Ngày xx tháng x1 năm 3xxx, kẻ đó đã đánh cắp phước lành từ Đức Thánh. Thoát thân đến miền đất hứa, trái tim không rung chuyển.

Tôi là Juse, đã hơn năm thập niên trôi qua kể từ cái khoảnh khắc ấy. Thật lòng, tôi không biết phải dùng từ ngữ gì để miêu tả nó, chỉ có thể là phép màu mà thôi. Trước khi kể chuyện đó, tôi muốn bạn biết rõ hơn về tôi. Tuy cũng như bao người, tôi không trở thành triệu phú hay người nổi tiếng. Nhưng chỉ đơn giản là tôi muốn kể thôi. Tôi sinh ra tại khu trung tâm, miền Nam vùng đất Zicmia — một nơi từng hoặc chưa từng tồn tại trên trái đất này. Cũng không mấy quan trọng, bạn biết đó là quê hương tôi là đủ. Zicmia có một lịch sử lâu đời, song bởi nhiều vấn đề chính trị khác nhau (chủ yếu là của bọn nhà giàu), đất nước đã rơi vào nội chiến. Lúc bấy giờ, tầng lớp hạ lưu như tôi buộc phải nhập ngũ ngay cả khi chưa biết chữ. Phải, bạn không nhầm đâu. Lúc ấy, tôi còn không rõ chiến tranh nghĩa là gì, vậy mà trên tay đã cầm khẩu AK-47 cỡ nòng 6.5 mm. Thứ duy nhất những đứa trẻ xấu số như tôi được đào tạo ngoài cách chiến đấu là câu chuyện về đám người phương Bắc. Cái đám man di ấy ăn thịt người, và ta sắp phải chịu đựng ách thống trị bạo tàn ấy nếu không cầm súng. Năm 3xx1, tôi chính thức gia nhập quân đội, tiểu đội 6 trực thuộc nhánh quân tiến công, chỉ huy là ngài Walek. Ông ta… để mà nói có nét mặt nghiêm túc, mái tóc vàng tựa màu trái chuối, dáng đứng thẳng tắp như tre. Điệu bộ như vừa bị mẹ la vậy, ý tôi là luôn có vẻ cáu gắt với cấp dưới. Tới đây, có lẽ bạn sẽ thấy ổng giống một lão trung niên khó ở. Nhưng đó là trước khi bạn thấy khuôn mặt ông ta. Đó là một khuôn mặt điển trai, hàng lông mày rậm, bộ râu được tỉa tót gọn gàng cùng với đôi mắt xanh sâu hút. Cái khuôn mặt khiến người ta khó chối từ mệnh lệnh. Nhìn chung, có một người chỉ huy vậy cũng không quá tệ. Kì lạ hơn, tôi đã từng thấy mãn nguyện khi có cuộc sống như vậy. Thức dậy cùng những người đồng đội, trải qua những bài luyện tập thể chất, được ăn và uống miễn phí là một vinh hạnh — trừ việc luôn bị quát đến nổ màng nhĩ bởi cái giọng khàn đặc ấy. Nhưng rồi những biến chuyển xảy ra. Vào ngày 034 tháng x1 năm 3xx4, lần đầu tiên tôi bước vào thực chiến. Chúng tôi được giao nhiệm vụ bảo vệ, ngăn chặn đám quân phương Bắc tiến sâu vào lãnh thổ. Trên các radio, báo chí, khẩu hiệu quyết tử được hô hào, quân sĩ ai cũng tràn đầy chiến khí. Tôi cũng không ngoại lệ, thậm chí tôi còn xăm khẩu hiệu ấy lên người. Vừa rạng sáng, khi vừa cập bến chiến khu, Walek một tay giơ chỉ thiên, một tay đặt vào lồng ngực, gằn giọng hô vang: “Toàn quân quyết thắng.” Một cảnh tượng hùng vĩ xuất hiện: cả biển người lính đồng loạt làm theo động tác ấy và gầm vang trời. Tiếc thay, trên thực tế, tất cả đã sai. Ngay hôm sau, ngày 035, đoàn binh ấy không còn quá nửa số lượng. Gã Walek thậm chí còn mất cả cánh tay, không còn giơ tay chỉ thiên được nữa. Trong cái ngặt nghèo ấy còn thêm những mất mát khác. Những kẻ yếu nhát bắt đầu lộ diện, nạn đào ngũ xảy ra càng bào mòn tinh thần, lý tưởng kia. Thương binh được đem về nhiều không kể xiết: người chỉ còn đầu, người mất các chi… chỉ vỏn vẹn một ngày. Trước mắt tôi đã là biển máu, vùng đất thê thảm… Tôi nghe được đâu đây những tiếng khóc than, nuối tiếc, những khốn nạn đời họ. Những kẻ chết trước khi nỗi sợ bao trùm họ, trước khi hai dòng lệ tuôn, trước khi cảm nhận được cái chết — họ đã đi xa rồi. Thần chết không cho ta thời gian để định lượng, suy ngẫm, mà chỉ đem ta đi trong một phần triệu tỷ giây thôi. Nửa khuya hôm sau, khi tay vẫn ôm cây súng, tôi thấy những người còn lại đang họp. Trước khi tôi kịp nhận thức đống thông tin thì mắt đã thấy những đôi mắt rung rung như báo trước điềm không lành: tổng hành dinh đã thất thủ, mệnh lệnh cuối cùng là hãy giơ cờ trắng đầu hàng. Ông Walek tối sầm mặt, tay che mặt như muốn giấu đi cảm xúc. Rồi gã đập mạnh báng súng xuống đất: “Trong quân ngũ, mệnh lệnh của ta là trên hết. Những kẻ yếu đuối hãy chạy đi cùng niềm vinh quang giả tạo, đày thân xuống miệng giếng sâu để bóng tối nuốt chửng linh hồn mình. Còn lại, ta ra lệnh thu xếp mọi vũ khí nặng, chiến dịch cuối cùng bắt đầu.” Tôi cảm thấy một khát khao kì lạ bên trong mình trỗi dậy. Xung quanh tôi những người bạn, những chiến hữu, bầu trời đêm nay thật lạ. Không một tiếng động ngoài những lời động viên mù mịt. Có thằng cứ đòi về nhà nhưng vẫn ghì chặt súng, thằng bảo đã hẹn cưới vợ phải mau về sớm, thằng mộng tưởng về sẽ làm tướng. Rồi sáng hôm sau, cả đám chẳng ai về nhà được nữa. Ngày 035 tháng x1 năm 3xx4, các anh em tôi đã hi sinh cùng nhau. Tôi còn nhớ chứ, rõ là đằng khác — từng người chúng tôi quấn thuốc nổ quanh người, sẵn sàng sáp lá cà cùng chết với địch. Tiếng nổ kinh trời, khói đen giăng kín chung quanh. Trong làn khói ấy, tôi đã thấy chỉ huy mình cười lần đầu tiên trước khi nổ banh xác tứ tung. Không kịp định thần lại những xúc cảm, tôi đã thấy mình chết — một viên đạn xuyên qua hộp sọ. Những miền đất từ đâu trôi dạt tôi về với người đã chăm bẵm tôi từ bé, và bóng lưng một người đàn ông sừng sững trước mắt. Ông ta đang bóp nát trái tim chính mình, nhưng sao tôi lại thấy cảm giác cái chết của ông ta thật quen thuộc. Như bừng tỉnh, tôi nhận ra mình đang ở dưới miệng giếng. Không biết bao ngày đã qua, các anh em tôi đã ra sao? Trong trạng thái bần thần, tôi thấy một con cóc kì dị, quanh nó ngời lên một niềm huy hoàng chói lọi. Nó to ngang tôi, vùng da miệng nó phồng căng, hai con ngươi nó lòi ra kinh tởm. Tròng mắt có biểu tượng ngôi sao, đang ngâm nga một câu thơ hay gì đó không rõ tiếng. Đoạn, tôi nhớ ra viên đạn găm vào trán — đáng lẽ mình đã chết rồi nhỉ. Liệu nơi này là thiên đàng chăng? Hàng vạn câu hỏi không lời đáp quanh quẩn trong tôi. Cái giếng này là gì, tại sao mình ở nơi này, mình còn sống ư… Sờ lên chỗ vết thương tôi nhận ra nó đã lành một cách thần kì, nhưng ngay ngực tôi, máu vẫn tuôn ra không ngớt — như một lời nhắc nhở rằng cái chết chưa thật sự buông tha.
“Đức Chúa Trời hứa sẽ xóa bỏ sự chết thông qua việc làm cho người chết sống lại” (1 Cô-rinh-tô 15:26, 55; Khải Huyền 21:4).