Một buổi sáng mùa hè, hắn tỉnh giấc và chợt nhận ra mình đã hóa thành một con bướm.
Chính xác thì, hắn không nhận ra điều đó cho đến khi ngắm nhìn phản chiếu của mình trong mắt những người bạn tù xung quanh. Từ các tròng mắt đen và nâu hiện lên hình dáng một sinh vật có cặp cánh và đôi râu mảnh. Hắn cố nói với họ nhưng thứ phát ra chỉ là âm thanh đập cánh. Họ chăm chú nhìn hắn với vẻ ngạc nhiên làm rạng lên một chút khuôn mặt buồn tẻ ngày thường, rồi nhanh chóng quay đi để kịp giờ tập trung buổi sáng, không một ai gọi tên hắn hay nói lời chào như mọi khi. Hắn đã trở thành bươm bướm.
Trước sự kiện mới mẻ này, hắn phấn khích di chuyển khắp căn phòng, rồi hối hả vỗ cánh bay về phía cửa sổ, vượt qua hàng chấn song, đắm mình vào những hạt bụi lơ lửng trong ánh nắng. Hắn đã được tự do.
Tự do. Tự do. Tự do. Đó là thứ hắn đã mong mỏi suốt bấy lâu, kể từ lúc đặt chân vào nhà tù năm hai mươi tuổi. Vậy nên, khi tự do ập đến, dù theo một cách quá đỗi kì lạ, hắn vẫn sung sướng đến nỗi muốn hét lên thật to. Giờ đây chẳng có ai nghe được tiếng hắn hét, nhưng mặc kệ, hắn vẫn hét theo cách của riêng mình, đồng thời ra sức bay thật nhanh khỏi lớp tường rào có gắn kẽm gai tua tủa. Hắn bay như thể bị ai đó đuổi sau lưng, dù vẫn còn chút lạ lẫm với cơ thể mới. Cho đến khi ở ngoài khoảng đất nhà tù, hắn mới ngừng bay.
*
Đậu trên một nhành cây, hắn trông xuống vạt cỏ xanh còn ướt những giọt mưa từ đêm qua. Ở trong tù cũng có những bãi cỏ hắn ngày ngày đi qua trong lúc xách nước tưới rau, nhưng vạt cỏ bên ngoài bức tường lại có vẻ tươi hơn, xanh hơn. Có thể hắn đã bị nỗi háo hức làm cho lú lẫn, cỏ ở đâu cũng là cỏ, huống hồ chúng chỉ cách nhau có một bức tường. Nhưng cũng có thể chỉ vì bức tường nên chúng mới trở nên khác biệt. Đã tám năm rồi hắn mới lại được trông thấy thế giới bên ngoài trại giam. Hắn muốn khóc, nhưng loài bướm không có nước mắt.
Hẳn là bây giờ trong trại giam đang hỗn loạn lắm, hắn nghĩ trong lúc nhìn chằm chằm vào vũng nước đọng trên mặt đất. Một con người bằng xương bằng thịt vừa biến mất khỏi hàng rào được canh phòng cẩn mật, bốc hơi gọn ghẽ hệt như giọt nước mưa. Đây là chuyện động trời chứ chẳng đùa, hắn hình dung ra cảnh mấy viên cai ngục đi đi lại lại, lùng sục khắp các buồng giam và bầu không khí huyên náo mà sự vắng mặt của hắn vừa khuấy lên.
Hắn chìm vào cái khung cảnh xao xác ấy trong đầu một lúc lâu trước khi trở về với thực tại. Từ nhành cây, hắn thấy chính mình trong vũng nước: một con bướm có đôi cánh óng ánh như vỏ trai dưới ánh nắng, viền bằng đường nét mềm mại, duyên dáng, trên cánh điểm những đốm xanh biếc. Hắn chưa từng thấy loài bướm nào như thế. Hoặc cũng có thể chúng đã từng ở ngay cạnh hắn mà hắn chẳng hề hay biết. Đã từ rất lâu, ngày nào hắn cũng lầm lũi sống, có lúc còn không buồn ngẩng đầu lên nhìn trời. Nếu như toàn bộ loài bướm trên thế giới có tuyệt chủng, chắc hắn cũng còn lâu mới nhận ra, hắn còn phải bận rộn đi hết những tháng ngày ròng rã trong cuộc đời mình, dù có thể đó là một cuộc đời chẳng ra sao.
Rời khỏi nhành cây, hắn bay vòng vòng phía bên đường đối diện cổng trại giam. Giống như bỗng dưng một ngày có người xông vào khuân đồ đạc của hắn ra khỏi nhà, phủi tay, vỗ vỗ vào vai gã và cười thông báo “Giờ anh có thể đi bất cứ đâu” vậy. Hắn không muốn ví von trại giam với “nhà”, nhưng còn so sánh nào hợp lý hơn với tâm trạng lúc này? Xa khỏi những chấn song, bộ quần áo trông như ngựa vằn, lão “đại ca” phòng giam lúc nào cũng bắt hắn giặt quần áo hộ, dĩ nhiên là hắn vui. Nhưng từng phút trôi qua, niềm vui từng bước nhường chỗ cho nỗi hoang mang. Hắn biết đi đâu bây giờ, trong hình dạng một con bướm?
Đang mải suy nghĩ, hắn thoáng giật mình khi tiếng kéo cổng sắt trại giam vang lên. Một người tù – nay là người bình thường đang xách túi đồ đứng ngoài cổng trại. Khi tiếng đóng cổng vang lên lần nữa, anh ta hơi ngoái lại phía sau rồi quay người đứng hướng về phía mặt đường. Vẻ mặt người đàn ông này hẳn cũng giống biểu cảm của hắn khi mới rời khỏi trại, đấy là nếu như hắn còn có một khuôn mặt. Trông anh ta ngơ ngác như một con thú hoang ở bìa rừng.
“Mẹ!” Anh ta thốt lên, chạy về phía người phụ nữ lớn tuổi vừa đi xe tới.
Con thú hoang đã có một nơi để trở về. Sau khi người đàn ông cùng mẹ anh ta đi khuất khỏi những bức tường kiên cố, hắn cũng bay đi. Về nhà.
*
Nhà hắn khóa cửa, im lìm. Trước đây, hắn đã từng có một mái nhà, và hắn vẫn chưa quên đường về. Hắn di chuyển quanh nhà một hồi, dập dờn phía ngoài những ô cửa kính. Ngôi nhà trông vẫn vậy kể từ ngày hắn nhìn nó lần cuối, chỉ là nó cũng không đứng ngoài sự chảy trôi của thời gian, với hàng tá vết nứt chạy dọc mảng tường cùng cánh cửa bạc phếch. Khi rời khỏi đây, hắn vẫn còn trẻ, ngôi nhà cũng còn trẻ, và hắn còn có một gia đình. Đến khi quay lại, hắn chỉ còn là người lạ trước cái ổ khóa cổng. Nhưng không sao, hắn sẽ đợi, đợi đến khi gia đình của hắn quay về. Hắn về bất thình lình quá mà, hẳn là giờ này cha, mẹ hắn còn đang đi làm, em gái hắn đang ở trường học.
Vậy là hắn đợi, từ sáng đến trưa, từ trưa đến chiều. Trong lúc chờ đợi hắn đã kịp đảo một vòng làng xóm, trêu con chó nhà bên cạnh đến mức nó thở hổn hển sau mấy vòng rượt đuổi. Lũ chó thật lạ, chúng luôn đuổi theo mấy cánh bướm dù chẳng bao giờ bắt được. Con chó này cũng già thật rồi, ngày hắn đi nó vẫn còn là chú chó con hay chạy nhảy khắp nơi với cái mũi ươn ướt. Sau một hồi đuổi bắt với con chó, hắn đậu lên sân thượng và mường tượng về gia đình. Đường nét ban đầu còn mờ mờ nhưng dần trở nên rõ rệt như một cuốn phim, sống động đến mức khi tiếng mở khóa lách cách vang lên, hắn mất mấy giây mới bừng tỉnh khỏi hồi ức để nhào xuống phía ánh sáng đang phát ra từ bên dưới. Nơi quầng sáng ấm áp ấy đang có cha, mẹ và em gái hắn. Hắn bỗng hồi hộp và bay chậm lại không rõ vì lý do gì. Dẫu là một cánh bướm, hắn cũng rón rén như thể sợ bị phát hiện.
Đồ đạc và màu sơn tường đều thay đổi, hầu như không có chi tiết nào gợi nhớ đến nhà hắn năm xưa.
Những nụ cười và câu chuyện vang lên cũng khác.
Gia đình hắn đã chuyển đi từ bao giờ.
Con chó nhà bên nhỏm đầu dậy khi hắn lướt qua. Tiếng sủa của nó bị màn đêm nuốt chửng. Hắn bay, bay đi bên dưới những vì sao trên trời thăm thẳm, bỏ xa ánh sáng phát ra từ phía căn nhà.
Hắn ước có thể chôn hết mớ cảm xúc vào một cái hố thật sâu trong lòng, lấp nó lại, để hắn khỏi đau. Suốt thời gian qua, dù không có một lá thư, một cuộc điện thoại hay ghé thăm nào từ người nhà, hắn vẫn không từ bỏ niềm tin, như một kẻ chết đuối cố sức quơ quào từng mảnh gỗ tan tác trên mặt biển. Không phải là họ đã quên hắn đâu, chỉ là họ bận quá, vất vả quá mà thôi, rồi sẽ đến lúc họ nối lại liên lạc. Hắn luôn tự vỗ về mình như thế, sau mỗi lần những người bạn tù lần lượt gặp mặt người thân, còn hắn đợi mãi không thấy tin tức gì. Hắn biết mình cố chấp, hắn tự biết mình thảm thương đến tội nghiệp. Nhưng, nếu như không bướng bỉnh bấu víu vào cái hy vọng đang yếu ớt như cánh chim trong bão ấy, thì hắn còn biết dựa vào đâu để sống cho qua tháng năm dài dằng dặc trong tù?
Hắn vỗ cánh liên tục giữa đêm tối dù chẳng biết đi đâu. Trong hàng vạn đốm sáng đang tỏa ra từ các ngôi nhà, không có nổi một nơi dành cho hắn. Giá mà hắn vẫn ở trong căn phòng giam chỉ có thể ngắm bầu trời qua những ô sắt hình vuông, vậy thì hắn sẽ vẫn sống tiếp với xác tín nhỏ nhoi rằng ở đâu đó ngoài kia vẫn có người đợi hắn. Nhưng giờ thì hết rồi, bầu trời đã rộng hơn nhiều so với hàng chấn song, cái giá hắn phải trả cho tự do chính là sự thật, ngoài kia không có gì đợi hắn ngoài sự thật. Gia đình đã bỏ rơi hắn từ lâu rồi. Từ rất lâu rồi, hắn lẩm bẩm trước khi rơi xuống vì kiệt sức.
*
Điều đầu tiên hắn thấy sau khi tỉnh dậy là một nụ cười đẹp như nắng mai, ngọt dịu đến độ tạm xua tan đi tảng mây mù nặng trĩu đang phủ đầy trong lòng hắn.
Cô bé đang cười với hắn kia trẻ quá, chỉ khoảng mười sáu, mười bảy tuổi là cùng. Lâu rồi, lâu tới độ hắn chịu không nhớ nổi, mới có người cười hồn nhiên với hắn như vậy.
“Papilio arcturus!” Cô bé thì thầm với hắn. Vẻ trẻ thơ trên khuôn mặt cô chợt khơi lên trong hắn nỗi buồn về những điều không bao giờ có lại được.
Vậy là hắn đã biết tên của mình, hoặc của loài bướm đang chở trong mình tâm hồn hắn. Rốt cuộc hắn là ai, là một người tù, hay là một con bướm? Cũng không còn quá quan trọng, hắn có thể là một người tù đã hóa thành con bướm, hay con bướm đã hóa thành chính hắn, dù sao thì hắn cũng đã thoát ra ngoài. Và papilio arcturus quả là một cái tên hay, nghe du dương hơn cả tên thật của hắn. Hay hơn cả cái tên chính là giọng nói của cô bé ấy. Nó ngân lên tựa như nốt nhạc bằng thủy tinh tan vào không gian, để lại dư âm bồi hồi vang vọng. Nó giống như âm thanh phát ra từ một chiếc hộp nhạc mà đã từ lâu hắn chưa được nghe lại.
Hồi học lớp Năm, hắn từng có một chiếc hộp nhạc bằng gỗ, do một người bạn hàng xóm cho mượn. Chiếc hộp to cỡ bàn tay người lớn, khi mở nắp lên sẽ có anh lính chì và cô vũ nữ chầm chậm xoay trong giai điệu một bài hát hắn không biết tên. Chỉ cùng một giai điệu mà hắn nghe đi nghe lại, bởi mỗi lần chuỗi thanh âm như nước rơi ấy vang lên, hắn đều bước vào một chốn kì diệu. Hắn chưa từng sở hữu món đồ chơi nào thú vị như thế, tất cả đồ chơi hắn có đều được tự chế thô sơ và vụng về. Chúng cũng đầy màu sắc và sức sống trong tưởng tượng của hắn, nhưng không có thứ nào tinh tế và biết cất tiếng như chiếc hộp nhạc.
Từ ngày có nó, hắn bắt đầu có một giấc mơ, kiểu giấc mơ của trẻ con, thành thật và ngây ngốc, rằng một ngày nào đó hắn sẽ kiếm ra thật nhiều tiền, để sưu tập những hộp nhạc trên khắp thế giới. Khi ấy, hắn sẽ tặng cho cha, mẹ và em gái mỗi người một hộp nhạc thật đẹp, để họ trong phút chốc cũng được đắm mình vào một chốn khác. Và khi trở ra, họ sẽ ngạc nhiên và thích thú như hắn đã từng. Giấc mơ ấy đã ở lại với hắn khá lâu, lớn lên từng chút như một hạt mầm khỏe khoắn, cho đến một hôm cha hắn trở về nhà vào tối muộn, hơi thở nồng mùi rượu.
“Trong lúc tao và mẹ mày vất vả đi kiếm tiền ở ngoài thì mày ngồi nghe nhạc!”
Bụp!!! Sau cú ném của cha hắn, hộp nhạc vỡ tan thành mấy mảnh dưới sàn nhà. Chú lính chì và cô vũ nữ vỡ đôi thành những hình thù cụt ngủn. Khi cha hắn ngủ say, hắn vội lượm hết những mảnh vụn lên, loay hoay gắn chúng lại bằng keo. Nhưng dù cho chiếc hộp đã vuông vắn trở lại, chú lính và cô vũ nữ lại nắm tay nhau trở về trên bục xoay thì bản nhạc đã tan biến mãi mãi. Âm nhạc vừa bị tước đi khỏi hắn thô bạo như cách người ta giật miếng bánh khỏi tay một đứa trẻ mà không một lời giải thích. Chiếc hộp ấy quý giá với hắn như vậy mà cha nào hay biết gì. Âm nhạc không khi nào hiện diện trong nhà hắn, thay vào đó là bữa cơm đầy lời hằn học và than thở vì cái nghèo.
Tôi muốn kiếm thật nhiều tiền. Để làm gì? Để mua những cái hộp nhạc. Để làm gì nữa? Để không ai có thể tùy ý lấy đi hộp nhạc của tôi. Hắn lúc mười tuổi tự trò chuyện với chính mình bên chiếc hộp câm lặng.
Giữa hồi ức về giai điệu trong chiếc hộp, hắn bay lên khỏi ánh mắt cô gái, khám phá căn phòng. Hẳn là cô đã trông thấy hắn nằm đâu đó trên sân vườn vào sáng nay, và mang hắn về đặt trên bàn học. Nơi cô ở trông giống một phòng thí nghiệm với những chiếc lọ đựng mẫu vật côn trùng bày trên giá. Hắn dừng lại trước một con bọ cánh cứng đang trôi nổi trong chất cồn, rồi đậu lên một tấm huy chương vàng lấp lánh trong tủ kính. Cô bé này hẳn là một học sinh xuất sắc trong môn Sinh học, những giải thưởng, bằng khen nằm khiêm tốn ở một góc tủ là bằng chứng rõ rệt. Và hàng loạt mẫu vật côn trùng kia nữa, nhà khoa học tương lai hẳn đang nghiên cứu những tiêu bản đầu tiên trong đời. Cô là tập hợp của những gì hắn chưa từng có hồi đi học, như niềm đam mê học hành, hay thành tích nổi trội, nên trong phút chốc, hắn bỗng ghen tị với cô. Hắn mong mình đừng biến thành bướm, mà thành người như cô để thử sống đời một người luôn được trường học và gia đình khen ngợi, yêu mến. Còn ai nỡ nặng lời hay phân biệt đối xử với hắn, nếu hắn giỏi giang và lanh lợi đến vậy? Lúc gia đình yêu cầu hắn nghỉ học khi hết năm lớp chín, hắn cũng đâu tiếc nuối quá nhiều. Dù gì hắn cũng thiếu say mê với học hành, và đã quen với việc bị gọi là một thằng bé chậm chạp và ngốc nghếch. Bên dưới, cô bé đã thôi cười, và dõi theo gã với đôi mắt trong như sương trên cỏ.
Ngay lúc đó, hắn giật mình, dứt khỏi tủ kính và lao về phía cửa sổ. Hắn chưa muốn thành một mẫu vật bồng bềnh trong lọ cồn, hay dính chặt trong bảng trưng bày bộ sưu tập của cô bé. Nếu hắn ở lại lâu hơn, rất có thể nơi chốn tiếp theo đang chờ đợi hắn là một hộp giấy có đục lỗ cho không khí tràn vào, nơi hắn sẽ bị giam cầm cho đến khi chỉ còn là một cái xác khô. Một nhà tù hoàn hảo không lối thoát. Trước khi hắn vụt bay ra phía cây lộc vừng, tiếng gọi êm ái của cô bé vang lên lần nữa.
“Nhớ quay lại nhé!”
Hắn sẽ không quay lại đâu. Dù cuộc đời ngoài kia khắc nghiệt, hắn vẫn chọn cuộc đời thay vì ngục tù.
*
Những ngày sau đó, hắn đi khắp nơi. Số địa điểm hắn đặt chân tới còn nhiều hơn cả những chốn hắn đã đi được trong suốt quãng đời trước khi vào tù. Hắn theo một chiếc xe chở đoàn du lịch ra tới bờ biển, nhảy múa cùng tia lửa trại và ngắm mặt trời lặn. Hắn đậu lên mái tóc uốn lọn của một cô gái, giả làm chiếc cặp tóc cầu kì và xoay tít trong điệu nhạc giữa khán phòng sang trọng. Ở bất cứ nơi đâu hắn đến, người ta luôn trầm trồ “Loài bướm đẹp và lạ quá!”. Lũ trẻ con dõi theo hắn không rời, người lớn thoáng ngơ ngẩn ngước nhìn hắn. Khi là một con người, hắn vốn vô hình trong mắt người khác, mờ nhạt như một viên gạch thô kệch nằm chỏng chơ bên nắp cống mà hiếm ai buồn ném lại một cái nhìn. Còn bây giờ, trong thân xác loài bướm, hắn lại không ngừng gây chú ý ở mọi nơi. Vẫn là hắn, chỉ trong một cái lốt khác, mà mọi sự đều đảo ngược hoàn toàn. Hắn muốn cười, nhưng tiếng cười mắc kẹt đâu đó không thể thoát ra.
Một ngày nọ, khi đang hút mật hoa sau một chuyến rong chơi dài ngày, hắn chợt nhớ ra một nơi hắn từng muốn ghé hồi còn ở trong tù. Đó là một địa điểm thỉnh thoảng trở lại trong kí ức những lúc hắn ngồi ngắm trời đêm qua cửa sổ trại giam, đưa hắn chìm đắm một thoáng vào kỉ niệm vụt qua trong đời. Kỉ niệm như mẩu bánh ngọt nhỏ xíu mà hắn hay lôi ra gặm nhấm một cách dè xẻn. Hắn sống với kỉ niệm lâu đến độ đã tự nhủ nhất định sẽ ghé lại nơi ấy sau khi được thả, vậy mà suýt chút nữa hắn đã quên.
*
Vào ngày thứ chín mươi kể từ lúc biến thành bươm bướm, hắn tới được cố cung. Dọc đường đi, hắn đã gặp nhiều loài bướm. Bướm trắng, bướm nâu, bướm lá khô, bướm cánh viền đỏ, bướm sọc bạc liền, bướm đốm…Tuy vậy hắn vẫn chưa tình cờ giáp mặt một con bướm nào giống hệt mình. Ngay cả khi trở thành bướm, hắn vẫn lẻ loi.
Chỉ có cố cung là nơi ít thay đổi sau khi hắn ra ngoài, và hẳn sẽ còn duy trì như vậy trong hàng chục, thậm chí hàng trăm năm tới. Hắn lướt đi dọc những bức tường của Hoàng thành, nơi triều đại cuối cùng đã ngủ yên từ thế kỉ trước. Tại đây, khi còn là thiếu niên, hắn từng dạo chơi với bạn bè trong một chuyến thăm quan do nhà trường tổ chức. Cảnh vật để lại rất ít dấu ấn trong tâm trí hắn lúc ấy, bởi hắn còn mải chú ý đến cô bạn học cùng lớp. Trên cổng Ngọ Môn năm ấy, hắn từng cùng cô ngồi ngắm những cánh diều liệng trong gió. Hắn chỉ biết lúng túng thốt ra những lời lẽ chẳng ăn nhập gì với nhau, nhưng cô đã cười thật nhiều. Tiếng cười của cô như ngàn tiếng chuông nhỏ. Đó là lần cuối hắn được nghe cô cười, bởi hắn đã nghỉ học sau đó không lâu. Từ đó đến nay đã xa như hàng thế kỉ. Hiện cô đang ở đâu, có bao giờ cô bất giác nhớ về buổi chiều hôm ấy ở cố cung, về người con trai ngồi cạnh? Hắn mong cô chỉ nhớ về buổi chiều ấy, còn lại đừng đặt thêm câu hỏi gì hay tìm kiếm thông tin. Ngay cả trong kí ức của cô, hắn cũng chỉ muốn mọi thứ ngưng lại ở thời điểm đẹp nhất trước khi úa tàn.
Hắn rời Hoàng thành khi mặt trời lặn và lầu son gác tía trở nên tĩnh mịch. Vẫn còn hứng thú với những gì thuộc về quá khứ, hắn theo chân một đoàn học sinh vào bảo tàng gần đó, nơi cất giữ các cổ vật cung đình. Những món đồ gốm, sứ, phát lam tinh xảo nằm sau lớp kính có một thứ lực hấp dẫn với hắn. Hết lượt khách này đến lượt khách khác, hắn vẫn chưa rời đi.
“Về thôi anh bạn!” Người bảo vệ nói với hắn và một con mèo đang nằm ngoài cửa bảo tàng.
Hắn quay về Hoàng thành, nơi đó có sự bình yên khiến hắn cảm thấy được che chở. Cố cung nằm ngoài bước tiến của thời gian, còn hắn là một kẻ lỡ nhịp. Trên lầu cao, hắn ngắm hoàng hôn buông xuống kéo theo vẻ huy hoàng của cung điện, nhớ về cuộc gặp gỡ gần đây với một con bướm đêm.
Đêm đó, trên chặng đường đến cố cung, hắn nghỉ đêm dưới tán lá của một cây du. Giấc ngủ ập đến nhanh sau một ngày bay dài, nhưng đến giữa đêm hắn bỗng bừng tỉnh. Cảnh tượng trước mắt lúc đó còn kì lạ hơn cả giấc mộng hắn vừa trải qua: Cách hắn không xa, một con bướm đêm đang uống nước mắt của một con chim đang say giấc. Uống xong, bướm đêm toan cất cánh bay đi thì bắt gặp cái nhìn sửng sốt của hắn và mở lời chào.
“Anh vẫn thường uống nước mắt của loài chim vào ban đêm à?” Hắn hỏi, không nén nổi hiếu kì.
“Đúng vậy.”
“Có…ngon không?”
“Ngon chứ, và còn đầy dinh dưỡng. Anh có muốn thử không?”
“Có lẽ là không, tôi thích lá cây và mật hoa hơn.” Hắn nhận ra mình đã nói như thể một con bướm thực thụ. “Sau khi đi kiếm ăn vào ban đêm thì anh làm gì?”
“Tôi thường đi xem phim.”
“Lạ thật, tôi chưa bao giờ nghe thấy một con bướm lại xem phim.”
“Đấy là anh chưa gặp thôi, có những con bướm thích ăn côn trùng, uống mồ hôi, nhảy múa, hát ca, và cả những con thích xem phim. Nếu sống đủ lâu có thể anh sẽ gặp được, nhưng đáng tiếc, đời loài bướm chúng ta lại quá ngắn.”
“Vậy anh hay xem phim ở đâu?” Hắn gần như tỉnh cả ngủ trước con bướm đêm có sở thích kì quặc này.  
“Tôi xem ở gần đây”. Nói rồi con bướm hướng râu về phía một khu tập thể lâu đời có ban công được bít lại bằng các thanh sắt dọc. “Có một anh chàng hay bật phim trên máy tính vào lúc khuya và để cửa sổ mở hé, tôi thường vào xem cùng anh ta. Có lúc phim đang chiếu mà anh ta đã ngủ luôn, nên tôi thường nán lại chờ đến khi phim hết. Tôi không thích những thứ dang dở giữa chừng. Mà anh ta cũng lạ lắm, có lúc phim đang đến đoạn vui vẻ thì đột nhiên anh ta ngồi thừ ra buồn rầu. Con người thật khó hiểu.”
“Anh hay xem thể loại phim gì?”
“Tôi xem đủ loại, hay đúng hơn là anh ta xem đủ loại. Từ phim tài liệu, hành động, trinh thám, kinh dị đến phim hài, tình cảm, chính kịch…, đủ cả.”
Hắn còn mù mờ về các thể loại phim hơn cả một con bướm đêm. Bộ phim hiếm hoi hắn còn nhớ được có tên là Trà hoa nữ, trong đó diễn viên nữ chính vận bộ váy lụa xanh và có khuôn mặt như cánh hoa mới nở. Hắn đoán đó là phim tình cảm xen bi kịch, bởi hầu hết những người phụ nữ trong phim đều bất hạnh.
“Này anh, có bao giờ anh muốn được trở thành loài vật khác?” Hắn tiếp tục trò chuyện với con bướm đêm.
“Tôi cũng không rõ, từ khi sinh ra tôi chỉ biết làm bươm bướm. Nếu được, tôi cũng muốn thử làm một sinh vật dẻo dai và sống lâu hơn, như loài báo chẳng hạn. Ai mà biết được, có khi đến lúc tôi được làm một con báo hoa mai, tôi lại chẳng thấy vui hơn lúc này. Nhưng dù sao đi nữa, tôi có thể trở thành bất cứ loài nào cũng được, ngoại trừ con người.”
“Sao vậy? Anh có thể xem thêm được nhiều phim mà?”
“Như anh chàng kia sao? Ngày ngày ra khỏi nhà từ sáng và về khi Mặt Trời đã lặn, ăn mì gói, xem phim rồi ngủ gục? Loài người vẫn hay cảm thán rằng đời sống của bướm sao mà ngắn ngủi và phù du. Họ sống dài hơn chúng ta gấp trăm lần, nhưng chắc gì đã vui hơn? Thật may vì tôi là bướm, tôi chịu thôi nếu đời tôi là tập hợp những chuỗi ngày lê thê như của anh chàng ấy. Thôi tôi phải đi đây, đến giờ chiếu phim rồi. Anh có muốn xem cùng không?”
“Không, cảm ơn anh. Tôi muốn đi ngủ.”
“Vậy tạm biệt!” Con bướm đêm vẫy cánh, lặn mất vào bóng tối.
Hắn chờ giấc ngủ tới, trong lúc nghĩ ngợi về căn phòng nơi chàng trai đang chuẩn bị bật một bộ phim qua đường truyền Internet. Liệu khi chàng trai ngủ thiếp đi, con bướm đêm có hút lấy dòng nước mắt chảy ra ở khóe mi anh ta? Hẳn là không, nước mắt của con người đâu mang lại dưỡng chất gì hữu ích. Dòng nước thấm xuống gối bông, hoặc cánh tay, hoặc tấm chiếu trải giường, trong lúc anh ta miên man trong giấc mộng. Sáng mai anh ta tỉnh dậy, có khi nào biết mình đã khóc trong mơ, và lại ra ngoài cho đến tối. Cứ thế mà sống cho hết ngày, hết tháng, hết năm, hết bao vòng đời của loài bướm.
*
Mặt Trời lên xua bớt vẻ cô tịch nơi cung điện. Hắn tỉnh dậy, xung quanh rộn tiếng người. Khách du lịch từ khắp nơi kéo tới, bước giữa di tích còn sót lại của một thời vàng son. Hắn thậm chí còn lọt vào bức ảnh của một cô gái đang mỉm cười bên cây cột gỗ sơn đỏ. Những vị khách mang âm vang từ hàng dặm xa ngoài kia về đây bỗng làm dậy lên trong lòng hắn một nỗi sợ đã âm ỉ từ lâu. Hắn sợ lắm, sợ hãi thế giới bên ngoài, sợ đến mức phát hoảng. Suốt thời gian qua, hắn đã đi đó đi đây, nhưng vẫn mơ hồ trước cách cuộc đời này vận hành. Sau khi trở lại làm người, hắn sẽ tiếp tục ngồi tù, rồi ra tù, khi ấy hắn đã gần bốn mươi tuổi. Ở độ tuổi đó mà hắn chẳng khác nào một đứa trẻ sơ sinh phải học cách làm quen với tất cả. Hắn đã ở tù quá lâu, đủ để trở thành một món đồ cổ trước nhịp sống hối hả ngoài kia. Hắn sẽ làm được gì đây, liệu có chỗ nào còn dành cho hắn?
Đến giữa trưa, hắn rời đi. Tốt nhất là nên tạm biệt cung điện khi nó vẫn ở trạng thái rực rỡ nhất. Nếu đi vào buổi chiều, khi nắng phai dần và điện, đài từ từ tịnh mịch, hắn ngờ rằng mình sẽ gục xuống trong giờ khắc ngày tàn. Hắn biết một chỗ có thể làm nguội bớt đám lửa cháy trong lòng.
Hôm nay là ngày thứ bao nhiêu kể từ khi hắn thành bươm bướm? Hắn nhẩm tính sau mấy ngày bay. Đã một trăm ngày rồi.
Còn một tiếng nữa mới đến 4 giờ chiều, thư viện vẫn vắng hoe cho tới khi tiếng kẻng báo nghỉ vang lên. Hắn lướt qua các giá sách. Những quyển sách xếp trên kệ và bầu không khí quen thuộc của phòng đọc như dòng nước làm dịu đi nỗi sợ hãi trong hắn suốt mấy ngày qua. Hắn từng khao khát thoát ra ngoài đến thế, để rồi lại tự nguyện quay về thư viện trong trại giam này. Mấy năm qua, hắn chỉ chờ tiếng kẻng báo nghỉ, để kết thúc công việc ở xưởng làm chổi và có chút thời gian đọc sách. Hắn đọc tất cả, từ tiểu thuyết, tạp chí đến sách pháp luật. Sách cũng giống như chiếc hộp nhạc của hắn ngày xưa, đều như con thuyền tạm chở hắn vào vô số xứ sở khác, để đến khi quay lại hắn bớt mệt nhoài với thực tại. Từ lúc thư viện khai trương và hắn bắt đầu đọc sách, hắn luôn tiếc. Giá mà trước đây hắn đọc nhiều hơn, cố gắng hơn, thì có khi cuộc đời bây giờ đã khác, có khi hắn sẽ không phạm tội chỉ vì muốn thoát nghèo.
“A, đây rồi!” Hắn reo lên khi tìm thấy quyển sách có bìa vẽ một ngôi nhà cổ.
Chính là quyển sách này, Ngôi nhà thạch lựu của một nhà văn nào đó tên là Oscar Wilde. Hắn đã đọc nó từ hồi thư viện mới mở cửa, và sau đó quyển sách đột nhiên mất tích, đến giờ mới lại xuất hiện trên giá sách. Các câu chuyện như cổ tích, nhưng là cổ tích buồn, vậy mà hắn vẫn thích chúng vô cùng. Hắn muốn lật giở từng trang sách, nhưng chỉ còn có thể đậu lên tấm bìa. Hắn ở lại với cuốn sách được chừng mười phút thì các tù nhân đến lấp vào những dãy bàn ghế. Hắn ngắm cây thạch lựu trên bìa sách rồi rời đi.
Trời chợt đổ mưa rào. Những giọt mưa trĩu nước va đập vào cỏ, cây, mái nhà, mặt đất, vỡ thành muôn vàn cây kim trắng. Vội khép cánh, hắn trú dưới một cái lá to dày. Mưa dường như rơi mãi. Dưới tán cây, hắn run rẩy trong những đợt gió thốc, bỗng nhớ về một chuyện trong Ngôi nhà thạch lựu, về một chàng lùn không hề nhận ra mình gớm ghiếc trong mắt người khác và cô công chúa chàng yêu, cho đến khi tình cờ đứng trước một cái gương trong lâu đài. Chàng vỡ tim mà chết trước sự thật đắng ngắt, còn cô công chúa nhỏ ra lệnh “Từ sau chỉ những kẻ không có trái tim mới được đến chơi với ta.” Có khi hắn chính là chàng lùn ấy mà hắn không biết bấy lâu nay, trong mắt của gia đình hắn và mọi người xung quanh, từ trước và cả sau khi ra tù. Nhưng hắn cũng đâu thể trở thành một ai khác, hắn chỉ có một trái tim không thể đem đánh đổi và một linh hồn thổn thức. Ít ra chàng lùn còn có khu rừng nơi hoa lá, cỏ cây và chim muông chưa từng coi chàng là kẻ dị hợm. Vậy, hẳn trên đời này cũng sẽ có một nơi dành cho hắn chứ, một nơi như khu rừng của chú lùn?
Hắn miên man trong dòng suy nghĩ, để rồi dừng lại ở cảnh hoàng hôn nơi Hoàng thành. Lần nào cũng vậy, chốn cung điện xa xôi ấy luôn gợi lên hoài cảm bình thản. Nếu có thể, sau khi ra tù, hắn muốn được làm người trông coi những khu di tích như thế, hoặc chăm sóc bảo tàng cổ vật hắn từng ghé qua. Có một hơi thở thầm lặng vẫn len lỏi giữa nơi chốn cất giữ dấu vết của thời gian, và hắn có thể cảm nhận được hơi thở đó thấm qua da mình. Sẽ tuyệt vời biết bao nếu ước nguyện của hắn thành sự thật. Với số tiền lương dành dụm được, hắn dự định sẽ đi học làm gốm. Gì chứ với đồ vật thì hắn luôn có thừa kiên nhẫn. Từ bàn tay hắn, những chiếc bình, chiếc cốc sẽ được sinh ra, và nếu hắn đủ giỏi, một ngày nào đó chúng sẽ đến được tay người khác. Khắp đất nước và trên thế giới, có khi ở ngay căn phòng của anh chàng hay xem phim cùng con bướm đêm, sẽ có sản phẩm do hắn tạo ra.
Và biết đâu trong tương lai, hắn sẽ đến được bảo tàng chứa hàng nghìn chiếc hộp nhạc từ xưa tới nay? Hắn biết một chỗ như thế, hắn đã đọc trong sách ở thư viện và ghi nhớ địa chỉ rồi. Nghĩ đến đó thôi hắn đã thôi run mình trong mưa. Thiếu vắng gia đình, vắng tài năng và trí tuệ, vắng cả sự công nhận của người đời, vậy thì cũng có sao? Dù là kẻ tầm thường nhất, giờ đây hắn cũng có một mục đích, một ước mơ. Và hắn sẽ nắm lấy chúng như cung thủ giữ mũi tên căng trên dây cung, nhất định không chùn tay, rồi nhắm tới thẳng băng và không do dự. Đợi mưa ngớt, hắn sẽ quay về buồng giam trước đây. Vào lúc thời gian làm bươm bướm của hắn dừng lại, theo như hắn dự đoán là chưa đầy 15 ngày nữa, một cuộc sống mới sẽ khởi đầu.
*
Sáng hôm sau, hắn bay một vòng quanh trại giam trước khi quay về căn phòng có chấn song đan cài vuông vức như bàn cờ vây. Có khả năng lớn rằng hắn sẽ chịu phạt do tội đào tẩu, nhưng hắn chấp nhận hết, hắn cần ở trong trại giam cho đến khi trở lại thành người, và sẽ đợi cho đến ngày ra tù.
Hắn bay lên cao cho đến khi những dãy nhà, cây cối, con người chỉ còn nhỏ như mô hình đồ chơi. Cách đó không xa, khu rừng rì rào trong nắng. Chỉ một lần này nữa thôi, hắn sẽ chỉ dạo trong đó lần cuối trước khi quay về sống đời tù ngục. Hắn bay xuống dưới các tầng lá, nương theo ngọn gió đang thổi, đến khi dừng lại ở một khoảng rừng quang đãng. Hóa ra những chấm xám khi nãy hắn trông thấy từ trên cao chính là bia mộ. Có nhiều ngôi mộ nằm rải rác, trong ánh nắng chúng trông càng lạnh lẽo như những khối băng. Đã từ lâu hắn nghe mọi người truyền tai nhau về một nghĩa trang gần trại giam, dành cho những tù nhân đã mất. Có người mãi nằm lại đó vì không có ai đến đưa về.
Ra khỏi đây thôi, nhanh lên, nghĩa trang đâu có gì để vương vấn. Hắn thúc giục bản thân nhưng đôi cánh lại cứ chơi vơi không chịu nhích về phía trước. Trong không gian chỉ có tiếng chim hót và lá xào xạc. Hắn bay quanh bó hoa cúc trắng trên mộ của một người tù. Này người bạn tù ơi, vẫn còn có người nhớ tới anh này, hắn thì thầm với tấm bia có ghi tên và năm sinh, năm mất của người đã nằm xuống dưới đất sâu. Nét chữ ghi trên bia trông như cách người ta dùng que vạch lên trên cát. Tấm bia cũng mang vẻ tội nghiệp như số phận chủ nhân nó. Người này ra đi khi còn trẻ quá, anh ta tên là gì nhỉ, mình có từng nghe về anh ta không, vì sao anh ta lại chết? Hắn nhìn những cánh hoa cúc, nhìn ngôi mộ, rồi bất chợt đầu óc quay cuồng, sau lưng như có ai đang bứt lìa đi đôi cánh. Tiếng rơi của hắn xuống đất chỉ mỏng như đám lá khô.
Hắn tỉnh dậy, vẫn còn choáng váng. Hắn đã nán lại khu rừng, để rồi đối mặt với ngôi mộ của chính mình. Kí ức trở lại nhỏ giọt như dòng suối sắp cạn. Một ngày tháng Ba, hắn đã tìm lại được tự do sau khi tự sát. Cuối cùng, hắn cũng ra khỏi hàng rào kẽm gai và có một chỗ của riêng mình giữa tiếng thông reo. Thân xác bươm bướm chỉ là phần ham sống ít ỏi của hắn còn vương lại trên thế gian.
Hắn dưới lớp đất kia và hắn trên mặt đất này rồi cũng tan đi như tro bụi. Biết đâu sẽ có một ngày, hắn hòa vào đất, vào nước, rồi biến thành cơn mưa rơi trên mái cố cung, trên những cái cây trong sân bảo tàng, trên chiếc hộp nhạc của một người đàn ông trẻ tuổi? Dẫu vậy, hắn vẫn trào lên một nỗi bâng khuâng trước cuộc đời mà hắn đã và sắp bỏ lại. Cuộc đời đẹp đến vậy mà hắn hiểu ra hơi muộn màng. Hắn muốn khóc, nhưng loài bướm không có nước mắt.
Đến trưa, hắn rời khu rừng, hướng về phía ngôi nhà có mẫu vật côn trùng và đủ loại thực vật đẹp mắt. Một tiêu bản bươm bướm với đôi cánh lộng lẫy là dấu vết duy nhất còn sót lại sau khi hắn được tự do.
Việt Anh
Photo: Pexels.com