Krishna là vị Thần « nổi » nhất trong các vị Thần Ấn Độ, ngang ngửa với Rama (hóa thân thứ 7 của Vishnu). Những người Ấn ngoan đạo, thực hành một pháp môn gọi là Bakhti Yoga (Yoga của sự sùng bái), tối ngày cầu kinh lễ lạy, đại đa số đều lấy Krishna làm đối tượng. Krishna có đặc điểm là sống cùng một lúc với 16 ngàn bà vợ ! Phải hiểu là Ngài ở trong tim của tất cả những ai yêu kính Ngài. Do Thái và Ky Tô Giáo cũng có khi sử dụng biểu tượng này.
Tuy nhiên, mặc dù có 16 000 bà vợ, Krishna lại đặc biệt thương yêu một người đẹp thứ 16 ngàn lẻ một ! Nàng tên là Radha, một người đàn bà đã có chồng … Ôi ! Tình yêu cuồng nhiệt bao giờ cũng là một mối tình ngang trái ! Ở đây cần đem câu chuyện vào bối cảnh xã hội Ấn khi tuyệt đại đa số các cuộc tình duyên đều được gia đình sắp đặt (An Nam ta cách đây không lâu cũng vậy). Người mình yêu thực sự gần như bao giờ cũng là người mà mình không thể cận kề. Tình là giây oan, yêu là ngăn trở, là cấm đoán, là tương tư vô vọng … Biểu tượng của Radha là : bất cứ ai, trong bất kỳ hoàn cảnh ngang trái nào, cũng đều có thể là đối tượng của tình yêu cuồng nhiệt của Krishna. Radha là trung gian để những ai kêu cầu Krishna có thể đạt được đến Ngài. Hare, một tên gọi khác của Radha, được tụng niệm trong câu thần chú nổi tiếng  « Hare Krishna » !
 
Krishna sanh ra trong một hoàn cảnh khó khăn, được dưỡng dục bởi cha mẹ nuôi là những kẻ chăn bò, sống thời niên thiếu nghèo hèn, lớn lên mang nặng một mối tình oan trái, nên rất dễ hòa đồng với nhân thế bình thường. Ngài lại có thêm  một đặc điểm vô cùng quan trọng là cũng phải chết đi như mọi con người, nên càng làm tăng ý nghĩa nhập thế kết hợp với loài người.
Krishna giáng trần trong điều kiện rất đặc biệt, giữa một bà mẹ hờ cho mượn tử cung (một vấn đề thời sự) và một bà mẹ nuôi, chưa kể một ông cha nuôi, và một ông bác đồng thời cũng là cha hờ, muốn ăn thịt mình !  Câu chuyện như sau :
Kamsa là một quỷ vương ăn thịt người vô cùng nguy hiểm. Vishnu có bổn phận phải « giải quyết » ông này. Ngài sắp đặt một kế hoạch cùng với Nữ Thần Nidra. Nidra là vị Thần điều khiển giấc ngủ của Vishnu mang năng lực làm đóng mí mắt của Ngài (có một pháp môn tên là Yoga Nidra, tức Thiền … ngủ !). Có thuyết cho rằng Nidra là em của Vishnu, và cũng là Parvati, vợ của Shiva ! Điều này không có gì là lạ, vì trong bài trước chúng ta đã hiểu  rằng mọi Nữ Thần đều chỉ là một Nữ Thần duy nhất, xuất phát từ Nữ Tính của Shiva …
Kamsa từng soán đoạt ngôi Vua của thân phụ mình, nên luôn sợ bị người trong gia đình lật đổ. Một nhà tiên tri lại cho Kamsa biết một đứa con của Devaki, em gái ông, sẽ giết ông. Vì thế ông quyết định hạ sát tất cả các hài nhi mà Devaki hạ sanh. Sáu em bé đầu tiên, đều là con của chính Kamsa, bị mần thịt. Bào thai thứ bảy không phải là con của Kamsa mà là Vishnu hóa sanh vào bụng Devaki. Đồng thời bà Thần Ngủ Nidra nhập vào bụng của một chị nông dân chăn bò tên là Yasoda. Khi hai bà cùng lâm bồn thì hai hài nhi được đem tráo cho nhau. Như dự định, hóa thân của Nidra bị Kamsa lầm tưởng là con của Devaki, nên giết đi. Nidra thoát khỏi nhục thân của đứa bé, và bay lên trời dưới dạng một nữ thần có màu xanh đậm, sau khi bảo cho Kamsa biết : kẻ sẽ giết ông một ngày kia, đã chào đời bình yên.
Kẻ ấy không ai khác hơn là hài nhi Krishna, hóa thân của Vishnu, được giao cho vợ chồng Yasoda nuôi dưỡng, cùng với hai hài nhi khác cũng được cứu khỏi nanh vuốt của quỷ vương Kamsa, một trai, tên là Balarama, và một bé gái tên Subhadra. Balarama sẽ được biết đến như một « phụ tá » đắc lực trong các cuộc phiêu lưu của  Krishna. Còn Subhara sau được gả cho Arjuna, một trong 5 anh em Pandava, và sẽ cho ra đời kẻ sống sót duy nhất của cả hai nhà Pandava và Kaurava sau cuộc đại thế chiến hạch nhân. Nhưng đó là chuyện về sau.
Câu chuyện Kamsa như thế hoàn toàn tương hợp với chuyện Thần Chronos trong huyền thoại Hy Lạp. Trong bài trước, chúng ta đã biết Chronos thiến cha mình là Ouranos. Sau đó ông cũng được tiên tri là một trong các đứa con của ông sẽ nổi lên lật đổ ông. Ông liền ăn thịt tất cả các hài nhi mà vợ ông là Rhea hạ sanh. Đến khi em bé cuối cùng , là Zeus, chào đời, thì Rhea đưa cho ông nuốt một cục đá bọc trong khăn tã, thay vì đứa bé, và đem Zeus đi dấu ở đảo Crète, giao cho các Thần địa phương Naiades nuôi dưỡng. Zeus chính là nguồn gốc của chữ Deus, Dieu, tức Thiên Chúa trong Ky Tô Giáo.
 
Thật ra trong chuyện Kamsa cũng có thuyết cho rằng Balarama (« phụ tá » của Krishna) và 6 hài nhi bị Kamsa giết không phải là con ông mà là con của Devaki và Vasudeva, chú của Arjuna, một trong 5 anh em Pandava. Balarama được chuyển từ bụng của Devaki sang bụng của Rohini, người vợ thứ của Vasudeva để khỏi bị Kamsa giết. Còn Subhadra thì là con gái của Rohini và Vasudeva. Sau cô được gả cho anh họ mình là Arjuna, và sẽ sanh ra kẻ sống sót duy nhất của cả hai nhà Pandava và Kaurava.
 
CUỘC ĐỜI KRISHNA
 
            Krishna lớn lên trong không khí đồng quê và tình yêu dạt dào của bà mẹ nuôi chăn bò. Ngài được hình dung như một chú bé bụ bẫm rất được cưng chiều nên đôi khi cũng có đôi chút ngỗ nghịch. Khi ở tuổi thiếu niên Ngài đem giấu quần áo của các phụ nữ đi lễ ở đền thờ và thích thú ngắm xem các bà này trần truồng chạy tức tưởi kiếm vải che thân ! Khi lớn hơn chút nữa, cùng với « phụ tá » Balarama, Ngài chiến thắng các quỷ dữ tác hại trong vùng, có khi do chính Kamsa phái đến vì nghi ngờ Ngài là con của Devaki, ngày kia sẽ giết ông. Đôi khi Krishna cũng đứng về phía người dân nghèo hèn để chống lại chính các vị Thần, kể cả Indra, Vua của chư Thần : Krishna dạy dân chúng đừng đem lễ vật hiến cho Indra (tốn kém vô ích, chỉ làm giàu cho đám thày tu), mà nên để dành phụng dưỡng những … con bò (có ích lợi hơn). Indra giận dữ gây bão lụt đe dọa dân chúng. Krishna giơ ngón tay dời một quả núi đến che chở cho các làng mạc liên hệ. Từ truyền thuyết này, nguồn gốc của tập tục thờ bò được gán cho Krishna, bên cạnh những nguyên do có tính cách thực dụng (bò đem lại sữa, nguồn thức ăn bổ dưỡng cho những người ăn chay, hoặc quá nghèo không có thịt để ăn, phân bò cũng được phơi khô và dùng như củi, v.v…).
 
            Như đã được định trước, khi trưởng thành, Krishna tìm đến hạ sát Kamsa. Ngài cũng nổi tiếng trong việc sát hại hai nhân vật khác là Jarasandha và Shishupala.
 
            Trong chuyện Jarasandha, một vị Vua cưới hai chị em sanh đôi và thề sẽ yêu hai bà một cách đồng đều.  Khổ nỗi hai bà không có con. Một Đạo Sĩ tặng nhà Vua một trái xoài, ăn vào sẽ thụ thai. Nhà Vua buộc phải xẻ ra, chia đều cho hai bà vợ. Hai bà ăn xong, thụ thai, nhưng mỗi bà lại chỉ sanh ra có một nửa hài nhi ! Họ quyết định đem vứt bỏ hai nửa hài nhi ấy ngoài đường. Một nữ quỷ tên là Jara đi qua, ráp hai nửa hài nhi này lại thành một đứa bé duy nhất và đem trả lại cho cha mẹ nó. Đứa bé được đặt tên là Jarasandha, nghĩa là « ráp lại bởi Jara ». Vị Đạo sĩ « xoài » tiên tri đứa bé sẽ trở thành một vị Vua có sức mạnh vô địch trong tất cả các vị Vua. Quả vậy, lớn lên, Jarasandha đánh bại tất cả các quân vương,  tương tự như Lý Ngươn Bá, Đệ Nhứt Anh Hùng Truyện Thuyết Đường. Rồi, không những thế, ông còn quyết định bỏ tù tất cả các vị Vua thất trận, chờ đem thiêu sống họ để tế lễ Shiva ! Mặt khác, khi Krishna tổ chức bắt cóc công chúa Rukmini để kấy nàng làm vợ, thì Jarasandha đem quân ngăn cản, suýt làm cho Krishna thất bại, phải nhờ Balarama, người em « phụ tá », cật lực cầm chân lực lượng truy kích. Krishna quyết định « xử lý » Jarasandha. Ngài thuyết phục Bhima, người thứ hai trong 5 anh em Pandava, giao đấu với Jarasandha. Bhima được chỉ cho biết nhược điểm của đối thủ, nên giết Jarasandha bằng cách xé ông ra làm hai mảnh, khiến nhà cựu vô địch này quay trở về tình trạng như lúc mới mở mắt chào đời !
            Như đã nói ở trên, Krishna có một người yêu là công chúa Rukmini. Nhưng nàng lại được hứa gả cho một vị vua tên là Shishupala. Ông này sanh ra với 3 cái đầu, 4 cánh tay, và chỉ biết thốt lên những tiếng kêu cầm thú. Trước một trẻ sơ sinh như vậy, cha ông đã dự định giết bỏ đi, nhưng có một tiếng nói bảo rằng chỉ có vị Vua sẽ làm rụng hai cái đầu và hai cánh tay phụ trội của đứa bé khi đặt nó trên đùi mình, mới được giết nó. Vấn đề trở nên tréo cẳng ngỗng, vì nếu thế thì đứa bé trở nên bình thường, cần gì phải giết nó nữa ? Bà mẹ tràn trề hy vọng (như mọi bà mẹ), và đặt đứa bé lên đùi của tất cả các đấng quân vương ghé qua nước bà. Krishna mò đến. Bà đặt đứa bé lên đùi Krishna. Hai cánh tay và hai cái đầu phụ trội (cùng một con mắt thứ ba) rụng xuống. Đứa bé trở thành bình thường, kể cả tiếng nói. Như thế, Krishna sẽ là kẻ giết đứa bé. Bà mẹ năn nỉ xin vị Thần chịu đựng đủ 100 sự hỗn láo xấc xược của Shishupala trước khi ra tay sát  thủ. Krishna nhận lời, nhịn Shishupala, kể cả khi cậu này mồi chài Rukmini, người yêu của Ngài. Mãi đến màn xấc xược thứ 101, khi Shishupala diễu cợt và nghi ngờ tính cách quân vương của Ngài, thì Krishna mới phản ứng. Cần nói là Krishna đã trở thành một vị Vua sau khi giết chết Kamsa, ông quỷ vương, cha hờ, và bác ruột ăn thịt người của Ngài. Một vị Vua không thể để cho tư cách quân vương của mình bị nghi ngờ. Thế là Krishna tung « pháp luân » (một vũ khí của Vishnu) ra, xoay tít trên không trung bay đến cắt đứt cái đầu còn lại của Shishupala. Liền khi ấy, một vầng sáng thoát khỏi thân xác không đầu của Shishupala, đến quỳ xuống hành lễ trước Krishna, trước khi nhập vào thân thể của Ngài. Đối thủ của Krishna và chính Krishna thật ra chỉ là một. Chúng ta cũng nhớ lại trong chuyện Nữ Thần Kali, hình ảnh tia máu tuôn từ cái đầu bị Kali chặt đứt đặt trên mâm, chảy vào miệng của Kali. Cái đầu bị chặt cũng chính là đầu của Kali ...
            Sau cuộc thế chiến, Krishna, cùng với muôn vàn sinh linh đã bỏ mình trong khói lửa, cũng phải kinh qua sự chết. Một mũi tên của một người đi săn lầm lẫn bắn trúng gót chân Ngài, như trong chuyện anh hùng Achille của huyền thoại Hy Lạp và chuyện Siegfried trong huyền thoại Đức. Thế là Krishna từ trần ... Nhưng đó là chuyện về sau, chúng ta sẽ có dịp nhắc lại.
 
            Bây giờ xin đề nghị cùng quý bạn duyệt qua vài câu chuyện vui vui về nguồn gốc của các anh em Pandava và Kaurava.
NÀNG CÔNG CHÚA HÔI MÙI CÁ
 
            Một núi đá yêu một giòng sông. Núi giữ sông lại, không cho chảy đi. Vasu, một vị Vua, đi ngang, đá văng ngọn núi và giải thoát giòng sông. Giòng sông mang thai, sanh một nàng tiên. Vasu lấy nàng tiên. Ngày nọ nàng tiên cho biết nàng đang ở trong thời gian thuận tiện, và muốn được gần Vasu. Vasu đang đi săn, nhận được thông điệp của vợ, liền sửa soạn về nhà. Nhưng, khổ nỗi, tổ tiên của Vasu lại ra lệnh đòi Vasu phải hoàn tất cuộc săn và đem thú săn được về tế lễ. Lệnh tổ tiên không thể cãi. Nhưng sự ham muốn đã ngập tràn con người Vasu. Thế là Vasu xuất tinh trên một cái lá, trao lá ấy cho một chim ưng, dặn đem về cho vợ mình. Trên đường, chim ưng bị một con chim khác tấn công, làm rơi cái lá xuống một phụ lưu của sông Hằng. Một con cá nuốt tinh dịch của Vasu. Con cá ấy là một nàng tiên bị Brahma phạt phải đội lốt cá cho đến khi sanh được hai trẻ sanh đôi. Mười tháng sau, cá bị vướng lưới. Mổ bụng ra, có hai hài nhi, một nam một nữ. Cá hóa nàng tiên, cho biết đó là các con của Vasu. Hài nhi nam sau làm Vua. Hài nhi nữ tên là Satyavati sau trở thành một cô gái diễm kiều nhưng lại rất hôi mùi cá ! Thân phụ nàng không chịu nổi mùi hôi, đem nàng tặng cho vị thủ lãnh dân chài trong vùng nhận làm con nuôi. Satyavati đánh cá với dân chài, sống đời bình dị cho đến khi một Đạo Sĩ say mê nhan sắc của nàng và đòi được gần nàng trên một cù lao. Satyavati từ chối, viện cớ có nhiều thuyền chài quanh đó. Đạo Sĩ vận dụng thần thông khiến một màn sương dầy dặc phủ quanh hai người. Satyavati đồng ý hiến thân cho Đạo Sĩ, với điều kiện ông phải làm cho nàng không còn hôi mùi cá nữa. Đạo Sĩ thỏa thuận, và xong việc, ra đi. Satyavati mang thai, sanh ra Vyasa, người sẽ kể chuyện Mahabharata cho vị Thần đầu voi Ganesh ghi lại. Tuy nhiên, cuộc đời tình ái cùa Satyavati chưa hết, và sẽ tiếp diễn với chuyện Shantanu.
“Nhiều người cho rằng tăng sĩ không làm gì cả, nhưng thực ra công việc buông bỏ các uế nhiễm là công việc khó khăn nhất trên đời.  Việc làm ở thế gian còn có ngày nghỉ, nhưng công việc của người tu không có lúc nào ngơi nghỉ.  Đó là thứ công việc ta phải liên tục thực hành 24 giở một ngày.  Đôi khi người tu sĩ cũng mệt mỏi, nhưng vẫn phải thực hành.  Nếu không, ai sẽ làm việc đó cho ta?  Đó là bổn phận của ta, chứ không phải của ai khác.
Pháp của Phật là akaliko – vô thời hạn.  Lý do tại sao ta chưa thấu đạt Pháp của ngài là vì ta có quá nhiều thời gian: thời gian cho thứ này, thứ kia, thời gian làm việc, thời gian nghỉ ngơi, thời gian để ăn, để ngủ…  Cả cuộc đời ta xoay vần quanh quỹ thời gian, và kết cục là ta không có cơ hội để nhìn thấy sự thật rõ ràng bên trong ta.  Nên ta phải biến sự thực hành của mình thành vô thời hạn.  Khi đó, sự thật sẽ hiện lên trong tâm ta
“Đừng nghĩ rằng những giới luật nhỏ không quan trọng.  Như ngài Ajaan Mun có lần nói, phiến gỗ không bao giờ bay vào mắt, nhưng bụi gỗ thì có thể -chúng có thể làm ta mù mắt”.
“Lý do Đức Phật không cho phép tăng sĩ được chạm đến người phụ nữ không phải vì họ có điều gì không tốt.  Nhưng lý do là vì các tăng sĩ có điều không tốt: Họ vẫn còn các tâm uế nhiễm, do đó họ phải được kiềm chế”.
13. Đối với những ai chọn đời sống xuất gia, người khác phái là cám dỗ lớn nhất khiến họ phải rời bỏ con đường đạo.  Nếu Ajaan Fuang dạy các tăng sĩ, ngài sẽ nói, “Phụ nữ giống như dây leo.  Lúc đầu, họ có vẻ mềm yếu, nhẹ nhàng, nhưng nếu con để họ bám vào con, họ sẽ quấn quanh con cho đến khi con không còn cựa quậy, cuối cùng họ sẽ xiết chết con”.
Khi dạy các tu nữ, ngài Ajaan Fuang sẽ cảnh báo họ về đàn ông.  Có lần một tu nữ định rời chùa, về nhà vì biết rằng cha cô đã chuẩn bị cho cô lập gia đình.  Cô thưa chuyện với ngài thiền sư và xin một lời khuyên.  Ngài nói, “Hãy tự hỏi mình.  Con có muốn sống trong rọ hay tự do ở ngoài?”  Kết quả, cô quyết định không chui vào rọ.
14. “Nếu người tăng sĩ nhận thấy mình đang nghĩ về tính dục, hãy sờ tay lên đầu để tự nhắc nhở mình là ai”.
15. Ajaan Fuang thường kể nhiều câu chuyện về thời gian sống với thầy minh, ngài Ajaan Lee.  Một trong những câu chuyện tôi tâm đắc như sau:  Có lần một nhóm đệ tử ở Bangkok của ngài Ajaan Lee tổ chức đi hành thiền với ngài trong rừng. Họ hẹn gặp tại Hua Lampong, nhà ga chính tại Bangkok, để đáp tàu đi Lopburi ở phương Bắc. Khi cả nhóm gặp nhau ở sân ga, họ nhận ra rằng có nhiều người mang theo ít nhất hai va-li lớn những đồ ‘cần dùng” cho chuyến đi.  Ngay cả các vị tăng sĩ ở Bangkok cũng mang rất nhiều hành lý.  Thấy vậy, ngài Ajaan Lee không nói gì, chỉ dẫn đoàn đi về hướng Bắc dọc theo đường ray tàu hỏa.  Vì ngài đi bộ, cả nhóm phải đi theo, nhưng chẳng bao lâu thì những người khuân nhiều hành lý bắt đầu than thở, “Thưa Sư, sao ngài bắt tụi con đi bộ?  Tụi con phải mang quá nhiều hành lý nặng!”
Lúc đầu Ajaan Lee không trả lời, nhưng cuối cùng khi vẫn tiếp tục đi bộ, ngài bảo họ, “Nếu nặng, thì khiêng làm gì?”. Khi nhóm đệ tử hiểu ra ý ngài, họ dừng lại, bỏ bớt đi những thứ không cần thiết trong hành lý của mình. Khi cả nhóm đến trạm tàu kế tiếp, Ajaan Lee nhận thấy họ đã làm gọn
16. “Khi sống trong chùa, hãy xem như ta đang sống một mình.  Điều đó có nghĩa là khi ta đã hoàn tất các trách nhiệm chung với chúng –thọ trai, đọc kinh, quét dọn, vân vân- ta không phải liên hệ với bất cứ ai.  Hãy trở về thất để hành thiền”.
“Khi sống một mình, hãy xem như ta đang sống trong tu viện: Hãy lập thời biểu sinh hoạt, và tuân thủ nó”.
17. Khi tôi đến Wat Asokaram –một tu viện rất lớn- để qua mùa an cư đầu tiên của tôi, Ajaan Fuang bảo, “Nếu người ta hỏi con bằng tiếng Thái, hãy trả lời bằng tiếng Anh.  Nếu họ hỏi bằng tiếng Anh, hãy trả lời bằng tiếng Thái.  Sau một lúc, người ta sẽ mệt mỏi khi nói chuyện với con, họ sẽ để con yên mà hành thiền”.
18. “Cũng tốt, nếu phải sống trong một tu viện mà không phải ai cũng quan tâm đến việc tu hành rốt ráo, vì điều đó dạy con phải dựa vào chính mình.  Ngược lại, nếu con chỉ sống với các vị thiền giả quá nghiêm mật, con sẽ không thể sinh tồn trong bất cứ nơi nào khác”.
19. “Trong tu viện, chúng ta vẫn giữ lại những người khó chịu như một cách để kiểm tra xem nếu các uế nhiễm của ta đã thực sự được xóa bỏ”.
20. “Mục đích của việc tuân giữ các giới luật nghiêm khắc là để bào mòn các uế nhiễm của ta.  Nếu ta chỉ giữ chúng với ý định gây ấn tượng đối với người khác, thì tốt hơn là ta không nên giữ chúng”.
21. Về việc nhịn ăn như một phương cách giúp ta hành thiền tốt hơn: “Với người này, phương cách đó thích hợp, với người khác thì nó có tác dụng ngược lại- họ càng nhịn ăn, thì uế nhiễm của họ càng tăng.  Không phải là ta bỏ đói cái thân, thì các uế nhiễm của ta cũng bị đói, vì chúng không phải đến từ thân.  Chúng từ tâm ta mà ra”.
22. “Trong kinh có đoạn Đức Phật hỏi, ‘Ngày và đêm qua đi, qua đi.  Hiện tại con đang làm gì?’ Vậy ta có câu trả lời gì cho Ngài?”
23. “Nếu ta đi dạy người khác trước khi việc tu tập của mình đã chuẩn, thì ta gây hại nhiều hơn là làm tốt”.
24. “Rèn luyện một thiền sinh cũng giống như rèn một võ sĩ: Ta tấn công ít và không đấm họ quá đau đến độ họ không chịu nổi.  Nhưng khi họ đánh trả, hãy để họ ra đòn thật mạnh”.
25. Lần đầu tiên khi tôi giảng pháp, Ajaan Fuang bảo tôi: “Hãy tưởng tượng con có cây kiếm trong tay.  Nếu có ai trong đám thính giả có ý phán xét con, hãy cắt đầu họ”.
26. Trước đây từ Bangkok đến Wat Dhammasathit, phải mất cả ngày, vì đường sá lúc đó rất xấu và quanh co hơn giờ nhiều.  Một tối, có một phụ nữ mướn xe đi từ Bangkok đến chùa để xin Ajaan Fuang lời khuyên về những vấn đề bà đang gặp phải trong cuộc sống gia đình, rồi sau đôi giờ tư vấn, bà lại lên xe trở về lại chỗ cũ.
Sau đó, Ajaan Fuang nói với tôi, “Cũng có cái hay khi ta sống tận nơi này. Nếu ta ở gần Bangkok, những người rảnh rỗi, không biết sử dụng thời gian, sẽ đến đây chuyện vãn cả ngày làm mất thì giờ của ta. Trái lại, dầu chúng ta ở xa xôi, mà Phật tử đã cất công đến đây, chứng tỏ là họ thực sự cần ta giúp đỡ. Nên dầu phải mất bao nhiêu thời gian với họ, cũng không thành vấn đề”.
27. “Khi có Phật tử đến viếng, sư cho họ ngồi xuống, hành thiền trước để họ biết cách làm cho tâm yên tĩnh.  Sau đó ta mới để họ trình bày vấn đề mà họ quan tâm, muốn chia sẻ với sư.  Nếu ta cố gắng thảo luận các vấn đề mà tâm họ chưa lắng đọng, thì không có cách gì giúp họ hiểu”.
28. “Nếu có người nghĩ là họ đã chứng ngộ, trong khi sự thật không phải vậy, thì ta không nên phí hơi sức cố gắng sửa chữa họ.  Vì nếu họ không có lòng tin ở ta 100% , thì ta càng phân phải trái với họ, họ càng bám chặt vào ý kiến riêng của mình. Nếu họ có lòng tin nơi ta, thì chỉ cần một hay hai câu nói, họ sẽ thức tỉnh”.
29. Có lần thân phụ của một vị sư đang sống ở chùa của ngài Ajaan Fuang, viết thư khuyên con trai hãy cởi bỏ y áo, trở về nhà, tiếp tục việc học hành, rồi đi làm, gầy dựng gia đình, để có một cuộc sống bình thường, hạnh phúc như bao người khác trên thế giới. Vị tăng sĩ trình bày việc này với Ajaan Fuang.  Ngài nói, “Cha con nói là hạnh phúc của ông rất đặc biệt- nhưng thực sự loại hạnh phúc đó là gì?  Cũng là đống đồ hôi thối mà con đã để lại đằng sau khi đi xuất gia. Có thứ hạnh phúc nào tốt hơn hiện tại không?”
Thiền sư Ajaan Fuang Jotiko