Tôi làm phụ xe cho chuyến xe đò chạy tuyến cố định từ Sài Gòn về Đồng Tháp, ngày hai chuyến. Lúc nào cũng vậy, tôi ngồi ở hàng ghế cuối cùng, đếm khách, dán vé, và thỉnh thoảng ngồi mơ màng nhìn ra cửa sổ.
Tịnh Thu là khách quen. Cô ấy đi chuyến chiều, tuần nào cũng bắt xe ở bến Nguyễn Duy Dương, về Cao Lãnh. Lúc đầu tôi chỉ nhớ cô ấy vì hay mặc áo sơ mi trắng, tóc buộc cao, và luôn ngồi ghế số 10, gần cửa sổ. Không nói nhiều, thường chỉ gật đầu cảm ơn mỗi lần tôi đưa nước.
Khoảng tháng thứ ba, tôi mới bắt đầu để ý cô hay ôm một bó hoa nhỏ – khi thì cúc trắng, khi thì lay ơn. Có lần, vì xe dừng ở bến ăn trễ, tôi bắt chuyện:
– Tặng ai mà tuần nào cũng ôm hoa vậy? Cô ấy cười nhẹ, nhìn ra ngoài: – Em đem về cắm. Cho ba. – Ổng thích hoa dữ ha? – Ổng mất rồi.
Tôi không hỏi nữa.
Từ hôm đó, tôi thường để phần cho cô một chỗ ngồi yên tĩnh. Có lần mưa, tôi nhường luôn áo mưa của mình. Cô vẫn cảm ơn bằng cái gật đầu. Nhưng không hiểu sao, mỗi lần gặp cô, tôi thấy lòng mình dịu lại. Có gì đó rất yên.
Một ngày, cô không lên xe nữa. Tôi thấy hàng ghế số 10 trống mấy tuần liền. Cứ mỗi lần ra bến, tôi lại đưa mắt nhìn quanh như chờ ai đó quen. Nhưng rồi quen dần.
Gần Tết năm đó, tôi nhận được một gói nhỏ từ anh tài cũ – nói là có người gửi cho tôi từ Cao Lãnh. Bên trong là một cái khăn tay thêu hoa cúc, và mảnh giấy gấp làm tư:
“Anh là người đầu tiên sau nhiều năm em thấy tin tưởng. Em từng không tin có người yêu ai đó đến tận cùng. Nhưng có lẽ em đã sai.
Tịnh Thu, Tịnh Thu! Em có thể chưa từng yêu ai, vậy nên em không tin thế giới này có tình yêu vĩnh cửu. Đợi em yêu ai đó rồi, em sẽ biết thế giới này có một người mà dẫu có chết em cũng không quay lưng lại với người ấy.”
Tôi đọc đi đọc lại đoạn đó suốt cả chuyến xe ngày hôm ấy.
Ghế số 10 vẫn trống.