1.
Nàng mê bánh rán hơn tất thảy mọi thứ trên đời. Không phải bánh rán donut kiểu Mỹ, làm bằng bột mì, nặn thành hình vòng rồi đem chiên lên, sau đó phủ đường hoặc chocolate cùng đám hạt cốm xanh đỏ tím vàng, thứ nàng ăn đến mê mải là món bánh rán mặn làm bằng bột  nếp kia, với nhân bánh gồm thịt và mộc nhĩ xay nhuyễn.
Tôi thường hay mường tượng ra cảnh những ngón tay thon thả của nàng gắp liên tiếp từng miếng bánh nóng hổi, ăn kèm với nước chấm chua ngọt. Những chiếc bánh rán có hình dạng như củ khoai tây nho nhỏ, với lớp vỏ vàng cam bóng bẩy, ngoan ngoãn đi từ chảo lên đĩa, rồi từ đĩa vào cơ thể nàng thon gọn không chút mỡ thừa.
Nhiều lúc tôi rất ngạc nhiên khi số lượng bánh rán mà nàng đã tiêu thụ hàng tuần, cùng với lượng thức ăn dồi dào mỗi bữa chính (mà tôi đã có dịp chứng kiến khi ngồi ăn cùng nàng) lại cứ như thể đã tan thành mây khói, không hề để lại chút vết tích nào trên số cân nặng của nàng. Có phải là do cầu lông không nhỉ? Tôi phỏng đoán. Nàng chơi cầu lông rất cừ, chúng tôi quen nhau cũng vì cùng tham gia câu lạc bộ cầu lông của trường đại học. Bạn phải xem nàng chơi cầu lông mới được. Những bước chân di chuyển nhanh nhạy và nhịp nhàng, từng cú vụt mạnh mẽ như cắt vào không khí, nụ cười thỉnh thoảng lại xuất hiện trên gương mặt hồng rực và lấm tấm mồ hôi, và thứ sinh lực non trẻ, lấp lánh như đường cát cứ phập phồng theo từng chuyển động của nàng trên sân. Chứng kiến tất cả những điều này, bạn sẽ đến yêu nàng mất thôi, như tôi đã yêu nàng vậy.
Quán bánh rán nàng hay ghé nằm ở đầu một con ngõ rộng cỡ vừa. Nàng miêu tả về nó với tôi một cách tỉ mỉ đến độ dù tôi chưa ghé nơi đó bao giờ, trong tâm trí tôi cũng đã cắm sẵn một cái quán nhỏ với vài ba chiếc bàn nhựa, một cái chảo lớn và những cái bánh mới nặn, trắng tinh đang chờ được chiên vàng, và cả hình ảnh nàng luôn ngồi một góc mà ăn hết đĩa bánh này đến đĩa khác. Một phần tiền lương làm thêm hàng tháng của nàng đều tiêu biến vào quán bánh rán ấy. Mỗi lần nhắc đến bánh rán với tôi, nàng luôn có vẻ thích chí lạ lùng.
“Vậy hôm nào cậu đến đó ăn thì cho tớ đi cùng được không?” Tôi từng hỏi nàng như vậy.
“Cậu cũng thích bánh rán à?” Nàng nhìn tôi, tay xoay xoay vợt cầu lông nhẹ bẫng.
“À… cũng không hẳn.” Tôi hơi lúng túng. “Thực ra tớ ít ăn vặt kiểu đó, nhưng nghe cậu kể thì lại thấy hấp dẫn, nên tớ muốn ăn thử xem sao.”
“Bình thường tớ chỉ hay ăn một mình thôi. Nhưng nếu cậu muốn thử thì lần khác đến đó tớ sẽ gọi cho cậu.” Nàng đáp. Ngoài trời mưa chợt đổ xuống sân trường, ướt đẫm.
Suốt cả năm học đó, tôi đã đợi, nhưng nàng chưa hề rủ tôi đi ăn bánh rán cùng, dù chỉ một lần. Tôi đoán là nàng thích ăn một mình hơn, trong cái quán ven đường bé nhỏ ấy.

2.
Starfish (1986) - Andrew Wyeth
Tôi tỏ tình vào năm thứ hai chúng tôi quen nhau.
Đó là một ngày mùa thu, khi năm học mới đã bắt đầu được hơn một tháng. Chiều hôm đó, tôi và nàng lại cùng nhau đánh cầu lông trong nhà tập của trường. 4 giờ chiều, tập xong, nàng hỏi tôi có bận không và có muốn đi loanh quanh cùng nàng không. Vốn không có kế hoạch gì để tiêu tốn nốt chiều thứ Bảy, tôi về nhà trọ gần trường cất vợt cầu lông của cả tôi và nàng, rồi cùng nàng đi bộ.
Trời đã bước sang tiết thu. Vài con chuồn chuồn bay lượn rập rờn trước mặt chúng tôi rồi lặn mất dưới nắng chiều. Sân trường ngày thứ Bảy vắng ngắt, ở sảnh vài tòa nhà chỉ còn lại  mấy nhóm người đang tập nhảy, hoặc túm tụm bàn thảo chuyện gì đó. Đi cạnh nàng, tôi nói chuyện gia đình, trường lớp, cả những chuyện vặt vãnh mà đến giờ tôi đã quên mất sạch. Nàng nói gì đó về việc nàng thấy đi học không còn vui nữa, và vài câu chuyện về những nhân vật kì lạ trong lớp. Khi nàng nói, tôi quay sang nhìn vào vầng trán mịn, vành tai trái nhỏ nhắn và đôi mắt nàng. Dưới ánh sáng của bầu trời mùa thu, đôi mắt ấy càng trở nên trong vắt. Nàng nhìn thẳng vào tôi, và cùng lúc đó như thể nàng đang nhìn vào một hành tinh xa xôi nào khác.
Chúng tôi dừng lại ăn chè ở một tiệm gần trường tiểu học cũ của nàng. Nàng chọn chè thập cẩm, và tôi có thạch dừa. Ngồi đối diện tôi, nàng nhẩn nha xúc thêm đá vào cốc chè để giảm bớt độ ngọt. Trong phút chốc, tôi chợt thấy mình cứ như một đứa trẻ tám tuổi ngồi trong tiệm chè, với cốc thạch dừa trước mặt. Một nỗi nhớ tiếc với những hàng quán tuổi thơ chợt ào đến rồi tan biến mất.
Hình như sau mùa hè, nàng đã xinh hơn một chút, tóc cũng dài hơn. Đường nét gương mặt vẫn vậy, nhưng có những nét tròn trịa và bầu bĩnh hồi tôi mới gặp đang dần biến đổi, như là, như là…
“Cậu đã quen hẳn với việc sống ở đây rồi nhỉ?” Nàng lên tiếng. Những suy tưởng của tôi đột ngột chấm dứt khi giọng nói nàng vang lên.
“Cũng quen hơn rồi. Hồi đầu rời nhà lên đây học tớ cũng ngơ ngác lắm, đi lạc nhiều lần lắm.” Tôi cười.
“Sống xa gia đình cậu thấy thế nào? Ý tớ là, tự dưng những người thân và cả gia đình trước đây lại ở cách mình gần trăm km, cậu thấy ổn không?”
“Thì cũng phải quen thôi, ngôi trường tớ muốn học nằm ở đây mà. Mà thực ra, xa gia đình dù cuộc sống không tiện nghi như trước, giá thuê nhà đắt đỏ và đôi khi bạn cùng phòng làm cho mình tức điên lên, nhưng đổi lại tớ bắt đầu có cảm giác rõ rệt về tự do. Giống như là đang từ từ nắm bắt lấy cuộc sống này với hai bàn tay của mình vậy, và lái nó theo hướng mình muốn.”
“Như lái ô tô hả?” Nàng khúc khích.
“Kiểu như vậy. Thực ra tớ mới chỉ biết lái xe đạp và xe máy thôi.”
Chúng tôi trò chuyện thêm một lúc nữa rồi rời khỏi tiệm chè và tiếp tục đi bộ. Nàng muốn đến đoạn đường có trồng rất nhiều cây sứ và tôi chỉ việc đi theo nàng đến đó. Đường cứ trải dài ra mãi, không bao giờ hết đường để chúng tôi đi. Tôi nhìn những sải chân khỏe khoắn của nàng, nghĩ đến lần đầu tiên thấy nàng ở câu lạc bộ. Khi ấy, cách cầm vợt của nàng còn giống vận động viên tennis. Đầu óc tôi vẫn còn đang để ở sân tập và dáng vẻ vụng về ban đầu của nàng trong quá khứ thì chợt nàng kéo nhẹ cánh tay tôi.
“Đi nhanh hơn một chút đi trước khi trời tối.” Nàng nói.
Tôi ngước nhìn bầu trời vẫn còn ánh nắng rồi rảo chân hơn. Nàng nói đúng, chỉ một lúc nữa sắc xanh thẫm sẽ loang ra khắp trời.
Khi đến được chỗ hàng cây sứ, nàng quay người lại. Ngay lúc đó, tôi ngỏ lời với nàng. Tôi cũng không rõ tại sao mình lại hành động bột phát như thế. Nhưng đột nhiên, vào lúc những tia nắng cuối ngày sắp tắt, và nàng bước trên đống lá khô lạo xạo dưới chân, quay đầu lại nhoẻn miệng cười với tôi, trong tôi bỗng có một thôi thúc phải nắm giữ lại khoảnh khắc này trước khi nó vụt đi mất, dù chỉ là giữ lại một chút thôi cũng được. Vậy là tôi buột miệng nói ra tình cảm của mình.
Nàng im lặng một lúc lâu, nụ cười dần biến mất như đóa hoa tuyết gặp trời nắng ấm. Rất nhanh, bầu trời chiều chuyển sang tối thu, những hàng đèn đường bật lên đều tăm tắp.
“Cảm ơn cậu. Nhưng lúc này, tớ không muốn yêu ai, cũng không thể yêu ai. Tớ xin lỗi.”  Đó là câu trả lời của nàng trước khi nàng để tôi lại trên đường và bước vào một chiếc taxi vừa trờ tới.

Tối hôm đó, tôi cứ nằm trên giường, nhìn mãi vào bức tranh Gió từ ngoài biển của Andrew Wyeth. Vốn rất thích bức tranh ấy nên từ khi lên đại học tôi đã in ra một bản thật đẹp, treo lên tường. Vừa trông vào ô cửa sổ trong tranh, tôi vừa nghĩ đến đôi mắt trong như nước hồ của nàng. Trước lúc bỏ đi, nàng còn định nói thêm với tôi điều gì đó, nhưng hình như mọi từ ngữ đã bị khóa chặt dưới một lớp băng dày và cứng ngắc, không có đường thoát ra. Nàng đã từ chối tình cảm của tôi, hẳn rồi, nhưng rốt cuộc, nàng thực sự đã muốn nói gì? Có phải tôi, với sự nông nổi và ngạo mạn cứ tưởng rằng mình nắm trong tay tất cả, đã phá hỏng buổi chiều ấy, một chiều thứ Bảy lẽ ra đã rất đẹp khi tôi được ở cạnh người con gái mình yêu? Tôi cứ nhìn mãi vào tấm rèm cửa tung bay theo làn gió thổi từ ngoài biển, trong lúc màn đêm lặng lẽ trôi qua với những câu hỏi không lời đáp.
(còn tiếp)
Việt Anh
Ảnh đầu bài: Wind from the sea (1947) - Andrew Wyeth