vật gì đó lớn (đường cái).
Tuy vậy, có một điều rất thú vị đó là có nhiều địa danh trong Nam Bộ có “Cái” đứng đầu, ví dụ như: Cái Cát, Cái Cối, Cái Chanh, Cái Muối, Cái Trầu, Cái Bè… Đối với địa danh, nhất là những địa danh ở Việt Nam, thông thường tên của địa danh luôn đi kèm với một ý nghĩa nào đó.
Nếu như tra cứu, bạn sẽ thấy rằng phần lớn các địa danh trên gắn liền với rạch và sông, vậy liệu “Cái” có nghĩa như vậy hay không?
Câu trả lời là có, tuy vậy, nghĩa “cái” này hiện nay không phổ biến. Trong từ điển Việt - Pháp cũ (Dictionaire Annamite – Francais) có giải thích từ “cái” này theo nghĩa là rạch ngang nhỏ. Thêm vào đó, do văn hóa Nam Bộ có sự quan hệ mật thiết với văn hóa Khmer nên ngôn ngữ cũng chịu sự ảnh hưởng, nhất là với những địa danh Khmer cũ. Cuối thế kỷ XIX, Trương Vĩnh Ký có lập bảng đối chiếu mối quan hệ này và một số yếu tố “cái” tương ứng với “prêk” - nghĩa là con rạch.
Cụ thể:
Cái Cát: Prêk Khsắc (rạch cát); Cái Cối: Prêk Thbai (rạch cối xay) hay Cái Trầu: Prêk Ambil (rạch muối). Còn yếu tố đứng sau thường dùng để chỉ người, vị trí, tính chất, cây cối...
Nếu nghiên cứu thêm về địa danh Nam Bộ, các bạn sẽ thấy nhiều hơn những sự tương đồng này ở các từ khác như: “Cổ” (với nghĩa là “đảo”: Cổ Cong, Cổ Tron), “Ngả” (với nghĩa là “nhánh sông”: Ngả Cạy, Ngả Tắt, Ngả Bát), “Xẻo” (với nghĩa là “lạch nhỏ”: Xẻo Sầm, Xẻo Nga)…
Và sự biến đổi từ - nghĩa từ theo địa lý, lịch sử
Ý nghĩa của một từ có thể khác nhau tùy theo thời kỳ và thay đổi suốt dọc theo quá trình lịch sử. Có nhiều từ ngữ mà hiện nay nghĩa gốc đã bị mất, thay vào đó là cách dùng phổ biến trong thời kỳ này.
Và “khốn nạn” là một từ như thế. Theo Từ Điển Hán Việt của Đào Duy Anh và Từ Điển Hán Việt của Nguyễn Lân, “khốn nạn” có nghĩa là khó khăn, cùng khổ, gặp tai vạ (“nạn” có nghĩa là tai vạ). Tuy vậy, hiện nay chúng ta phần lớn sử dụng “khốn nạn” theo nghĩa hèn mạt, đáng khinh. Nếu như nói “Anh chàng kia thật khốn nạn” thì ngay lập tức người nghe sẽ hiểu đối tượng được nói đến là loại đáng khinh, chứ không phải đang gặp cảnh khốn cùng.
Hay “nghèo” cũng là một từ mà nghĩa gốc bị mất. “Nghèo” trước đây được dùng với nghĩa “nguy hiểm, quẫn bách” và từ đồng nghĩa với “nghèo” hiện nay là “ngặt”.
Nếu nghiên cứu thêm về địa danh Nam Bộ, các bạn sẽ thấy nhiều hơn những sự tương đồng này ở các từ khác như: “Cổ” (với nghĩa là “đảo”: Cổ Cong, Cổ Tron), “Ngả” (với nghĩa là “nhánh sông”: Ngả Cạy, Ngả Tắt, Ngả Bát), “Xẻo” (với nghĩa là “lạch nhỏ”: Xẻo Sầm, Xẻo Nga)…
Và sự biến đổi từ - nghĩa từ theo địa lý, lịch sử
Ý nghĩa của một từ có thể khác nhau tùy theo thời kỳ và thay đổi suốt dọc theo quá trình lịch sử. Có nhiều từ ngữ mà hiện nay nghĩa gốc đã bị mất, thay vào đó là cách dùng phổ biến trong thời kỳ này.
Và “khốn nạn” là một từ như thế. Theo Từ Điển Hán Việt của Đào Duy Anh và Từ Điển Hán Việt của Nguyễn Lân, “khốn nạn” có nghĩa là khó khăn, cùng khổ, gặp tai vạ (“nạn” có nghĩa là tai vạ). Tuy vậy, hiện nay chúng ta phần lớn sử dụng “khốn nạn” theo nghĩa hèn mạt, đáng khinh. Nếu như nói “Anh chàng kia thật khốn nạn” thì ngay lập tức người nghe sẽ hiểu đối tượng được nói đến là loại đáng khinh, chứ không phải đang gặp cảnh khốn cùng.
Hay “nghèo” cũng là một từ mà nghĩa gốc bị mất. “Nghèo” trước đây được dùng với nghĩa “nguy hiểm, quẫn bách” và từ đồng nghĩa với “nghèo” hiện nay là “ngặt”.
Ví dụ: Trong Quốc âm thi tập - bản của Trần Văn Giáp có nói:
"Lòng người tựa mặt ai ai khác
Sự thế bằng cờ bước bước nghèo"
Hai câu này vốn chỉ sự thay đổi ở con người và thế sự, khiến cho người nói cảm thấy khó khăn, nguy hiểm. Từ “nghèo” ở đây không thể hiểu với nghĩa là thiếu thốn về mặt vật chất, bởi như vậy câu thơ thứ hai sẽ không có nghĩa. Nghĩa “nghèo” cũ nay chỉ còn trong những từ như “hiểm nghèo”, “ngặt nghèo” mà thôi.
Có lẽ chưa bao giờ các bạn nghĩ “phản động” theo nghĩa tốt. Thế nhưng trước thời 1945, từ này hoàn toàn không mang nghĩa tiêu cực. “Phản” có nghĩa là “chống lại”, “động” có nghĩa là “không đứng yên”, “phản động” trước kia được sử dụng với nghĩa “động tác phản ứng lại”.
Ví dụ:
“Sự phản động đầu tiên của chính phủ trước sự tăng giá toàn thể là quy định cho mỗi hóa vật một giá tối cao”.
"Lòng người tựa mặt ai ai khác
Sự thế bằng cờ bước bước nghèo"
Hai câu này vốn chỉ sự thay đổi ở con người và thế sự, khiến cho người nói cảm thấy khó khăn, nguy hiểm. Từ “nghèo” ở đây không thể hiểu với nghĩa là thiếu thốn về mặt vật chất, bởi như vậy câu thơ thứ hai sẽ không có nghĩa. Nghĩa “nghèo” cũ nay chỉ còn trong những từ như “hiểm nghèo”, “ngặt nghèo” mà thôi.
Có lẽ chưa bao giờ các bạn nghĩ “phản động” theo nghĩa tốt. Thế nhưng trước thời 1945, từ này hoàn toàn không mang nghĩa tiêu cực. “Phản” có nghĩa là “chống lại”, “động” có nghĩa là “không đứng yên”, “phản động” trước kia được sử dụng với nghĩa “động tác phản ứng lại”.
Ví dụ:
“Sự phản động đầu tiên của chính phủ trước sự tăng giá toàn thể là quy định cho mỗi hóa vật một giá tối cao”.
(Đỗ Đức Dục - Tạp chí Thanh Nghị - 1942).
Hiện nay, nếu tra từ điển Tiếng Việt, “phản động” được định nghĩa như sau: Có tư tưởng, lời nói hoặc hành động chống lại cách mạng, chống lại trào lưu tiến bộ. Trên thực tế, từ này đã bị “chết nghĩa” (không thể có nghĩa khác) nên hiện tại chúng ta đã bỏ cách dùng theo nghĩa gốc.
Địa lý cũng là một trong những nhân tố ảnh hưởng đến nghĩa của từ. Có những từ ở vùng này không có nghĩa gì xấu nhưng khi dùng rộng rãi, hay dùng ở vùng khác thì lại có nghĩa xấu.
“Ả” ở vùng Nghệ Tĩnh chỉ một người con gái bình thường. Thậm chí Nguyễn Du cũng dùng từ này với nghĩa hoàn toàn bình thường trong câu “Đầu lòng hai ả tố nga”. Nhưng hiện tại, trong tiếng nói phổ thông và đặc biệt vùng Bắc Bộ, “Ả” đồng nghĩa với không đứng đắn, sai trái, và thậm chí liên quan đến pháp luật (Từ “Ả” được dùng để chỉ tội phạm nữ trong báo chí pháp luật).
Hay như “Cả” là một từ không xuất hiện ở vùng Nam Bộ, bởi đây là từ phạm húy, một trong những tội rất nặng trong thời phong kiến.
Theo bài “Tị Húy trong sinh hoạt của người Việt Nam của Phạm Văn Bân” thì:
Hiện nay, nếu tra từ điển Tiếng Việt, “phản động” được định nghĩa như sau: Có tư tưởng, lời nói hoặc hành động chống lại cách mạng, chống lại trào lưu tiến bộ. Trên thực tế, từ này đã bị “chết nghĩa” (không thể có nghĩa khác) nên hiện tại chúng ta đã bỏ cách dùng theo nghĩa gốc.
Địa lý cũng là một trong những nhân tố ảnh hưởng đến nghĩa của từ. Có những từ ở vùng này không có nghĩa gì xấu nhưng khi dùng rộng rãi, hay dùng ở vùng khác thì lại có nghĩa xấu.
“Ả” ở vùng Nghệ Tĩnh chỉ một người con gái bình thường. Thậm chí Nguyễn Du cũng dùng từ này với nghĩa hoàn toàn bình thường trong câu “Đầu lòng hai ả tố nga”. Nhưng hiện tại, trong tiếng nói phổ thông và đặc biệt vùng Bắc Bộ, “Ả” đồng nghĩa với không đứng đắn, sai trái, và thậm chí liên quan đến pháp luật (Từ “Ả” được dùng để chỉ tội phạm nữ trong báo chí pháp luật).
Hay như “Cả” là một từ không xuất hiện ở vùng Nam Bộ, bởi đây là từ phạm húy, một trong những tội rất nặng trong thời phong kiến.
Theo bài “Tị Húy trong sinh hoạt của người Việt Nam của Phạm Văn Bân” thì:
“Khi bị Pháp chiếm làm thuộc địa, cơ quan cai trị ở mỗi xã miền Nam được gọi là Hội Đồng Tề, trong đó người đứng đầu được gọi là Hương Cả”.
Thế nên gọi “Cả” để chỉ người anh/chị lớn trong nhà rất dễ bị kị húy, và bởi vậy, người Nam Bộ thay “Cả” bằng “Hai” và có: anh Hai, chị Hai, bà Hai,…
Tại sao từ điển quan trọng, thực trạng khó khăn trong tra cứu và tạo từ mới trong tiếng Việt
Do những thay đổi về nghĩa của từ theo thời gian, việc ghi chép lại những từ ngữ được dùng trong các thời kỳ đóng vai trò quan trọng trong quá trình nghiên cứu ngôn ngữ cũng như trong quá trình sáng tác văn học hoặc tìm hiểu, nghiên cứu về văn học của một quốc gia.
Hiện nay, thực trạng từ ngữ không được ghi chép lại là một trở ngại với những người sử dụng ngôn ngữ chính thống trong công tác sáng tác và đặc biệt là dịch thuật. Do sự nghèo nàn về ghi chép, việc tạo ra từ mới trong tiếng Việt rất khó. Các thuật ngữ mới trong các ngành kỹ thuật xuất hiện liên tục nhưng không có thống kê chính thức về việc các dịch giả khác nhau dịch những thuật ngữ này như thế nào khiến chúng ta khó thống nhất được cách thứ tiếp cận từ ngữ đó.
Về đề cập đến từ lóng:
Và kể cả có đi chăng nữa, thì những ghi chép về thuật ngữ không tuân theo nguyên tắc của từ điển chính thống. Hệ quả là khó có thể biết được liệu những từ ngữ được dịch có còn phù hợp với bối cảnh hiện tại hay không. Người làm từ điển cần có căn cứ về việc đưa từ vào từ điển, đặc biệt trong thời kỳ công nghệ thông tin hiện nay, khi số lượng từ mới sản sinh hàng năm thường không tuân theo những quy luật ngôn ngữ thông thường mà tuân theo quy luật và xu hướng của xã hội. Việc này vừa tốt, vừa không tốt. Việc từ mới liên tục được sinh ra cho thấy nhu cầu lớn trong việc sử dụng ngôn ngữ mẹ đẻ nhưng do không có ghi chép lại có hệ thống, sẽ khó để trả lời ba câu hỏi lớn nhất về từ ngữ sau:
- Từ đó được tạo ra lúc nào, bằng cách nào, theo nguyên tắc nào? (Từ hội, Từ nguyên)
- Từ đó có ý nghĩa như thế nào (Nghĩa của từ)
- Từ đó được sử dụng trong bối cảnh nào (Ngữ dụng)
Tôi sẽ lấy hai ví dụ về việc tìm hiểu và tạo ra từ mới.
Ví dụ 1: Tìm hiểu từ mới:
Từ "Chịch". Tôi sẽ cần phải trả lời ba câu hỏi phía trên để có thể đưa từ này để hoàn thành quá trình ghi chép và đưa vào từ điển.
- Từ đó được tạo ra lúc nào, bằng cách nào, theo nguyên tắc nào?
Chịu (thấy vấn đề chưa?)
- Từ đó có ý nghĩa như thế nào?
Còn phải hỏi à?
- Từ đó được sử dụng trong bối cảnh nào?
Internet, tiếng lóng, không nằm trong văn bản chính thống.
Và nếu là người làm từ điển, tôi sẽ chỉ có thể ngao ngán chờ đợi rằng trong quãng đời này, từ này sẽ biến mất sau khoảng một chục năm. Hi vọng vậy.
Ví dụ 2: Tạo ra từ mới thông qua dịch thuật:
Giả sử như từ "Absurdism" chưa bao giờ được dịch sang tiếng Việt (giả sử thôi nhé). Tôi sẽ cần phải phân tích làm cách nào để dịch được từ này và tạo ra từ mới.
- Tôi biết rằng cấu tạo từ của "Absurdism" bao gồm từ gốc "Absurd" và hậu tố "-ism". Nghĩa của "Absurd" có nghĩa là "Phi lý" và hậu tố "-ism" có nghĩa là chỉ về lý tưởng, tư tưởng, chủ nghĩa, v.v. Như vậy tôi có thể có từ "Chủ nghĩa phi lý"
- Có một cách khác để có thể dịch từ Absurd, đó là dịch thông qua một ngôn ngữ khác (dịch bắc cầu). Tôi biết rằng tiếng Trung và tiếng Việt có thể trao đổi về âm cho nhau, nên tôi sẽ xem thử xem Absurd được dịch sang tiếng Trung như thế nào và thành từ Hán-Việt như thế nào. Tôi có từ: 荒誕 với phiên âm Nôm là "Hoang đản". Nếu chiếu theo nguyên tắc ngữ pháp của tiếng Trung, "Absurdism" sẽ là "Hoang đản chủ nghĩa" nhưng đây không phải theo lối ngữ pháp xuôi của tiếng thuần Việt, nên sẽ chuyển thành "Chủ nghĩa hoang đản". Tuy nhiên cách dịch bắc cầu này tiềm ẩn nhiều nguy hiểm về mặt nghĩa, do những thay đổi về cách sử dụng từ ngữ giữa hai ngôn ngữ Trung và Việt. Thay đổi này do nhiều yếu tố tác động, ví dụ như: lịch sử, địa lý, thời gian, phiên âm, v.v.
- Nếu như có cả hai từ này cùng xuất hiện một lúc, với nghĩa giống nhau: "Chủ nghĩa phi lý" và "Chủ nghĩa hoang đản", chúng ta sẽ cần theo dõi xem từ nào được sử dụng nhiều hơn trong thực tế văn bản chính thống hoặc văn bản khoa học để quyết định sẽ nên sử dụng từ nào.
Các bạn có thể tham khảo bài viết dưới đây về một số nguyên tắc tạo từ mới:
Về mặt tra cứu tiếng Việt, dưới đây là một số nguồn tra cứu cá nhân tôi hay sử dụng trong quá trình nghiên cứu, dịch thuật, sáng tác:
Tra cứu Hán Việt, Hán Nôm:
Đại Nam Quấc Âm Tự Vị của Huỳnh Tịnh Của (có bản PDF):
Các nghiên cứu ngôn ngữ:
Nguồn gốc những điểm đặc biệt trong bảng chữ cái chữ Quốc ngữ
Lời người dịch Sau khi đọc bản dịch tiếng Anh “The origin of the peculiarities of the Vietnamese alpabet” do Alexis Michaud dịch[1] từ bản tiếng Pháp “L’origine des particularités de l’alphabet vietnamien”, của André-...khoavanhoc-ngonngu.edu.vn
Lời người dịch Sau khi đọc bản dịch tiếng Anh “The origin of the peculiarities of the Vietnamese alpabet” do Alexis Michaud dịch[1] từ bản tiếng Pháp “L’origine des particularités de l’alphabet vietnamien”, của André-...khoavanhoc-ngonngu.edu.vn
Tư liệu biên khảo văn học:
Tài liệu tham khảo:
- Tiếng Việt và các ngôn ngữ Đông Nam Á của Viện Ngôn Ngữ Học
- Từ hội học - Giáo trình Việt Ngữ của Đỗ Hữu Châu
- Từ Điển Hán Việt của Đào Duy Anh, Từ Điển Hán Việt của Nguyễn Lân
- Từ hội học - Giáo trình Việt Ngữ của Đỗ Hữu Châu
- Từ Điển Hán Việt của Đào Duy Anh, Từ Điển Hán Việt của Nguyễn Lân
Link tham khảo:

Khoa học - Công nghệ
/khoa-hoc-cong-nghe
Bài viết nổi bật khác
- Hot nhất
- Mới nhất

Ng’bthg
Em ở miền Nam, thường hay nghe một số từ trên mà vẫn chưa thực sự hiểu rõ, cảm ơn bài viết của anh rất nhiều.
- Báo cáo

The Merc


- Báo cáo

Thành Minh
[Đã xóa]

The Merc

Sai nếu bạn hiểu theo mặt cấu thành từ và nguồn gốc từ, nhưng lại không sai về mặt ý nghĩa. Thực ra chuẩn ra phải là "phụ mẫu" nhưng mà dùng nhiều và được công nhận nhiều thì thành đúng thôi.
Còn từ này bắt đầu dùng ở phổ thông bao giờ thì tôi không rõ, nhưng tôi nghĩ rằng đây là do ảnh hưởng trong truyền thống người đàn ông là người chủ gia đình của văn hóa phong kiến.
- Báo cáo

Gwens83

"Phụ huynh" đó có thể xuất phát từ dạng tắt của "quyền huynh thế phụ", vốn chỉ người có authority trong nhà. Dạng nói tắt này tiếng V cũng nhiều, kiểu "kinh tế" là từ cụm "kinh bang tế thế", "tang thương" là từ "thương hải vi tang điền".
Xưa người có authority chỉ là cha anh nên là vậy, sau này có thêm mẹ dưng ngta vẫn quen dùng từ cũ.
Nên thực chất ko phải từ đó bị đổi nghĩa (nó vẫn chỉ ng có authority trong nhà y như xưa), nó cũng ko bị dùng sai, mà chính là khái niệm nó ám chỉ (ng có authority trong nhà) đã thay đổi theo time nên cái áo cũ "phụ huynh" bị thành hơi lệch.
- Báo cáo

The Merc

Cũng không hẳn là tắt mà là phép "Hội Ý" trong Lục Thư (6 cách tạo từ trong tiếng Hán) và nguồn gốc là ghép từ hai khái niệm "Kinh Quốc" và "Tế Dân" (Nguồn: https://baike.baidu.com/item/%E7%BB%8F%E6%B5%8E)
- Báo cáo

Gwens83

Tôi nhớ vd từ sgk và trong wiki cũng ghi vậy mà:
https://vi.wikipedia.org/wiki/Kinh_t%E1%BA%BF
Có thể cả sgk và wiki đều sai, song đọc etymology trong link bạn đưa thì thấy là "governing the country to the world" cũng hợp kinh bang tế thế đó chứ, nhất là như nói nó là "huge concept in ancient Chinese culture and ancient literature" thì càng có vẻ là kinh bang tế thế?
Tôi ko biết tiếng Tàu hay bính âm dưng Jingbang ko phải là phiên của "kinh bang"?
(dù có 1 khả năng là từ kinh quốc tế dân sao đó về Vn bị phiên thành kinh bang tế thế, nếu vậy thì cũng là mèo trắng mèo đen thôi)
- Báo cáo

The Merc

À, tôi đọc thiếu, bao gồm cả ba: "Kinh bang", "Kinh quốc", "Tế dân". Đoạn nguồn gốc từ thì có nghĩa là "Một từ "Kinh tế" bao gồm "Kinh bang", "Kinh quốc", "Tế dân"...
- Báo cáo

Pretty/Unpretty
Cảm ơn anh vì bài viết
- Báo cáo

The Merc


- Báo cáo

Viet Anh Tran

Mẫu mực.
- Báo cáo

luong1993
1 bận,em về nhà một người bạn ở Hưng Yên chơi.Tới bữa,2 đứa mò xuống bếp nấu nướng chuẩn bị làm cơm.Nó bảo:
Ê mày,qua cửa hậu lấy tao cái chớp hộ với?
Lần đầu nghe thấy từ lạ,em thắc mắc hỏi lại
Chớp là gì vậy bay?
Nó bảo,chớp là cái chảo đó mày,quê tao người ta hay nói thế.Em nghĩ,quái sao lại gọi chảo là chớp được nhỉ.Thông thường,người ta hay dùng từ chảo chớp để diễn tả một hành động nào đó đảo qua đảo lại rất nhanh,đằng này họ lại gọi nó như cái dụng cụ nấu ăn.KÌ,thời xưa các cụ hay gọi là cái "Xanh" thì còn được
- Báo cáo

The Merc

Phương ngữ thì lại là vấn đề tương đối phức tạp khi tìm hiểu về nguồn gốc của từ. Bởi vì nếu nhìn vào phương ngữ thì đôi khi người ta cần phải xem xét những yếu tố ảnh hưởng đến phương ngữ, bao gồm từ âm vị, phát âm, ghi âm, trại âm nữa. Ví dụ như vùng đồng bằng Bắc Bộ có nhiều vùng gọi "Bố" là "Thầy", thì từ "Thầy" đấy ở đâu ra là một trong những câu hỏi tương đối khó. Tôi đã thử tìm hiểu nhưng không thấy có câu trả lời hơp lý. Bạn có thể ghi lại, thêm cả thời gian thấy từ đấy, biết đâu sau này lại thành một cái tra cứu được về phương ngữ của vùng đấy ở Hưng Yên thì sao
,

- Báo cáo