Truyện ngắn xuất sắc nhưng ít người biết: Giấy ghi nợ chết tiệt - Scott Fitzgerald
Chào cả nhà,...
Chào cả nhà,
Lần này, mình đem tới một truyện ngắn xuất sắc nhưng ít người biết tới của văn hào Scott Fitzgerald. Tác phẩm có văn phong hài hước, phúng thích, được dẫn dắt tuyệt vời, khiến độc giả vui vẻ đọc tới dòng cuối cùng. Nó giúp ta hiểu rằng những điều xấu xí ô trọc, những khía cạnh chua chát cay đắng của cuộc đời đôi khi được giảm bớt, được thấu hiểu bằng tiếng cười hóm hỉnh và sự khéo léo của bàn tay người nghệ sĩ.
Dịch từ nguyên tác tiếng Anh: The I.O.U (1920), Scott Fitzgerald, đăng trên báo The New Yorker ngày 20/3/2017.
I.
Trên đây không phải là tên thật của tôi; đó là tên của một gã khác, gã cho phép tôi dùng tên ấy để ký vào bên dưới câu chuyện này. Tên thật của tôi, tôi sẽ không tiết lộ. Tôi là chủ một nhà xuất bản. Tôi duyệt mua những cuốn tiểu thuyết dài về tình yêu tươi trẻ được viết bởi những cô hầu gái già nua ở South Dakota, hay những câu chuyện trinh thám liên quan đến đám nhà giàu thích chơi bời và những phụ nữ Apache với “đôi mắt to đen láy”, rồi cả những bài tiểu luận về mối đe dọa của điều này điều kia, về màu sắc của mặt trăng ở Tahiti do các giáo sư đại học và những kẻ thất nghiệp khác chấp bút. Tôi không chấp nhận tiểu thuyết của tác giả dưới mười lăm tuổi. Tất cả những gã nhà báo chuyên môn và những người cộng sản (tôi không bao giờ có thể nói toẹt ra hai từ này) mắng chửi tôi, vì họ cho rằng tôi chỉ muốn có tiền. Tôi muốn, tôi muốn tiền khủng khiếp. Vợ tôi cần tiền. Con tôi lúc nào cũng xài tiền. Nếu ai đó cho tôi tất cả tiền ở New York, tôi quả thực không nên từ chối. Tôi thà phát hành một cuốn sách bán được năm trăm nghìn bản trước kỳ hạn, còn hơn là phát hiện Samuel Butler, Theodore Dreiser và James Branch Cabell trong cùng một năm. Bạn cũng vậy thôi nếu bạn là chủ một nhà xuất bản.
Sáu tháng trước, tôi đã ký hợp đồng xuất bản một cuốn sách chắc chắn sẽ sinh lời cực lớn. Đó là tác phẩm của ông Harden, nhà nghiên cứu tâm linh, Tiến sĩ Harden. Cuốn sách đầu tiên của ông - do tôi xuất bản vào năm 1913 - đã ăn sâu bám rễ vào thị trường như một con cua cát ở Long Island, và hãy nhớ rằng vào thời điểm đó, nghiên cứu tâm linh chưa thịnh hành như hiện nay. Giờ đây, chúng tôi quảng cáo ấn phẩm mới của ông là một tài liệu chất chứa “năm mươi trái tim” [1]. Cháu trai của ông đã hy sinh trong chiến tranh, và Tiến sĩ Harden, với tài năng xuất chúng và sự kiềm chế tột bậc, đã viết một bản tường thuật về sự giao cảm tâm linh giữa ông với người cháu trai - Cosgrove Harden, thông qua nhiều phương tiện khác nhau.
[1] Ý nói cuốn sách này được viết bằng tất cả trái tim, cảm xúc, tâm hồn.
Tiến sĩ Harden không phải là một nhà trí thức mới nổi. Ông là một nhà tâm lý học lỗi lạc, Ph.D. ở Vienna, LL.D. ở Oxford, nguyên giáo sư thỉnh giảng tại Đại học Ohio. Cuốn sách của ông không vô cảm, cũng không ngây ngô. Thái độ của ông ẩn chứa sự nghiêm túc cốt tử. Ví dụ, trong cuốn sách mới, ông kể rằng một thanh niên tên là Wilkins đã đến trước cửa nhà ông và nói rằng người cháu quá cố của ông nợ anh ta ba đô la tám mươi xu. Anh ta yêu cầu Tiến sĩ Harden tìm hiểu xem đứa cháu kia muốn giải quyết chuyện này như thế nào. Tiến sĩ Harden đã kiên quyết từ chối. Ông cho rằng yêu cầu đó chẳng khác nào việc cầu xin các vị thánh giúp ta tìm lại chiếc ô bị mất.
Trong suốt chín mươi ngày, chúng tôi chuẩn bị cho công tác xuất bản. Trước khi lựa chọn chiếc bìa áo tuyệt đẹp, chúng tôi thiết kế trang đầu tiên của cuốn sách bằng ba loại phông chữ khác nhau và hai bức tranh, mỗi bức được vẽ bởi năm họa sĩ mà chúng tôi thuê với mức giá trên trời. Lần đọc hiệu đính cuối cùng được thực hiện bởi ít nhất bảy người soát lỗi chuyên nghiệp, vì chúng tôi sợ rằng sự run rẩy nhỏ nhất ở đuôi dấu phẩy hoặc sự mờ nhạt nhất trong chữ “tôi” viết hoa sẽ không thỏa mãn những con mắt khó tính của Công Chúng Mỹ Vĩ Đại (Great American Public).
Bốn tuần trước ngày phát hành chính thức, những chiếc thùng khổng lồ đã được chuyển tới một nghìn tụ điểm văn chương. Chỉ ở riêng Chicago, chúng tôi đã bán được hai mươi bảy nghìn bản. Ở Galveston, Texas, con số là bảy nghìn bản. Ở Bisbee, Arizona, Red Wing, Minnesota, Atlanta và Georgia, mỗi nơi bán hết một trăm bản, khiến độc giả thở dài tiếc nuối. Chúng tôi cũng đã tính đến các thành phố lớn hơn, và những con số hai mươi, ba mươi, bốn mươi đã được ghi nhận rải rác trên khắp lục địa, tựa như một nghệ sĩ tranh cát sắp sửa hoàn thiện tác phẩm của mình bằng những nét vẽ tinh xảo.
Số lượng in thực tế trong lần in đầu tiên là ba trăm nghìn bản.
Trong thời gian đó, bộ phận quảng cáo bận rộn làm việc suốt cả tuần: in nghiêng, gạch chân, viết hoa, viết hoa hai lần; chuẩn bị slogan, headline, đăng bài viết cá nhân và phỏng vấn; chọn những bức ảnh cho thấy Tiến sĩ Harden đang suy nghĩ, trầm ngâm và chiêm nghiệm, hay những bức ảnh chụp ông bên cạnh chiếc vợt tennis, gậy đánh gôn, bà chị dâu, biển cả. Hàng tá ghi chú về văn chương đã được chuẩn bị. Quà tặng được chất thành đống, gửi đến các nhà phê bình của hàng nghìn tờ nhật báo và tuần báo.
Ngày phát hành được ấn định là 15 tháng 4. Vào ngày 14, sự im lặng đến nghẹt thở bao trùm khắp các văn phòng; bên dưới, ở bộ phận bán lẻ, các nhân viên đang lo lắng quan sát những cái kệ trống trơn, nơi đáng lẽ phải bày biện chật ních sách; họ lặng nhìn những lồng kính rỗng không, nơi ba chuyên gia trang trí cửa sổ sẽ phải làm việc cả buổi tối để xếp sách thành hình vuông, hình gò, hình đống, hình tròn, hình trái tim, hình ngôi sao và hình bình hành.
Sáng ngày 15 tháng 4, lúc 9 giờ kém 5 phút, cô Jordan, người viết tốc ký trưởng, đã ngất đi vì phấn khích, ngã vào vòng tay của một đối tác ít quan trọng của tôi. Đúng chín giờ, một quý ông lớn tuổi với bộ râu quai nón kiểu Dundreary đã mua bản đầu tiên của cuốn Con người Cao quý của Thế giới Linh hồn (The Aristocracy of the Spirit World).
Cuốn sách vĩ đại đã xuất hiện như thế.
Ba tuần sau, tôi quyết định đi tới Joliet, Ohio để gặp Tiến sĩ Harden. Tôi thấy mình giống như nhà tiên tri Mohammed (hay là Moses í nhỉ?) đang leo lên ngọn núi vậy. Harden có tính cách nhút nhát và dè dặt; cần phải khuyến khích ông, chúc mừng ông, ngăn chặn những hành động mà các nhà xuất bản đối thủ sẽ thực hiện. Tôi định dùng một số biện pháp cần thiết để chốt mua cuốn sách tiếp theo của Harden, và với toan tính này, tôi đã mang theo nhiều hợp đồng được viết cẩn thận, hứa hẹn giúp ngài tiến sĩ thoát khỏi những mối lo tài chính trong năm năm tới.
Chúng tôi rời khỏi New York lúc bốn giờ. Trong mỗi chuyến đi, tôi thường có thói quen đút nửa tá bản in của cuốn sách trọng điểm vào túi, rồi tình cờ tặng cho người trông có vẻ thông minh nhất trong đám hành khách đi cùng chuyến với tôi, với mong muốn lan tỏa cuốn sách đến những nhóm độc giả tiềm năng. Vậy là trước khi đến Trenton, một người phụ nữ ngồi trong cabin lặng lẽ đọc sách với một cặp kính cầm tay; một chàng trai trẻ ngồi cùng hàng nhưng ở phía trên tôi cũng đắm chìm trong sách; cuối cùng là một cô gái với mái tóc đỏ và đôi mắt đặc biệt dịu dàng đang chơi cờ O-X (tic-tac-toe) sau lưng một người khác.
Về phần tôi, tôi đã ngủ gật. Phong cảnh New Jersey biến thành phong cảnh Pennsylvania một cách âm thầm giản dị. Chúng tôi đi ngang qua nhiều đàn bò, rất nhiều rừng cây và cánh đồng; cứ khoảng hai mươi phút lại có một người nông dân xuất hiện, ngồi trong chiếc xe ngựa bên cạnh nhà ga làng, nhai thuốc lá và trầm ngâm nhìn những ô cửa sổ thương hiệu Pullman.
Chắc hẳn chúng tôi đã đi ngang qua mười hay mười lăm người nông dân, rồi đột nhiên, giấc ngủ ít ỏi của tôi bị chấm dứt khi tôi nhận ra chàng trai trẻ cùng hàng với tôi đang giậm chân liên tục như một tay trống bass trong dàn nhạc, thốt ra những tiếng kêu và tiếng càu nhàu nho nhỏ. Tôi giật mình, cảm thấy hài lòng vì phát hiện anh ta đang rất xúc động, xúc động trước cuốn sách mà anh ta nắm chặt trong những ngón tay dài trắng bệch: Con người Cao quý của Thế giới Linh hồn, tác giả: Tiến sĩ Harden.
“Chà.” Tôi vui vẻ nhận xét. “Anh có vẻ hứng thú.”
Anh ta ngẩng đầu lên. Trên khuôn mặt gầy guộc của anh ta là đôi mắt mà chỉ hai loại người mới sở hữu được: những người ủng hộ thuyết duy linh và những người không ủng hộ thuyết duy linh.
Bởi anh ta vẫn chưa hết ngây dại, tôi nhắc lại câu hỏi của mình.
“Hứng thú!” Anh ta kêu lên. “Rất hứng thú, lạy Chúa tôi!”
Tôi thận trọng quan sát anh ta. Đúng vậy, chắc chắn anh ta là một thầy đồng, hoặc chỉ là một trong nhiều thanh niên thích châm biếm, chuyên viết bài giễu nhại các nhà tâm linh trên các tạp chí nổi tiếng.
“Một tác phẩm đáng chú ý.” Anh ta nói. “Người anh hùng trong cuốn sách này - cứ cho là vậy đi - rõ ràng đã dành phần lớn thời gian sau khi chết để đọc cho người chú của mình viết.”
Tôi đồng ý với quan điểm của anh ta.
“Dĩ nhiên, giá trị của cuốn sách...” Anh ta nhận xét với một tiếng thở dài. “Hoàn toàn phụ thuộc vào việc nhân vật chính có ở đúng nơi anh ta cần ở hay không.”
“Dĩ nhiên.” Tôi bối rối. “Chàng trai trẻ đó phải ở trên Thiên Đường chứ không phải trong Luyện Ngục.”
“Phải.” Anh ta gật gù một cách trầm ngâm. “Sẽ thật xấu hổ nếu anh ta ở trong Luyện Ngục, nhưng càng xấu hổ hơn nếu anh ta ở một nơi khác, nơi thứ ba.”
Chuyện này đi hơi xa rồi.
“Cuộc đời của chàng trai trẻ ấy không có gì cho thấy anh ta sẽ ở... ở trong...”
“Dĩ nhiên là không. Những nơi mà ông đề cập không nằm trong suy nghĩ của tôi. Tôi chỉ nói rằng sẽ rất xấu hổ nếu anh ta ở trong Luyện Ngục, nhưng còn xấu hổ hơn nếu anh ta ở một nơi khác.”
“Ở đâu vậy, thưa quý ngài?”
“Ở Yonkers chẳng hạn.”
Nghe xong, tôi giật mình.
“Gì chứ?”
“Thực ra, nếu anh ta ở trong Luyện Ngục thì đó chỉ là lỗi nhỏ của anh ta thôi. Nhưng nếu anh ta ở Yonkers...”
“Quý ngài thân mến.” Tôi sốt ruột thốt lên. “Có mối liên hệ nào giữa Yonkers và Con người Cao quý của Thế giới Linh hồn chăng?”
“Không. Tôi chỉ nói rằng nếu anh ta ở Yonkers…”
“Nhưng anh ta không ở Yonkers.”
“Không, không phải nơi đó.” Anh ta dừng lại và thở dài lần nữa. “Trên thực tế, gần đây, anh ta đã đi từ Pennsylvania đến Ohio.”
Lần này, tôi nhảy dựng lên vì quá lo lắng. Tôi vẫn chưa hiểu hết những gì anh chàng đối diện muốn nói, nhưng tôi cảm thấy câu trả lời của anh ta có ẩn ý.
“Ý anh là...” Tôi hỏi dồn. “Là anh cảm nhận được sự hiện diện của anh ta ở cõi hư vô?”
Chàng trai trẻ ngồi thẳng dậy một cách dứt khoát.
“Đủ rồi.” Anh ta nói một cách gay gắt. “Dường như trong tháng vừa qua, tôi đã trở thành trò tiêu khiển của những bà hoàng cả tin và những ông hoàng Basil [2] trên toàn nước Mỹ. Thưa ngài, tên tôi là Cosgrove P. Harden. Tôi không chết. Tôi chưa bao giờ chết, và sau khi đọc xong cuốn sách đó, tôi sẽ không bao giờ cảm thấy chết là một việc an toàn nữa!”
[2] Vua Basil (1859-1928) là người rất tin vào thế giới tâm linh cũng như thuyết duy linh. Ông nói rằng mình được các linh hồn hướng dẫn viết ra các cuốn sách.
II.
Cô gái ở phía bên kia lối đi đã giật mình trước tiếng kêu đau buồn và thảng thốt của tôi đến mức viết nhầm X thay vì O.
Ngay lập tức, tôi tưởng tượng ra một đoàn người xếp hàng dài từ phố Fortieth, nơi có nhà xuất bản của tôi, cho đến Bowery, tổng là năm trăm nghìn người, mỗi người ôm một cuốn Con người Cao quý của Thế giới Linh hồn, yêu cầu trả lại hai đô la và năm mươi xu của họ. Tôi nhanh chóng cân nhắc xem liệu tôi có thể thay đổi tất cả tên riêng và chuyển cuốn sách từ phi hư cấu sang hư cấu hay không. Nhưng đã quá muộn, ngay cả chuyện đó cũng là bất khả thi. Ba trăm nghìn bản đã đến tay công chúng Mỹ.
Khi tôi thực sự bình tĩnh lại, chàng trai trẻ kể cho tôi nghe về những trải nghiệm của anh ta kể từ khi được thông báo là đã chết: ba tháng trong nhà tù Đức, mười tháng trong bệnh viện vì bệnh sốt não, một tháng nữa trước khi nhớ ra tên của mình. Nửa giờ sau khi đến New York, anh ta gặp lại một người bạn cũ; người bạn này nhìn anh ta chằm chằm, nghẹn ngào, rồi ngất đi. Sau khi “hồi sinh”, anh ta và bạn đi tới hiệu thuốc để mua một ly cocktail. Trong vòng một giờ, Cosgrove Harden được nghe câu chuyện khó tin nhất về bản thân mà một người đàn ông từng được nghe.
Anh ta bắt taxi đến hiệu sách. Cuốn sách mà anh ta tìm kiếm đã được bán hết. Ngay lập tức, anh ta lên tàu đi Joliet, Ohio, và nhờ một sự may mắn hiếm có, cuốn sách đã đến tay anh ta.
Tôi chợt nghĩ anh ta là một kẻ tống tiền, nhưng bằng cách so sánh anh ta với bức ảnh của anh ta ở trang 226 cuốn Con người Cao quý của Thế giới Linh hồn, tôi tin anh ta chắc chắn là Cosgrove P. Harden. Anh ta gầy hơn và già hơn trong ảnh, bộ ria mép đã biến mất, nhưng đó vẫn là một người đàn ông.
Tôi thở dài một tiếng thật lâu và bi thảm.
“Đúng lúc cuốn sách đang bán chạy, dù không phải là sách hư cấu.”
“Hư cấu!” Anh ta giận dữ đáp. “Nó đích thị là hư cấu còn gì!”
“Ở một khía cạnh nào đó.” Tôi thừa nhận.
“Ở một khía cạnh nào đó? Hư cấu một trăm phần trăm í chứ! Nó thỏa mãn tiêu chí của tiểu thuyết: một lời nói dối khổng lồ và ngọt ngào! Thế ông định gọi nó là gì hả?”
“Không.” Tôi bình tĩnh trả lời. “Tôi nên gọi nó là phi hư cấu. Phi hư cấu là một loại hình văn học nằm giữa hư cấu và thực tế.”
Anh ta mở cuốn sách một cách ngẫu nhiên và thoáng kêu lên đau đớn, khiến cô gái tóc đỏ phải tạm dừng ván cờ quan trọng như trận bán kết trong cuộc thi X-O.
“Nhìn xem!” Anh ta rên rỉ thảm thiết. “Nhìn đi! Ở đây viết “thứ Hai”. Hãy quan sát sự tồn tại của tôi “trên bờ biển” vào “thứ Hai”. Tôi yêu cầu ông! Hãy nhìn đi! Tôi ngửi thấy hương hoa. Tôi dành cả ngày để ngửi hoa. Ông cũng vậy chứ, phải không? Ở trang 194, trên đầu trang, tôi ngửi thấy mùi hoa hồng...”
Tôi cẩn thận nâng cuốn sách lên mũi ngửi.
“Tôi chẳng ngửi thấy mùi gì cả.” Tôi nói. “Chắc là mùi mực...”
“Đừng ngửi!” Anh ta quát. “Hãy đọc! Tôi ngửi thấy một bông hoa hồng khi đọc hai đoạn văn ngất ngây về bản năng cao quý của con người. Một mùi hương thoang thoảng. Sau đó, tôi dành thêm một giờ để ngửi hoa cúc. Lạy Chúa! Tôi sẽ không bao giờ có thể gặp lại bạn học ngày xưa!”
Anh ta lật vài trang sách rồi lại rên rỉ.
“Đoạn này tôi đang ở cùng lũ trẻ, tôi nhảy múa cùng chúng. Chúng tôi nhảy múa suốt cả ngày. Chúng tôi thậm chí không biết cách nhảy một điệu shimmy đúng đắn. Chúng tôi tập tành trang điểm. Tôi không biết nhảy. Tôi ghét trẻ con. Nhưng ngay khi tôi chết, tôi trở thành con lai giữa một cô y tá và một nhạc sĩ trong dàn đồng ca.”
“Ở đây, chỗ này...” Tôi đánh bạo trách móc. “Một đoạn văn tuyệt đẹp. Nhìn xem, nó mô tả trang phục của anh. Anh đang mặc một bộ đồ - nói thế nào nhỉ? - một loại quần áo mỏng tang. Nó bay phấp phới sau lưng anh.”
“Một loại áo lót lùng thùng.” Anh ta rầu rĩ nói. “Và đầu tôi thì đầy lá cây.”
Tôi phải thừa nhận rằng những chiếc lá là một chi tiết ẩn dụ.
“Tuy nhiên...” Tôi gợi ý. “Hãy nghĩ xem, mọi chuyện đáng lẽ đã tồi tệ đến mức nào. Ông ấy có thể khiến anh bẽ mặt nếu ông ấy yêu cầu anh trả lời câu hỏi về con số trên đồng hồ của ông nội anh, hoặc về ba đô la tám mươi xu mà anh nợ khi chơi bài poker.”
Một khoảng lặng diễn ra.
“Chú tôi là kẻ chập mạch khôi hài.” Anh ta nói đầy ưu tư. “Tôi nghĩ ông ấy hơi điên.”
“Không hề.” Tôi trấn an anh ta. “Tôi đã làm việc với vô số tác giả trong suốt cuộc đời mình, và ông ấy là người tỉnh táo nhất mà chúng tôi từng cộng tác. Ông ấy chưa bao giờ cố gắng vay tiền của chúng tôi; ông ấy chưa bao giờ yêu cầu chúng tôi sa thải bộ phận quảng cáo; và ông ấy chưa bao giờ cấm chúng tôi tặng sách cho bạn bè của của ông ấy ở Boston, Massachusetts.”
“Tuy nhiên, tôi sẽ giáng cho linh hồn ở cõi hư vô của ông ấy một trận tơi bời.”
“Đó là tất cả những gì anh định làm?” Tôi lo lắng hỏi. “Anh sẽ không xuất hiện dưới tên thật của mình và làm hỏng việc bán sách của ông ấy đâu, phải không?”
“Gì chứ?”
“Chắc chắn anh sẽ không làm điều đó. Hãy nghĩ về sự thất vọng mà anh sẽ gây ra. Anh sẽ làm cho năm trăm ngàn người khốn khổ.”
“Tất cả phụ nữ...” Anh ta buồn bã nói. “Họ đều thích khốn khổ. Hãy nghĩ về cô gái của tôi, cô gái mà tôi đã đính hôn. Theo ông, cô ấy cảm thấy thế nào về lối sống trăng hoa mây gió của tôi sau khi tôi rời bỏ cô ấy? Ông nghĩ rằng cô ấy tán thành với việc tôi nhảy múa bên cạnh rất nhiều trẻ em ở trang 221 mà không một mảnh vải trên người?”
Tôi rơi vào tuyệt vọng. Tôi phải biết điều tồi tệ nhất mà tôi sắp phải đối mặt là gì.
“Anh... Anh định làm gì?”
“Làm gì ư?” Anh ta gào lên điên cuồng. “Ồ, tôi sẽ đưa chú tôi vào xà lim, cùng với nhà xuất bản và các hãng báo chí của ông ấy, kèm theo tất cả ê-kip, và cả những hãng in ấn dù là nhỏ nhất - tất cả những kẻ đã đồng hành với vị tác giả đáng nguyền rủa đó!”
III.
Khi đến Joliet, Ohio lúc 9 giờ sáng hôm sau, tôi đã trấn an anh ta bằng những lập luận nghe có vẻ chí lý. Chú của anh ta là một ông già, tôi nói với anh ta, một người lầm đường lạc lối. Chính bản thân ông đã bị lừa, không còn nghi ngờ gì nữa. Trái tim ông rất mong manh và cảnh tượng đứa cháu trai đột ngột xuất hiện trên đường có thể kết liễu cuộc đời ông.
Tất nhiên, trong thâm tâm, tôi nghĩ rằng chúng tôi có thể thương lượng. Nếu Cosgrove đồng ý tạm lánh đi trong vòng năm năm với một khoản tiền phù hợp, mọi chuyện sẽ êm đẹp.
Vì vậy, khi ra khỏi nhà ga bé tẹo, chúng tôi tìm cách không đi qua ngôi làng; trong sự im lặng buồn bã, chúng tôi đi tiếp nửa dặm đường để đến nhà Tiến sĩ Harden. Khi chúng tôi còn cách khoảng một trăm thước, tôi dừng lại và quay sang chàng trai trẻ.
“Anh đợi ở đây.” Tôi yêu cầu. “Tôi phải chuẩn bị tâm lý cho chú anh trước cú sốc. Tôi sẽ quay lại sau nửa giờ nữa.”
Thoạt đầu anh ta do dự nhưng cuối cùng vẫn ủ rũ ngồi xuống bãi cỏ rậm rạp bên đường. Lau khô vầng trán ẩm ướt, tôi men theo con ngõ, đi vào nhà.
Khu vườn của Tiến sĩ Harden tràn ngập ánh nắng và nở rộ những cây mộc lan Nhật Bản đang rơi những giọt lệ hồng trên thảm cỏ. Tôi trông thấy ông ngay tức thì, đang ngồi bên một ô cửa sổ để mở. Ánh dương tràn vào, lén lút len lỏi trên bàn làm việc và trên đống giấy tờ vương vãi, rồi trườn lên đùi của Tiến sĩ Harden, lên đến tận khuôn mặt bờm xờm, trắng bệch của ông. Trước mặt ông, ở trên bàn, có một phong bì màu nâu trống rỗng; những ngón tay gầy guộc của ông đang bận rộn di chuyển trên một xấp mẩu báo mà ông vừa lấy ra từ trong phong bì.
Tôi đã đến khá gần, một nửa thân mình được những cây mộc lan che khuất. Tôi định cất tiếng thì thấy một cô gái trẻ trong chiếc váy buổi sáng màu tím đang khom người băng qua cụm cây táo có cành thấp ở đầu phía bắc của khu vườn và bước đi trên bãi cỏ về phía ngôi nhà. Tôi lùi lại và quan sát, trong khi cô ấy đi thẳng đến ô cửa sổ đang mở và nói chuyện không chút kiêng nể với Tiến sĩ Harden vĩ đại.
“Tôi muốn nói chuyện với ông.” Cô gái thẳng thừng nói.
Tiến sĩ Harden ngước lên nhìn; một phần của tờ báo Philadelphia run rẩy trên tay ông. Tôi tự hỏi, phải chăng đó là bài báo đã ca ngợi ông là “Thánh John mới”.
“Về thứ này!” Cô gái tiếp tục.
Cô gái lấy ra cuốn sách kẹp dưới cánh tay. Đó là cuốn Con người Cao quý của Thế giới Linh hồn. Tôi nhận ra nó nhờ bìa màu đỏ và hình vẽ thiên thần ở các góc.
“Về thứ này!” Cô gái giận dữ lặp lại, rồi ném mạnh cuốn sách vào một bụi cây. Thế là kiệt tác rơi vào giữa hai cây hoa hồng dại và buồn tủi tiếp đất ở vị trí của gốc cây.
“Gì vậy, quý cô Thalia!”
“Gì vậy, quý cô Thalia!” Cô gái nhại lại. “Ôi, ông già lẩm cẩm, ông nên lượn đi vì đã viết ra cuốn sách này!”
“Lượn đi?” Giọng nói của Tiến sĩ Harden thể hiện một niềm hy vọng mong manh rằng đây có thể là một vinh dự mới. Ông không cần phải chờ đợi lâu.
“Lượn đi!” Cô gái bùng nổ. “Ông có nghe thấy không vậy? Trời ơi, ông không hiểu tiếng Anh sao! Ông đã bao giờ đi prom chưa?”
“Đúng là tôi không biết rằng...” Tiến sĩ Harden lạnh lùng trả lời. “Các buổi khiêu vũ sinh viên được tổ chức ở Bowery, và tôi chưa từng thấy ai dùng chữ “lượn đi” như vậy cả. Còn về cuốn sách…”
“Đó là sự ô nhục tồi tệ nhất trên đời.”
“Nếu cô chịu khó đọc những mẩu tin này…”
Cô gái chống khuỷu tay lên bậu cửa sổ, làm động tác như thể sắp nhảy vào trong, rồi đột nhiên hai tay chống cằm và nhìn ông Harden đau đáu, sau đó cất lời.
“Ông có một đứa cháu trai.” Cô gái nói. “Đó là cái số đen đủi của anh ấy. Nhưng anh ấy là người đàn ông tốt nhất từng sống trên đời, và là người đàn ông duy nhất mà tôi từng yêu, sẽ yêu.”
Tiến sĩ Harden gật đầu và định nói gì đó, nhưng Thalia đập bàn tay nhỏ bé của mình lên bậu cửa sổ và tiếp tục.
“Anh ấy dũng cảm, thẳng thắn và trầm lặng. Anh ấy qua đời vì bị thương ở một thị trấn xa lạ, biến mất với tư cách là Trung sĩ Harden, Bộ binh 105. Một cuộc đời bình yên và một cái chết danh dự. Ông đã làm gì vậy!” Giọng cô gái khẽ ngân cao, rung lên và tạo ra một dao động thấu cảm lên những dây leo cửa sổ. “Ông đã làm gì vậy! Ông đã biến anh ấy thành trò cười! Ông đã gọi anh ấy trở về nhân gian với tư cách là một sinh vật thần thoại chuyên gửi những thông điệp ngớ ngẩn về hoa, chim và số lượng miếng trám trên răng của George Washington. Ông đã...”
Tiến sĩ Harden đứng dậy.
“Cô đến đây...” Ông to tiếng. “Chỉ để nói với tôi về...”
“Im đi!” Thalia quát. “Tôi sẽ cho ông biết những gì ông đã làm, và ông không thể ngăn cản tôi bằng đám linh hồn ở phía bên này của dãy núi Rocky Mountains đâu.”
Tiến sĩ Harden ngồi phịch xuống ghế.
“Cứ tiếp tục đi.” Ông nói trong một nỗ lực để bình tĩnh. “Cứ nói bằng cái giọng gắt gỏng ghê gớm đó đi.”
Cô gái dừng lại một lúc và quay đầu nhìn vào khu vườn. Tôi có thể thấy cô ấy đang cắn môi và chớp mắt để ngăn những giọt nước mắt. Rồi Thalia lại nhìn chăm chắm vào vị tiến sĩ.
“Ông đã lợi dụng anh ấy.” Cô gái tiếp tục. “Ông đã coi anh ấy như một miếng bột nhào để phục vụ thầy đồng gạt người, để làm bánh bỏ vào miệng những người phụ nữ cuồng loạn nghĩ rằng ông thật tuyệt vời. Họ ca ngợi ông là tuyệt vời? Họ ca ngợi một kẻ không tôn trọng sự thiêng liêng và sự bình yên của cái chết? Ông là một lão già vàng vọt, không răng, thậm chí không buồn bã vì đã chơi đùa trên sự cả tin của chính mình và của rất nhiều gã ngốc khác. Vậy thôi, tôi nói hết rồi.”
Dứt lời, cô gái quay người lại một cách đột ngột như hồi nãy bước đến, rồi rời đi trên con đường với cái đầu ngẩng cao. Tôi đợi tới khi cô ấy đi qua chỗ mình và ở cách cửa sổ khoảng hai mươi mét. Tôi đi theo cô ấy trên bãi cỏ êm ái và nói chuyện.
“Thưa cô Thalia.”
Cô gái đối diện với tôi, có chút sửng sốt.
“Cô Thalia, tôi muốn nói với cô rằng có một điều bất ngờ dành cho cô ở cuối con ngõ này. Một người mà cô đã không gặp trong nhiều tháng.”
Gương mặt của cô gái tỏ ra khó hiểu.
“Tôi không muốn tiết lộ bất cứ điều gì.” Tôi nói tiếp. “Nhưng đừng sợ hãi nhé, nếu trong ít phút nữa cô nhận được bất ngờ mà cuộc đời trao tặng.”
“Ý ông là gì?” Cô gái khẽ hỏi.
“Không có gì.” Tôi đáp. “Chỉ cần tiếp tục đi trên con đường này và nghĩ về những điều tốt đẹp nhất trên thế gian, rồi đột nhiên một điều gì đó to lớn sẽ xảy ra.”
Nói xong, tôi cúi đầu thật thấp và đứng mỉm cười nhẹ nhàng với chiếc mũ trên tay.
Thalia nhìn tôi đầy băn khoăn, rồi từ từ quay lưng bước đi. Chỉ trong khoảnh khắc, cô ấy đã mất hút ở bên ngoài khúc quẹo của bức tường đá dưới tán cây mộc lan.
IV.
Phải mất bốn ngày - bốn ngày ngột ngạt lo lắng - trước khi tôi lập lại trật tự cho mớ hỗn loạn và sắp xếp một cuộc đàm phán kinh doanh. Cuộc gặp đầu tiên giữa Cosgrove Harden và chú của anh ta là sự căng thẳng thần kinh khủng khiếp nhất trong đời tôi. Tôi đã ngồi suốt một giờ đồng hồ trên cái mép trơn của chiếc ghế ọp ẹp, sẵn sàng lao về phía trước mỗi khi tôi nhìn thấy cơ bắp của anh chàng Cosgrove trẻ trung hằn lên dưới ống tay áo măng-tô. Tôi bật dậy theo bản năng và mỗi lần như vậy, tôi trượt đi một cách bất lực trên chiếc ghế rồi ngồi phịch xuống sàn nhà.
Tiến sĩ Harden cuối cùng cũng kết thúc cuộc đàm thoại; ông đứng dậy và đi lên lầu. Tôi đã cố gắng đưa Harden trẻ tuổi vào phòng của anh ta bằng nhiều lời đe dọa và hứa hẹn, rồi ép anh ta thề im lặng trong hai mươi bốn giờ.
Tôi đã dùng tất cả số tiền hiện có của mình để hối lộ hai người hầu già. Họ không được nói gì cả, tôi yêu cầu họ vậy. Cosgrove Harden vừa trốn khỏi Sing Sing. Tôi đã run rẩy khi nói ra điều đó, nhưng bầu không khí đang chứa đựng quá nhiều lời nói dối, vì thế, thêm hoặc bớt một lời cũng không ảnh hưởng gì.
Nếu không có Thalia thì tôi đã bỏ cuộc ngay từ ngày đầu tiên và quay trở lại New York để chờ mọi thứ sụp đổ. Nhưng cô ấy đang ở trong một trạng thái hạnh phúc tột cùng, đến mức cô ấy sẵn sàng đồng ý với bất cứ điều gì. Tôi đã đề nghị với cô ấy rằng nếu cô ấy và Cosgrove kết hôn và sống ở miền Tây dưới một cái tên giả trong mười năm, tôi sẽ hết lòng ủng hộ họ. Cô ấy nhảy cẫng lên vì sung sướng. Tôi liền chộp lấy cơ hội. Với những màu sắc rực rỡ, tôi vẽ ra một ngôi nhà bungalow ngập tràn tình yêu ở California; thời tiết ôn hòa quanh năm và Cosgrove đang trở về nhà để ăn tối trên con đường thênh thang; những nhiệm vụ lãng mạn gần đó và Cosgrove đang trở về nhà để ăn tối trên con đường thênh thang; cầu Cổng Vàng dưới ánh hoàng hôn tháng Sáu và Cosgrove đang này nọ nọ kia... Những thứ kiểu vậy.
Khi tôi nói, Thalia khẽ kêu lên vì sung sướng và sẵn sàng rời đi ngay lập tức. Chính cô ấy đã thuyết phục Cosgrove vào ngày thứ tư tham gia cuộc họp với chúng tôi trong phòng khách. Tôi đã nhắc người giúp việc rằng chúng tôi không muốn bị quấy rầy, và chúng tôi ngồi xuống để giải quyết toàn bộ sự việc.
Quan điểm của chúng tôi hoàn toàn khác nhau.
Harden trẻ tuổi rất giống với Nữ hoàng Đỏ trong Alice ở xứ sở trong gương. Ai đó đã phạm sai lầm và ai đó phải gánh chịu hậu quả ngay lập tức. Đã có đủ người chết giả trong gia đình này và sẽ có một người chết thật nếu không chú ý.
Tiến sĩ Harden cho rằng tất thảy là một mớ hỗn độn khủng khiếp và ông không biết phải làm gì với nó, có Chúa mới biết, và ông ước mình chết đi.
Thalia đã tìm hiểu về California trong một cuốn sách hướng dẫn. Cô nhận thấy khí hậu ở đó thật dễ chịu và Cosgrove đang trở về nhà để ăn tối trên con đường thênh thang.
Quan điểm của tôi là không có nút thắt nào chặt đến mức ta không thể tìm ra lối thoát mê cung, và còn nhiều phép ẩn dụ hỗn tạp khác khiến mọi người bối rối hơn lúc đầu.
Cosgrove Harden khăng khăng yêu cầu chúng tôi lấy ra bốn bản Con người Cao quý của Thế giới Linh hồn để thảo luận. Chú của anh ta nói rằng nhìn thấy một cuốn sách khiến ông phát ốm. Gợi ý của Thalia là tất cả chúng tôi nên đến California và giải quyết vấn đề ở đó.
Lát sau, tôi đã có bốn cuốn sách và chia cho mọi người. Tiến sĩ Harden nhắm mắt và rên rỉ. Thalia mở trang cuối cùng và bắt đầu vẽ những ngôi nhà bungalow thần tiên với một người vợ trẻ đang đứng ở ngưỡng cửa. Harden trẻ tuổi thì điên cuồng tìm kiếm trang 226.
“Đây rồi!” Anh ta kêu lên. “Ngay đối diện bức ảnh “Cosgrove Harden một ngày trước khi đi xa, với nốt ruồi nhỏ phía trên mắt trái”, sách viết: “Nốt ruồi này luôn khiến Cosgrove lo lắng. Anh ấy nghĩ rằng cơ thể phải hoàn hảo và đây là một khuyết điểm cần được gột rửa theo quy trình tự nhiên.” Hừm! Tôi không có nốt ruồi nào cả.”
Tiến sĩ Harden đồng tình.
“Có lẽ đó là sự bất toàn trong âm bản nhiếp ảnh.” Người chú nói.
“Vậy ư! Giả dụ âm bản không chụp nổi cái chân trái của cháu, người ta sẽ cho rằng cháu khao khát có được một chiếc chân trái trong suốt cuốn sách! Và nó liên quan đến chương 29 nữa.”
“Coi nào.” Tôi xen vào. “Chúng ta không thể đạt được một thỏa thuận nào đó sao? Không ai biết rằng anh đang ở trong thị trấn. Hay là chúng ta...”
Harden trẻ tuổi quắc mắt nhìn tôi dữ dội.
“Tôi vẫn chưa bắt đầu đâu. Tôi chưa đề cập đến sự suy giảm tình cảm của Thalia.”
“Suy giảm tình cảm!” Tiến sĩ Harden phản pháo. “Ôi trời, chú hiếm khi chú ý đến con bé. Nó ghét chú. Nó...”
Cosgrove bật cười chua chát.
“Chú lại tâng bốc mình rồi. Chú nghĩ rằng cháu ghen tị với bộ râu xám cũ kĩ của chú ư? Cháu muốn nói rằng tình cảm của Thalia dành cho cháu bị ảnh hưởng bởi những mô tả trong cuốn sách này.”
Thalia nghiêm túc cúi người về phía trước.
“Tình cảm của em không bao giờ suy suyển, Cosgrove, không bao giờ.”
“Nào, Thalia.” Cosgrove nói với giọng hơi gắt gỏng. “Tình cảm của em chắc hẳn đã suy suyển một chút xíu. Còn trang 223 thì sao? Em có thể yêu một người đàn ông mặc đồ lót lùng thùng? Ai lại bay phấp phới như vậy chứ!”
“Em rất đau buồn, Cosgrove. Em sẽ rất đau buồn nếu em tin vào điều đó, nhưng em đã không tin.”
“Không suy suyển?” Giọng của anh ta biểu lộ sự thất vọng.
“Không hề, Cosgrove.”
“Hừ.” Cosgrove bực bội nói. “Dù sao thì tôi cũng bị hủy hoại về mặt chính trị - ý tôi là, nếu tôi quyết định bước lên vũ đài chính trị, tôi sẽ không bao giờ có thể trở thành Tổng thống. Tôi thậm chí không phải là một bóng ma dân chủ - tôi là một linh hồn hợm hĩnh.”
Khuôn mặt của Tiến sĩ Harden vùi vào hai bàn tay với biểu cảm chán nản sâu sắc.
Trong cơn tuyệt vọng, tôi ngắt lời. Tôi nói to đến nỗi Cosgrove buộc phải dừng lại và lắng nghe.
“Tôi sẽ đảm bảo cho anh mười nghìn đô la một năm nếu anh rời đi trong mười năm!”
Thalia vỗ tay, còn Cosgrove nhìn cô qua khóe mắt. Đây là lần đầu tiên anh ta tỏ ra hứng thú.
“Sau khi hết mười năm thì sao?”
“Ồ.” Tôi nói đầy hy vọng. “Tiến sĩ Harden có lẽ sẽ... sẽ...”
“Cứ nói thẳng.” Vị tiến sĩ ủ dột nói. “Khi đó có lẽ tôi đã chết. Tôi thực lòng tin tưởng như vậy.”
“Và anh có thể trở lại dưới tên thật của mình.” Tôi tàn nhẫn nói tiếp. “Trong khi chờ đợi, chúng tôi đồng ý không in thêm sách.”
“Hmm, nếu ông ấy không chết trong mười năm nữa thì sao?” Cosgrove nghi ngờ hỏi.
“Ồ, chú sẽ chết.” Vị tiến sĩ nhanh chóng trấn an. “Điều đó thì cháu không cần phải lo lắng.”
“Sao chú biết được mình sẽ chết?”
“Làm sao người ta biết được mình sẽ chết í hả? Đó là bản năng của con người.”
Cosgrove nhìn ông chú của mình một cách chua chát.
“Khiếu hài hước không có chỗ trong cuộc thảo luận này. Nếu chú cam kết chết một cách trung thực, không do dự, vậy thì...”
Vị tiến sĩ buồn bã gật đầu.
“Khả năng chết của chú cao lắm. Với số tiền còn lại, chú sẽ chết đói trong khoảng thời gian đó.”
“Điều này cũng thỏa đáng đấy. Và khi chú ra đi, vì Chúa, xin hãy sắp xếp để mọi người chôn cất chú. Đừng chết trân trong nhà, đừng mong cháu quay lại đây xử lý hậu sự.”
Lúc này, vị tiến sĩ dường như cảm thấy cay đắng. Rồi Thalia, người đã im lặng một hồi, ngẩng đầu lên.
“Mọi người có nghe thấy tiếng gì bên ngoài không?” Cô tò mò hỏi.
Tôi đã nghe thấy tiếng gì đó. Tôi vô thức nghe thấy tiếng rì rầm đang lớn dần, hòa lẫn tiếng bước chân của nhiều người.
“Tôi có nghe thấy.” Tôi nhận định. “Thật kỳ lạ...”
Có một sự gián đoạn đột ngộ. Tiếng rì rầm bên ngoài lớn dần, chuyển thành một bài ca; cánh cửa bật mở và một người hầu lao vào với ánh mắt hoang dại.
“Tiến sĩ Harden! Tiến sĩ Harden!” Bà ta hét lên trong nỗi kinh hoàng. “Có một đám đông, có lẽ cả triệu người, đang đi dọc con đường và tiến về phía ngôi nhà. Họ sẽ ở ngoài hiên trong một...”
Tiếng ồn vang lên rõ rệt, chứng tỏ họ đã ở ngoài hiên rồi. Tôi bật dậy.
“Hãy giấu cháu trai của ông đi!” Tôi hét lên với Tiến sĩ Harden.
Bộ râu run rẩy, đôi mắt ngấn nước mở to, Tiến sĩ Harden yếu ớt nắm lấy khuỷu tay của Cosgrove.
“Chuyện gì vậy?” Ông ú ớ hỏi.
“Tôi không biết. Hãy đưa anh ta lên tầng áp mái ngay lập tức, phủ lá lên người anh ta, nhét anh ta vào sau một món đồ gia truyền!”
Nói đoạn, tôi rời đi, để lại ba con người trong sự hoang mang bối rối. Qua hành lang, tôi chạy vội ra khỏi cửa trước, ra đến mái hiên có màn chắn. Nhưng không kịp rồi.
Dưới mái hiên có màn chắn, tôi thấy chật ních đàn ông và trai trẻ mặc com lê kẻ ca-rô và đội mũ kín mít, những ông già thì bận mũ quả dưa và áo vét sờn cũ; họ chen lấn xô đẩy, mỗi người đều ra hiệu và gọi tên tôi trong đám đông. Dấu hiệu phân biệt duy nhất của họ là một cây bút chì trên tay phải và một cuốn sổ ghi chép trên tay trái - một cuốn sổ đang mở, đang chờ đợi, vẫn còn trắng tinh một cách đáng lo ngại.
Phía sau họ, trên bãi cỏ, có một đám đông lớn hơn: những người bán thịt và thợ làm bánh đeo tạp dề; những người phụ nữ béo đang khoanh tay; những người phụ nữ gầy đang bồng những đứa trẻ bẩn thỉu để chúng có thể nhìn rõ hơn; những cậu bé la hét; những con chó đang sủa; những cô gái trẻ đang nhảy cẫng lên, hò la và vỗ tay. Phía sau những người này, ở vòng ngoài, là những ông già trong làng, không răng, mắt mốc meo, miệng há ra, bộ râu bạc cọ vào đầu của cây gậy. Phía sau họ, mặt trời đang lặn, đỏ như máu và khủng khiếp, đè lên đôi vai quằn quại của ba trăm con người.
Sau mớ ồn ào kinh hoàng do sự xuất hiện của tôi gây ra, sự tĩnh lặng bao trùm. Đó là sự u tịch sâu sắc và đầy ý nghĩa. Rồi hàng chục giọng nói của những người đàn ông với những cuốn sổ trước mặt tôi cất lên.
“Tôi là Jenkins đến từ Toledo, hãng thông tấn Blade.”
“Tôi là Harlan đến từ Cincinnati, hãng thông tấn News.”
“Tôi là M’Gruder đến từ Dayton, hãng thông tấn Times.”
“Tôi là Cory đến từ Zanesville, hãng thông tấn Republican.”
“Tôi là Jordan đến từ Cleveland, hãng thông tấn Plain Dealer.”
“Tôi là Carmichael đến từ Columbus, hãng thông tấn News.”
“Tôi là Martin đến từ Lima, hãng thông tấn Herald.”
“Tôi là Ryan đến từ Akron, hãng thông tấn World.”
Chuyện này thật quái đản, hết sức quái đản, như thể bản đồ của Ohio phát điên rồi, với những tuyến đường chằng chịt đan bện vào nhau, quận này nhảy sang quận khác. Não tôi quay cuồng.
Sau đó, một lần nữa, sự tĩnh lặng phủ xuống. Tôi để ý thấy một sự xáo động ở giữa đám đông, nó giống như một cơn sóng hoặc một cơn lốc đang hoành hành, khiến tôi liên tưởng tới một ngọn gió mát lành lùa qua cánh đồng lúa mì.
“Các người muốn gì?” Tôi gào lên bằng giọng khàn đặc.
Một giọng nói đáp lại tôi, thay cho năm trăm cái cổ họng đang chực lên tiếng.
“Cosgrove Harden đang ở đâu?”
Bại lộ rồi! Đám phóng viên vây quanh tôi, cầu xin, đe dọa, đòi hỏi.
“Ông cố tình che giấu sự thật phải không? Gần như không rò rỉ ra ngoài? Ông đã trả rất nhiều tiền? Anh ta có thể trả lời phỏng vấn không? Đem tên lừa đảo già nua ra đây...”
Sau đó, cơn sóng người kỳ lạ bất đồ tiến lên rồi dừng lại. Một thanh niên cao ráo với mái tóc vàng và đôi chân giống như cà kheo nhanh chóng xuất hiện từ trong đám đông, hàng chục cánh tay tình nguyện đẩy anh ta về phía tôi. Anh ta đến hiên nhà, bước lên từng bậc...
“Anh là ai?” Tôi thét lên.
“Tên tôi là Elbert Wilkins.” Anh ta thở hổn hển. “Tôi là kẻ đã tiết lộ sự thật.”
Anh ta dừng lại, ngực phồng lên. Đó là khoảnh khắc vĩ đại của anh ta. Anh ta là sứ giả bất tử của các vị thần.
“Tôi đã nhận ra anh ta vào cái ngày anh ta đến đây! Ông thấy đó...” Cả hai chúng tôi vội vã tiến lại gần nhau. “Tôi đã nhận được giấy ghi nợ của anh ta, tổng là ba đô la tám mươi xu. Anh ta đã thua tôi khi chơi bài poker, và tôi muốn tiền của tôi!”
*** ***
Tôi là chủ một nhà xuất bản. Tôi xuất bản bất kỳ loại sách nào. Tôi đang tìm một cuốn sách sẽ bán được năm trăm nghìn bản. Giờ đang là thời đại của những cuốn tiểu thuyết mang hơi hướng tâm linh. Nếu khả thi, tôi thích thứ gì đó được viết bởi một nhà duy vật nhiệt huyết, nói về một gã nhà giàu và một cô gái Apache có làn da sạm màu, hoặc những thứ tương tự về tình yêu. Tình yêu là thứ hiển nhiên. Một con người phải sống để yêu.
Sách
/sach
Bài viết nổi bật khác
- Hot nhất
- Mới nhất