"Vẫn luôn có những ấn tích xấu cũng như tốt về chúng ta, và chúng ta sống, chúng ta hướng về phía đức tin của mình trong một thế giới mà ta không biết rõ, một nơi đầy rẫy những hang động, những bóng tối và những cư dân trong ánh hoàng hôn. Sự tiến hóa của chúng ta có thể bị đảo ngược, và tôi tin rằng vài truyền thuyết kinh khủng vẫn chưa thực sự chết đâu. "
-Arthur Machen
I.
Vài tuần trước, dưới góc đường tại ngôi làng Pascoag, đảo Rhode, một người khách bộ hành cao lớn, dáng người đẹp đẽ với một vài hành động kỳ lạ đang đứng đó. Anh ta, xuống đồi theo những cung đường xuất phát từ Chepachet và đang bắt gặp những đám đông di chuyển về phía bên trái, hướng về đại lộ, một công trình được xây dựng từ hàng tá những khối đá gọn gàng, thanh lịch với mục đích trở thành cây cầu dẫn tới thành phố. Ngay lúc đó, giống như ma xui quỷ khiến vậy, anh ta kinh ngạc lùi lại; trong một khoảnh khắc, anh ta chăm chăm nhìn vào tòa nhà cao nhất phía trước, và rồi; cùng với một chuỗi những nỗi kinh hoàng, những tiếng thét cuồng loạn cất lên; chúng vỡ tung ra, rồi tái hợp lại thành một cuộc chạy trốn điên cuồng vô tình kết thúc bằng một cú ngã. Những cánh tay xa lạ đỡ lấy anh ấy, phủ đi lớp bụi còn bám trên người, anh ta trông có vẻ tỉnh táo, đau đớn, và rõ ràng là đang cố để tự trấn tĩnh sau cơn hoảng loạn của mình. Sau khi lẩm bẩm những lời giải thích dường như kéo dài sự căng thẳng mà bản thân phải chịu đựng, cùng với ánh nhìn hướng xuống dưới lòng đường Chepachet, người đàn ông lê bước về phía trước mà không hề ngoảnh lại phía sau lấy một lần. Đó là một sự cố kỳ lạ, xảy đến một cách nhanh chóng, với những tình tiết thông thường, một con người có vẻ thông minh, và sự kỳ lạ ấy không hề được giảm bớt khi có một người đã nhận ra anh ta là một thành viên sống tại một cơ sở bán sữa nổi tiếng nằm tại ngoại ô Chepachet.
Anh ta là, theo như những gì người ta biết, một thám tử New York với tên gọi Thomas F. Malone giờ đây đang trong kỳ nghỉ phép dưới sự chăm sóc y tế sau những công việc kinh khủng về một tai nạn được làm quá lên tại địa phương, đó là một công việc có vẻ gian truân và có phần không vừa sức. Đã có một vài tòa nhà cũ, với khung xương được tạo nên từ gạch, đổ vỡ dưới một cơn mưa mà tất cả mọi nơi trong thành phố đều phải đựng chịu, chuyện đó, cùng với sự hy sinh hàng loạt của tù nhân cũng như những người đồng đội, tất cả đã đánh sập anh ấy với một nỗi kinh hoàng kỳ lạ. Kết quả là, chúng để lại trong người đàn ông đó nỗi sợ dị thường về bất kỳ tòa nhà nào gợi nhắc đến những công trình đã đổ xuống, vậy nên xuyên suốt giai đoạn cuối của cuộc điều trị tâm lý, vị chuyên gia đã cấm anh ta để bất cứ thứ gì gây ảnh hưởng vào tầm mắt của bản thân mình vô thời hạn. Một vị bác sĩ phẫu thuật trong ngành tại Chepachet đã đề xuất về một ngôi nhà với những căn buồng gỗ kỳ lạ như một ý tưởng đột phá về nơi nghỉ dưỡng cho những bệnh nhân tâm thần. Anh ta, chịu đựng sự dày vò của căn bệnh, lê bước về phía trước, tự hứa rằng sẽ chẳng bao giờ mạo hiểm giữa những con đường gạch nơi làng quê rộng lớn nữa, ít nhất là tới khi được cho phép bởi những lời khuyên của vị chuyên gia người Woonsocket, người mà anh ấy vẫn luôn giữ liên lạc. Chuyến bộ hành tới Pascoag vì vài tờ tạp chí hẳn là một quyết định sai lầm, và người bệnh sẽ phải trả giá bằng nỗi sợ, vết thương cũng như sự sỉ nhục vì sự bất tuân của bản thân.
Có rất nhiều những lời xì xào tại Chepachet cũng như Pascoag; chúng chứa đựng vô số, thậm chí là hầu hết mọi thứ trên đời. Nhưng Malone, anh ấy còn nói nhiều hơn thế nữa, và anh ta chỉ dừng lại khi nhận ra những lời nói của mình chứa đầy sự nghi hoặc. Sau đó, tất cả những gì người đàn ông làm là giữ yên lặng, không một chút phản đối khi mọi người đều chấp nhận rằng sự sụp đổ của những tòa nhà bằng gạch dơ dáy tại khu phố Red Hook, quận Brooklyn, cũng như cái chết của hàng tá sĩ quan dũng cảm đã gây nên trạng thái tâm lý bất ổn cho bản thân. Anh ấy đã làm việc rất vất vả, mọi người đều nói thế, cố gắng để nhổ sạch nguồn gốc của mọi sự bất tuân cùng với bạo lực; chỉ những điều ấy đã đủ để khiến hầu hết mọi người sửng sốt, đó là còn chưa kể đến tác nhân cuối cùng, một bi kịch bất ngờ giáng xuống. Đó là một lời giải thích mà tất cả mọi người đều hiểu, và vì Malone không phải là một con người đơn thuần, anh ấy nhận thức được rằng tốt hơn hết mọi chuyện nên dừng lại ở đó. Để có thể khiến cho những con người thực dụng tin vào một nỗi kinh hoàng vượt trên cả trí tưởng tượng - một nỗi kinh hoàng về những ngôi nhà, những khối kiến trúc và những thành phố mang trên mình vết lở loét cùng các khối u ẩn bên trong đó là lũ quỷ được triệu tập từ cổ giới - hẳn người ta sẽ phải chấp nhận những căn buồng giam trong bệnh viện tâm thần thay vì một kỳ nghỉ bình thường, còn Malone, anh ta vẫn là một con người duy trí mặc kệ những sự việc kỳ lạ mà mình đã gặp. Anh ấy sở hữu tầm nhìn của một người Celt thực thụ, thứ sẽ giúp anh ấy thấy những điều quái dị, ẩn sâu bên trong, nhưng đồng thời lại có đôi mắt logic của một thám tử khiến anh ấy thấy chứng cứ rõ ràng, hiện rõ bên ngoài; hai thứ ấy kết hợp với nhau, giúp anh ấy thăng tiến xa hơn nữa trong suốt bốn mươi hai năm cuộc đời của mình, rồi sau đó đặt anh ta vào một chức vụ lạ thường tại Đại học Dublin nơi ngôi làng Gorgian gần công viên Phoenix.
Còn hiện tại, khi đang xem xét lại những thứ mà anh ấy đã thấy, đã cảm nhận, đã nắm lấy, Malone định rằng đã giữ cho mình những bí mật về một thứ có thể biến cả những dũng sĩ can đảm nhất thành một kẻ nhát gan nhất; thứ có thể khiến những đống đổ nát yên giấc, những vùng biển tối tăm, lặng sóng phải đối mặt với mọi cơn ác mộng rùng rợn tới từ tiềm thức. Đó không phải là lần đầu tiên trực giác của anh ấy bảo phải giữ im lặng - bởi không phải hành động lao vào địa ngục sâu nhất nơi thế giới ngầm ở New York đã dẫn tới một nỗi kinh hoàng vượt trên mọi lời giải thích thông thường hay sao? Anh ta có thể nói gì, nói về những phù thủy xa xưa cùng những phép màu mà mắt thường có thể nhìn thấy, ở giữa họ là một chiếc vạc mà trong đó là đủ mọi loại tà vật rác rưởi trộn với chất độc nhằm kéo dài nỗi kinh hoàng ghê tởm mà họ mang tới? Rằng Malone đã nhìn thấy những đốm lửa xanh lục từ địa ngục biểu trưng cho sự hỗn loạn được tạo nên từ lòng tham đang quấn lấy sự báng bổ, để rồi anh ấy sẽ mỉm cười khi mà mọi người dân New York anh ấy biết đang nhạo báng thành quả trong cuộc đời cảnh sát của anh? Họ hoài nghi và cợt nhả, chế giễu sự theo đuổi nhằm vén màn những bí mật của người đàn ông đó, họ sẽ thuyết phục anh ấy rằng New York ngày nay chẳng có gì ngoài sự rẻ tiền và nỗi thô tục. Một trong số họ sẽ cược với anh ấy một khoản tiền lớn rằng anh ấy thậm chí - dù cho những bài viết thuộc về anh ấy tại Dublin Review - không thể viết một câu chuyện thực sự thú vị về cuộc sống hạ lưu nơi New York này; giờ đây; khi nhìn lại, anh ta hiểu rằng, số phận trớ trêu mà vũ trụ ban cho cũng chỉ là lời biện minh của nhà tiên tri trong khi hắn ta còn đang đùa cợt với nó. Nỗi kinh hoàng mà ta chỉ có thể thấy thoáng qua, chẳng thể tạo nên một câu chuyện - giống như trong cuốn sách của mình, Poe một tác giả người Đức, đã viết, "es lässt sich nicht lesen - nó không cho phép bản thân được tìm thấy."
II.
Với Malone, cái cảm giác về một sự bí ẩn nào đó quanh đây vẫn luôn hiện diện. Anh ấy vẫn luôn cảm thấy những nét đẹp ẩn giấu cùng sự ngây ngất thời niên thiếu, điều đó biến anh ấy thành một nhà thơ; nhưng cái nghèo đói, nỗi bi thương và sự đày ải đã khiến anh nhìn mọi thứ theo hướng tiêu cực hơn, để rồi nhắm vào sự áp đặt của những thứ xấu xa lên thế giới quanh mình. Cuộc sống hằng ngày của anh ta đã đem tới những ảo ảnh rùng rợn về tà thuật; giờ chúng lấp lánh, thu hút ánh nhìn về phía thối rữa giống như mọi bức vẽ đẹp nhất của Beardsley, những ảo ảnh ấy gợi nhắc đến nỗi kinh hoàng ẩn sau cả những hình thù và thực thể tầm thường tựa các tác phẩm của Gustave Doré. Malone vẫn hay nghĩ về nó đầy bao dung khi mà mọi kẻ thông minh lại cười nhạo; bởi rõ ràng rằng, liệu những bộ não thiên tài đã từng tiếp xúc với những bí mật được canh giữ bởi các thế lực cổ đại hay nền văn hóa cấp thấp hay chưa, sớm thôi, sự kỳ dị ấy sau cùng sẽ không chỉ nghiền nát thế giới, mà còn đe dọa tới tính toàn vẹn của vũ trụ này. Tất cả những hậu quả đó chắc chắn là một cơn dịch bệnh, nhưng những suy đoán hợp lý, sắc sảo lại chỉ coi thường và cười cợt nó. Malone vẫn luôn giữ cái nhìn trung lập giữa thực tế và kỳ ảo; anh ta chỉ phải hứng chịu cơn cuồng loạn khi bổn phận ném anh ấy vào một địa ngục của sự tiết lộ quá đột ngột mà dường như ta không thể trốn thoát.
Anh ấy đã từng biết về những nhà ga bên đường Butter ở Brooklyn trước khi để ý tới vấn đề của Red Hook. Nơi đó là một ma trận của rác rưởi và rách nát, nằm ngay bên cạnh bờ sông đối diện hòn đảo Governor, cùng một con đường xa lộ xuất phát từ bến cảng dẫn thẳng lên tới đồi, nơi mà hàng dặm dài suy đồi của con đường Clinton và Court dẫn tới Borough Hall. Những căn nhà của nó hầu hết được xây bằng gạch, thứ được tạo nên trong suốt nửa đầu thế kỷ mười chín, cùng với những thung lũng mờ mịt bên dưới điểm xuyết vào con đường vắt ngang, tất cả tạo nên vẻ quyến rũ cổ kính mà chúng ta hay gọi là "Dickensian". Dân cư vùng này là một tập hợp của sự lộn xộn và bí ẩn; họ có thể là người Syrian, người Tây Ban Nha, người Ý cùng lũ mọi đen ở khu khác, vài nhóm nhỏ người Scandinavia và người Mỹ thì ở cách đó không xa. Tất cả hòa thành một mớ âm thanh hỗn độn ồn ào, bẩn thỉu, chúng cất tiếng khóc, một tiếng khóc kỳ lạ nhằm chào đón tất cả, từ mỗi làn sóng ngập dầu bên cầu cảng đen ngòm, cho đến mọi bản hợp xướng quái dị như thể từng cây kèn nơi bến tàu cùng hợp sức mà cầu nguyện. Rất lâu về trước, nơi đây đã từng là một bức tranh tươi tắn hơn, một chỗ cư ngụ của cái đẹp và sự giàu có, những người thủy thủ cùng đôi mắt sáng ở dưới phố, họ sống trong những ngôi nhà rộng lớn trên đồi. Giờ đây, người ta vẫn có thể nhìn thấy dáng hình của sự hạnh phúc ngày ấy thông qua từng chi tiết chỉn chu trên kiến trúc của mỗi tòa nhà, mỗi giáo đường duyên dáng, và mỗi bức vẽ, mỗi hậu cảnh sót lại đây đó - như trên từng bậc thềm rách nát chẳng hạn, hay những cánh cửa bị quăng quật vô số lần, hoặc vài cây cột được trang trí với sự mục ruỗng, cũng có thể là tàn dư nơi công viên nay chỉ còn đôi ba thanh lan can rỉ sét, xiêu vẹo. Những ngôi nhà hầu hết được xây bằng gạch không nung, rồi giờ đây và mãi sau này, các mái vòm trong suốt sẽ mọc lên, thay thế cho chúng để kể câu chuyện rằng, lúc ấy thủy thủ cùng với các vị chủ thuyền đã nhìn ngắm bờ biển ra sao.
Ở nơi mà vật chất và linh hồn tàn lụi đang rối tung ấy, sự báng bổ tới từ cả trăm thứ tiếng sẽ bay lên mà công kích vào bầu trời. Bè lũ của những kẻ bộ hành sẽ hét lên, cất tiếng hát dọc theo đất liền với đại lộ, thỉnh thoảng, đôi bàn tay táy máy của chúng sẽ dập tắt ánh nắng mà kéo xuống màn đêm, và vài bộ mặt đen đúa, tội lỗi lặng lẽ biến mất khỏi khung cửa sổ khi người khách lỡ có bước qua. Cảnh sát thì tuyệt vọng, thay vì dựng lên tấm rào chắn nhằm bảo vệ thế giới ngoài kia khỏi nỗi tha hóa, họ chọn tìm kiếm lấy cải cách với quyền lực. Tiếng gọi của những người gác đêm thì chỉ được trả lời bằng sự im lặng từ các bóng ma, còn những phạm nhân thì chẳng thèm hé răng lấy nửa lời. Tiếng chửi rủa có trong mọi cuộc hội thoại là hết quả của tập hợp những kẻ buôn lậu, lũ ngoài vòng pháp luật liên bang, lũ sát nhân và những tên phá hoại đang ẩn dưới vỏ bọc của mình. Tất cả những việc dơ bẩn ấy không còn xảy ra thường xuyên nữa, không phải nhờ vào công dẹp loạn, mà nhờ vào nghệ thuật của sự che dấu. Có nhiều kẻ đến Red Hook hơn là rời đi - hoặc ít nhất, nhiều hơn những kẻ ra đi từ phía đất liền - và những kẻ lắm lời nhất lại là những kẻ bỏ đi nhiều nhất.
Malone ngửi thấy từ mớ hỗn độn ấy thoảng qua mùi vị của bí mật, một bí mật khủng khiếp hơn bất cứ tội lỗi nào mà người dân báo cáo, còn linh mục và người tốt thì luôn than vãn vì chúng. Anh ta biết rõ, có lẽ là nhờ sự kết hợp giữa trí tưởng tượng và bộ óc khoa học, rằng người hiện đại, dưới sự vô pháp, có khuynh hướng hành động theo bản năng đen tối nhất của loài linh trường thời tiền sử cả trong đời sống cùng lễ nghi; và anh ấy vẫn hay nhìn với cái nhìn của một nhà nhân chủng học, rùng mình trước đám rước, dù được ca tụng hay nguyền rủa, của đám người mặt rỗ mang đôi mắt mờ đục. Chúng mang theo vết thương, bộ hành dọc theo cung đường trong chút bóng tối còn sót lại lúc ban mai. Người ta không ngừng thấy chúng; đôi khi đang giữ cảnh giác nơi góc đường, đôi khi ở những ô cửa chơi một điệu nhạc kỳ lạ bằng bộ nhạc cụ rẻ tiền, đôi khi gà gật hoặc nói những câu chuyện thô bỉ nơi quán cà phê gần Borough Hall, và đôi khi thì thầm bên chiếc taxi dơ dáy đỗ bên vài ngôi nhà đổ nát, xiêu vẹo. Chúng khiến anh ấy ớn lạnh nhưng cũng tò mò hơn rất nhiều so với những gì mà anh ấy dám thú nhận với đồng nghiệp của mình, bởi anh ấy dường như thấy được sự liên kết của chúng tới một bí mật nào đó; một thứ quái gở, khó hiểu từ xa xưa, nó nằm ngoài mọi thói quen và sự thật bẩn thỉu được những người cảnh sát tận tâm ghi lại. Chúng hẳn, thâm tâm anh ấy mách bảo, là những kẻ tiếp nối một truyền thống sửng sốt và nguyên thủy nào đó; chúng chia sẻ những mảnh vỡ lạc hậu, nát vụn sót lại từ một tôn giáo hay một lễ nghi có tuổi đời còn già hơn cả loài người. Mối liên kết cùng sự dứt khoát giữa chúng nói lên điều đó, chúng che giấu tất cả bằng một trật tự duy nhất ẩn dưới vẻ ngoài vô phép của mình. Những bài luận mà anh ấy đã đọc như Văn hóa phù thủy xứ Tây Âu do Miss Murray viết đã trở nên không hề vô nghĩa, và anh ấy biết rằng, giờ đây vẫn còn đó câu chuyện lén lút giữa đám nông dân về một hệ thống ghê sợ và ám muội tới từ một nền tôn giáo tăm tối, xa xưa hơn cả thế giới của người Aryan, nó xuất hiện trong những huyền thoại như Black Masses và Witches' Sabbaths. Chúng kể về những vết tích địa ngục do ma thuật từ chủng tộc Turanian-Asiatic tạo ra cùng với những nghi lễ sinh sản của họ, nay chắc hẳn đã tuyệt diệt, Malone vẫn hay tự hỏi rằng một câu chuyện truyền miệng khủng khiếp nhất, thực tế còn có thể tăm tối, già nua tới đâu.
III.
Chính trường hợp của Robert Suydam đã kéo Malone đến trung tâm của mọi việc tại Red Hook. Suydam là một ẩn sĩ thông thái tới từ gia đình Hà Lan có nguồn gốc xa xưa, ban đầu chỉ là một gia đình trung lưu, rồi dần dần mở rộng, nhưng vẫn luôn bảo tồn vùng đất mà ông nội của ông ta đã xây dựng ở Flatbush, ngôi làng ở đó lúc ấy còn nhỏ hơn cả những căn nhà tranh của đám thực dân bao quanh Nhà Thờ kiểu mới cùng nghĩa địa và hàng rào sắt. Từ căn dinh thự cô độc của ông ấy, đi ngược lại so với con đường Martense là một khoảng sân đầy những loài cây quý hiếm, Suydam đã đọc và nghiền ngẫm suốt sáu thập kỷ, ngoại trừ một khoảng thời gian ngắn trước đây, khi ông ấy căng buồm tới một nơi xa xưa và ẩn tích tám năm ở đó. Ông ta không đòi hỏi bất cứ người giúp việc nào, và cũng chỉ có vài người khách ghé thăm không gian cô độc của bản thân; trốn tránh những người bạn và chỉ tiếp đón vài người thân hiếm hoi tại một trong số ba căn phòng ở tầng trệt của mình, ông ấy vẫn luôn giữ chúng thật ngăn nắp - một thư phòng cao lớn, rộng rãi với bốn bức tường chật kín là sách cổ, chúng nặng nề, xa xưa và trông như đang cự tuyệt mọi kẻ tìm kiếm tri thức. Sự phát triển của thị trấn và sự sáp nhập của nó tới quận Brooklyn chẳng có ý nghĩa gì với Suydam, và ông ấy thì càng ngày càng ít giao tiếp với nó hơn. Những người già cả vẫn nhận ra người đàn ông đó trên đường, còn với hầu hết cư dân ông ta đơn thuần là một kẻ già nua, kỳ lạ có bộ tóc trắng nhếch nhác, bộ râu rậm, luôn mặc quần áo tối màu nhưng sạch sẽ cùng một cây gậy với phần tay cầm bằng vàng khiến ông ấy trông có vẻ thú vị, nhưng tất cả ấn tượng của mọi người chỉ có thế. Malone chưa bao giờ tận mắt thấy ông ấy cho tới khi nghe theo tiếng gọi của nghĩa vụ, dù vậy, trước đó anh ta cũng đã nghe về ông ấy như một tác giả uyên thâm trong lĩnh vực tâm linh thời Trung Cổ và anh ấy đã từng đọc qua một bài luận ngắn đã ngừng xuất bản của ông ấy về Kabbalah và truyền thuyết Faustus, thứ mà bạn anh ấy đã nhắc đến từ ký ức của mình.
Suydam đã trở thành một "vấn đề" khi những người họ hàng bắt đầu nghi ngờ về sự tỉnh táo của ông. Hành động của họ có vẻ đột ngột, nhưng sau thời gian dài quan sát cùng những cuộc tranh luận nảy lửa, họ vô cùng cương quyết. Tất cả nỗi nghi ngờ đều dựa trên từng thay đổi nhỏ nhất trong giọng văn cùng thói quen của ông ta; ông vẫn luôn tò mò, tọc mạch khắp các vùng quê ở Brooklyn. Qua từng năm, ông ấy càng ngày càng trở nên tồi tệ hơn, và giờ đây, ông ấy rình mò như một kẻ ăn xin thực thụ; những người bạn cảm thấy xấu hổ khi vẫn hay thấy ông ấy ở nhà ga, hay khi ông ấy lảng vảng quanh những băng ghế ở Borough Hall, nói chuyện với một lũ mọi đen quỷ quyệt. Những lời lảm nhảm của ông ấy chứa đầy sức mạnh của sự thông thái, ông vẫn luôn lặp lại những lời sâu sắc về vài từ ngữ hay cái tên bí ẩn như "Sephiroth", "Ashmodai", và "Samaël". Những người họ hàng tiết lộ rằng, ông dùng cạn số thu nhập của mình cũng như lãng phí toàn bộ tài sản để mua vài cuốn sách khả nghi được vận chuyển từ London tới Paris, và còn để duy trì một căn hộ dơ dáy tại quận Red Hook, nơi mà ông ấy vẫn luôn dành để qua đêm, tiếp đón đủ loại người kể cả những kẻ ồn ào và lũ ngoại quốc, rõ ràng rằng, ông ấy đang thực hiện một nghi lễ nào đó nhằm phục vụ chúng đằng sau bức rèm cửa xanh lục. Các thám tử đảm nhận công việc theo dõi ông báo cáo về những tiếng khóc kỳ lạ, cả những tiếng tụng kinh lẫn tiếng nhảy nhót phát ra từ nghi lễ buổi đêm ấy, họ run rẩy rồi từ bỏ dù cho sự xuất hiện của vài tổ chức kỳ lạ ở nơi đó là một điều bình thường. Khi điều ấy dần trở thành một lời đồn, Suydam cố tìm cách giữ tự do cho mọi hành động của mình. Trước khi những lời phán xét về nhân cách của bản thân xuất hiện, ông ta vẫn còn thoải mái đón nhận những kẻ kỳ lạ nói vô số ngôn ngữ khác nhau tới với kết quả của hằng hà sa số tìm kiếm và nghiên cứu mà ông ta đã thực hiện. Ông ấy đã, theo như Suydam nói, tham gia vào việc tìm hiểu những chi tiết về nền văn hóa Châu Âu, thứ liên quan mật thiết tới những nhóm người ngoại quốc, điệu nhảy và bài hát của họ. Sự thật rằng hầu như ai ai cũng đều đang rình rập ông ấy, như những người họ hàng của ông đã nói, thật là một điều ngớ ngẩn; chúng chỉ thể hiện những định kiến trong sự hiểu biết của họ về Suydam và công việc của ông. Chiến thắng với những lời giải thích từ tốn của mình, ông ấy đã phải chịu đựng và nay không còn bị cản trở nữa. Những người thám tử được thuê để theo dõi Suydams, Corlears, và Van Brunts dần rút lui cùng với sự chán chường.
Giờ là thời điểm dành cho liên minh những thanh tra và cảnh sát xứ Federal, Malone cùng với họ, bắt đầu vào cuộc. Luật pháp vẫn dõi theo hành động của Suydam với một sự hứng thú nhất định dù cho những thám tử tư đã yêu cầu sự giúp đỡ từ phía họ nhiều lần. Hóa ra lần này, Suydam cùng những cộng sự của mình đang ở trong một tội ác tăm tối nhất, ác độc nhất từng xuất hiện nơi Red Hook này, ít nhất ba trong số những kẻ ấy đã từng lặp lại hành vi trộm cắp, chống người thi hành công vụ hoặc giúp đỡ vào cuộc di cư trái phép. Sẽ không ngoa khi nói rằng trí tuệ của những học giả xa xưa cũng chỉ ngang với bè lũ những kẻ ác, một nhóm những kẻ buôn lậu gần như vô danh người Châu Á đã rất khôn ngoan khi lựa chọn quay trở lại đảo Ellis. Ở một nơi đầy ắp những ngôi nhà lụp xụp như Parker Place - sau khi đã được đổi tên - nơi Suydam đặt tầng hầm tại đó, nổi lên sự hiện diện của một nhóm người mắt xếch, chúng sử dụng bảng chữ cái Ả Rập nhưng lại bị những cộng đồng người Syrian ở khắp các khu vực xung quanh đại lộ Atlantic chối bỏ. Tất cả bọn chúng đều có thể bị trục xuất bất cứ lúc nào do thiếu giấy tờ, nhưng chính phủ thì luôn chậm chạp, và họ sẽ chẳng làm phiền đến Red Hook trừ khi cộng đồng buộc họ phải làm thế.
Một điểm chung là chúng đều tham gia vào nhà thờ đá và dùng nó như một vũ trường vào các ngày thứ tư, đó là một kiến trúc được xây dựng gần với những chỗ bẩn thỉu nhất bên bờ sông. Được xây dựng nhân danh Công Giáo; nhưng những mục sư ở khắp Brooklyn đều không đồng ý với sự tồn tại cùng tính xác thực của điều đó, bên cảnh sát cũng đồng tình với họ nhất là khi mà người ta nghe thấy những âm thanh mà chỗ đó phát ra mỗi đêm. Malone vẫn hay tưởng tượng rằng, anh ta nghe thấy những âm trầm vỡ vụn một cách khủng khiếp phát ra từ một cây đàn organ được cất giấu tận sâu dưới lòng đất nhà thờ, nơi giờ trống rỗng và tăm tối, trong khi ấy, tất cả những người quan sát đều đang rùng mình bởi tiếng la hét cùng tiếng trống, thứ đi kèm với một lễ nghi nào đó. Suydam, khi được hỏi, nói rằng ông ta nghĩ nghi thức ấy là thứ gì đó còn sót lại từ Cảnh Giáo thuộc về đạo Cơ Đốc điểm thêm một chút Đạo Giáo của người Tây Tạng. Hầu hết mọi người, ông ta đoán, có tổ tiên là Mongoloid, rồi tập hợp đâu đó gần Kurdistan - Malone không thể ngừng việc gọi Kurdistan là một mảnh đất thuộc Yezidis, họ là những hậu duệ cuối cùng của nhóm người Ba Tư chuyên thờ phụng ma quỷ. Dù bất kể điều gì là đúng, có một sự thật mà những cuộc nghiên cứu của Suydam đã chỉ ra, những kẻ xâm nhập bất hợp pháp ấy, chúng đang nhấn chìm Red Hook với số lượng của mình; tới đây thông qua một vùng cảng nào đó mà các vị sĩ quan cùng cảnh sát biển không thể chạm vào, tràn lan tại khu Parker Place rồi dần dần xâm lấn lấy ngọn đồi, chúng được chào đón bởi những vị huynh đệ tò mò từ mọi cộng đồng tạp nham. Sở hữu ngoại hình là một sự kết hợp kỳ lạ giữa cơ thể béo lùn, đôi mắt híp và trang phục kiểu Mỹ, người ta càng ngày càng thấy chúng xuất hiện nhiều hơn giữa các băng nhóm lang thang khắp vùng Borough Hall; phải mất một thời gian dài cho tới khi người ta thấy rằng cần phải thống kê số lượng của chúng, xác minh nguồn gốc và nghề nghiệp cũng như tìm ra một con đường, nếu có thể, để tập hợp cùng áp giải chúng tới cục xuất nhập cảnh. Malone tham gia nhiệm vụ với sự đồng ý của chính quyền thành phố cũng như Liên Bang, và khi bắt đầu cuộc chiến của mình tại Red Hook, anh ấy ngay lập tức cảm nhận được thứ chất độc sinh ra từ bờ vực của một nỗi kinh hoàng không tên, cùng với Robert Suydam bẩn thỉu, nhếch nhác đóng vai trò như kẻ phản diện chính trong câu chuyện này.
IV.
Nghiệp vụ của cảnh sát vẫn luôn đa dạng và khéo léo. Malone, không hề khoe khoang và dài dòng, đem theo vài chai rượu bỏ túi để bắt đầu một cuộc trò chuyện cùng những phạm nhân đang run sợ, rồi tìm hiểu mọi điều họ biết về cuộc di cư của những kẻ, mà nay sự hiện diện của chúng đã trở thành một mối đe dọa. Bọn chúng đúng là người Kurds, nhưng sở hữu một thứ ngôn ngữ pha tạp rất nhiều loại tiếng địa phương rối rắm và khó hiểu. Một phần bọn chúng làm việc như ngư dân hoặc lũ bán hàng rong vô phép, chỗ còn lại phục vụ trong những nhà hàng Hy Lạp hoặc những quầy bán báo. Hầu hết bọn chúng, đều không có nguồn thu nhập rõ ràng nào, và hiển nhiên là đang kết nối với thế giới ngầm theo một cách nào đó, một nơi mà những tên buôn lậu và buôn bán chất cấm lại là loại người bình thường nhất. Chúng tới đây trên những con tàu thủy, hẳn là thuộc về vài tay thuyền trưởng tự do, rồi sau đó lặng lẽ lên xuồng trong những đêm không trăng, có lẽ sở hữu được nhờ ăn cắp bên dưới cầu cảng, và men theo một con kênh bí mật tới một hồ bơi dưới lòng đất, sâu trong căn nhà. Malone không thể xác định vị trí của những cầu cảng, kênh rạch và căn nhà ấy bởi kí ức của người phạm nhân nay đã rối bời, trong khi lời nói của họ đã vượt xa khả năng của những thông dịch viên tốt nhất; tương tự khi hỏi về sự xâm nhập một cách có hệ thống của chúng tình hình cũng không khá khẩm hơn là bao. Những phạm nhân rất kín tiếng về địa điểm mà chúng tới, và gần như không bao giờ lơ là mà tiết lộ thứ chúng tìm kiếm cũng như mục đích chúng nhắm vào. Thật ra, trông chúng có vẻ đang phải chịu đựng một nỗi sợ hãi dữ dội khi được hỏi về lý do cho sự xuất hiện của mình. Những tên gangster tới từ băng đảng khác cũng ít nói y như vậy, và mọi điều mà Malone biết chỉ dừng lại ở việc một vị thần hoặc một vị tư tế vĩ đại nào đó đã hứa hẹn với chúng về một thứ sức mạnh mà chưa ai biết tới hoặc một thứ vinh quang siêu nhiên nào đó kèm theo quyền cai trị ở vùng đất hứa.
Cuộc gặp gỡ của cả lũ ma mới và ma cũ được canh gác cẩn thận tại hội nghị về đêm của Suydam thường xuyên diễn ra, và những vị cảnh sát sớm đã biết được rằng những kẻ đến trước, sẽ cho người đến sau thuê lại căn hộ nếu họ biết mật khẩu của chúng; ít nhất ba căn nhà đã bị chiếm dụng để dành chỗ cho những người bạn kỳ lạ của ông ta. Suydam dành ra rất ít thời gian cho ngôi nhà ở Flatbush, hầu như đến và đi chỉ để kiếm rồi trả những quyển sách; như một lẽ dĩ nhiên khuôn mặt và nhân cách của ông ta, nay đã trở nên dạn dày vì sương gió. Malone đã hai lần thẩm vấn ông ấy, nhưng cả hai lần đều bị ông ta khéo léo lẩn tránh. Suydam nói rằng, ông không biết gì cả, không âm mưu bí ẩn hay bất cứ cuộc di cư nào; và ông ta không có bất cứ ý tưởng nào về việc làm sao người Kurds có thể xâm nhập hay mục đích của họ là gì. Công việc của ông ấy chỉ là nghiên cứu về những câu chuyện dân gian được đem tới bởi người di cư khắp quận Brooklyn này; Malone có đề cập tới sự ngưỡng mộ của anh ấy với những cuốn sách cổ do Suydam viết về Kabbalah và nhiều thần thoại khác, nhưng điều ấy chỉ đem đến sự dịu dàng cho ông già trong thoáng chốc. Ông ta cảm thấy sự chõ mũi, cố gắng để cự tuyệt vị khách không mong muốn bằng mọi cách; cho tới khi Malone chán nản từ bỏ để mà quay sang tìm hiểu những nguồn tin khác.
Điều duy nhất mà Malone tìm thấy được đó là rằng liệu anh ấy có tiếp tục vụ này không, ta sẽ chẳng bao giờ biết. Bởi, một cuộc xung đột ngu ngốc giữa thành phố và chính quyền Federal đã ngăn cản cuộc điều tra hàng tháng trời để khiến vị thám tử bận rộn với cả tá nhiệm vụ khác. Nhưng anh ấy chưa bao giờ mất đi hứng thú , hoặc thất vọng về những điều bắt đầu xảy ra với Robert Suydam. Ngay thời điểm mà làn sóng bắt cóc cùng sự mất tích lan ra khắp New York, vị học giả nhếch nhác của chúng ta liền bắt tay vào công cuộc thay đổi ngoại hình ngớ ngẩn của mình một cách bất ngờ. Ngày nọ, người ta nhìn thấy ông ấy gần Borough Hall với bộ râu nhẵn nhụi, tóc tai được tỉa tót, cùng trang phục trang nhã, từ đó về sau, mỗi ngày, ta lại được thấy ông ta đi cùng sự đổi khác. Ông vẫn khó tính, cùng tia lửa trong ánh mắt và gãy gọn trong lời nói nhưng đang từng chút, từng chút một bỏ đi thứ tính cách đã định hình nên ông ấy quá lâu rồi. Giờ đây, ông ấy trông trẻ hơn hẳn so với tuổi của mình, để phù hợp với tạo hình mới đó, ông bước đi theo một phong thái khác hẳn, thêm vào một bộ tóc đen tuyền mà trông không có vẻ gì là được nhuộm. Vài tháng qua đi, cách ăn mặc của ông ấy dần dà ít bảo thủ hơn, cuối cùng thì, ông làm kinh ngạc những người bạn của mình bằng việc cải tạo cũng như trang trí lại ngôi nhà ở Flatbush, nơi ông ấy mở hàng loạt bữa tiệc, kêu gọi tất cả những người mà ông ấy biết, kèm theo đó là một lời mời đặc biệt dành cho mọi người họ hàng trước đó đã tìm kiếm ông ấy. Một số người tới vì tò mò; người khác thì tới cho phải phép; dù vậy tất cả bọn họ đều bị quyến rũ bởi vẻ rạng ngời duyên dáng và ngây ngất trước vẻ ngoài của người ẩn sĩ. Ông ấy, tự khẳng định, rằng bản thân đã hoàn thiện mọi công việc của mình; sau đó nhờ thừa hưởng một chút tài sản từ người bạn Châu Âu mà ông đã phần nào quên lãng, Suydam định rằng sẽ dành phần còn lại của cuộc đời mình nhằm hồi lại chút tuổi xuân tươi sáng với niềm an ủi, sự chăm sóc và những bữa ăn ngon. Người ta thấy ông ấy ít xuất hiện hơn ở Red Hook, và di chuyển nhiều hơn tới nơi mình đã sinh ra. Bên cảnh sát đã để ý tới sự tụ tập của lũ bất hảo trước nhà thờ đá và sàn nhảy thay vì căn hầm ở Parker Place, dù vậy từ nay cho tới mãi sau này nơi ấy vẫn sẽ tràn ngập lấy sự độc hại.
Rồi hai sự cố đột nhiên xảy tới - không liên quan đến nhau, nhưng cả hai đều mãnh liệt như những gì mà Malone đã dự đoán. Đầu tiên là hôn ước bí mật giữa Robert Suydam và quý cô Cornelia Gerritsen tới từ Bayside, một quý cô với địa vị cao quý, có họ hàng xa với tổ tiên của chú rể; trong khi đó sự kiện thứ hai lại là cuộc đột kích vào nhà thờ cùng sàn nhảy bởi cảnh sát thành phố, sau một báo cáo về việc người ta nhìn thấy khuôn mặt của kẻ bắt cóc trẻ em thông qua ô cửa tầng hầm. Malone cũng tham gia vào đó, khi đã ở trong, anh ấy cẩn thận quan sát nó. Không có gì được tìm thấy - thực ra, khi các sĩ quan xông vào đó, căn nhà hoàn toàn trống không - nhưng trực giác của người Celt mơ hồ bị đánh thức bởi thứ gì đó tới từ bên trong. Ở đó có những tấm ván được sơn vẽ thô thiển mà anh ấy ghét bỏ - những tấm ván đang miêu tả một khuôn mặt thần thánh bằng một biểu cảm mỉa mai và thông thái lạ kỳ, một biểu cảm mà tự do tới mức ngay cả những tu sĩ lịch thiệp nhất cũng hiếm khi cảm thấy. Anh ấy cũng không hề bỏ qua dòng chữ Hy Lạp trên giảng đàn; một câu thần chú anh đã từng bắt gặp trong những ngày tại giảng đường Dublin, một thứ đã được nhìn thấy, được diễn dịch.
"Hỡi những người bạn và những kẻ đồng hành với bóng đêm, hỡi những kẻ hân hoan đắm mình bằng máu và tiếng sủa của bầy sói, hỡi những kẻ lang thang quanh các sắc thái giữa lòng nghĩa địa, hỡi những kẻ khao khát thịt tươi và đem nỗi kinh hoàng tới với phàm nhân , Gorgo, Mormo, mặt trăng thiên diện, xin hãy tận hưởng cuộc hiến tế của chúng tôi!"
Khi đọc tới những dòng này, anh ấy rùng mình, mơ hồ nghĩ về những nốt trầm đứt gãy từ cây đàn organ mà anh nghe thấy bên dưới nhà thờ mỗi đêm. Anh ấy run rẩy lần nữa khi nhìn thấy vết rỉ sét xung quanh chiếc bồn rửa bằng kim loại trên bệ thờ, và dừng lại một cách lo lắng khi mũi của anh dường như đã ngửi thấy một mùi hôi thối đâu đó quanh đây. Ký ức về cây đàn organ ấy ám ảnh Malone trong khi anh, một mình cần mẫn khám phá tầng hầm một lần nữa trước khi rời đi. Anh ta căm ghét chỗ này; rồi, sau tất cả, phải chăng những tấm ván báng bổ và những dòng chữ ấy chỉ là sự phá hoại thô thiển của một kẻ ngu dốt nào đó hay còn hơn thế nữa?
Thời điểm lễ cưới Suydam diễn ra cũng là lúc mà dịch bệnh mang tên bắt cóc trở thành một vụ bê bối khắp các mặt báo. Hầu hết các nạn nhân đều là người trẻ sống trong tầng lớp thấp nhất, nhưng sự gia tăng về số lượng của họ cũng sẽ làm dậy nên một cơn thịnh nộ vô cùng khủng khiếp. Các nhà báo kêu gọi hành động từ phía chính quyền, để rồi, một lần nữa, sở cảnh sát đường Butler lại gửi những sĩ quan xuống Red Hook nhằm thu thập bằng chứng, manh mối và tội ác. Malone vui mừng vì được tham gia, anh ta vinh dự dẫn đầu cuộc đột kích vào căn nhà của Suydam ở Parker Place. Tại đó, thực tế, chẳng có đứa trẻ bị bắt cóc nào cả, dù cho xung quanh vẫn luôn có những câu chuyện về tiếng thét, hoặc chuyện người ta tìm thấy vài sợi ruy băng màu đỏ; nhưng mọi bức tranh cùng với các dòng chữ trên hầu khắp các bức tường ở khắp ngôi nhà, tất cả cộng thêm căn phòng thí nghiệm đơn sơ bên gác xép, chúng thuyết phục vị thám tử rằng anh ấy đang lần theo dấu vết của một thứ gì đó phi thường. Các bức vẽ thì ghê rợn - chúng vẽ lũ quái vật gớm ghiếc với muôn hình vạn trạng và trông như đang bắt chước con người theo một hình dạng không gì tả được. Còn dòng chữ thì đỏ thẫm, trải dài đủ loại ngôn ngữ từ Ả Rập cho tới Hy Lạp, La Mã và cả Do Thái. Phần lớn, Malone không thể đọc được, nhưng chỉ với những điều mình hiểu, cũng đủ khiến cho anh ấy cảm thấy một cái gì đó xấu xa, kỳ ảo. Có một câu châm ngôn trông như thể là xuất phát từ nền văn hóa Hebraised Hellenistic Greek cứ lặp đi lặp lại, nó gợi nhắc tới nghi lễ triệu hồn kinh khủng nhất trong thời kỳ suy đồi của Alexander:
"HEL • HELOYM • SOTHER • EMMANVEL • SABAOTH • AGLA • TETRAGRAMMATON • AGYROS • OTHEOS • ISCHYROS • ATHANATOS • IEHOVA • VA • ADONAI • SADAY • HOMOVSION • MESSIAS • ESCHEREHEYE."
Biểu tượng ngôi sao năm cánh lồng trong vòng tròn lờ mờ trên mỗi bàn tay thể hiện một thứ đức tin kỳ lạ cùng khao khát của một kẻ nào đó trú ngụ dưới chỗ dơ dáy bẩn thỉu này. Dù vậy, đó vẫn chưa phải thứ dị thường nhất, trong căn hầm họ tìm thấy nó - một cây cột làm từ vàng nguyên chất được bao bọc cẩn thận bằng vài mảnh vải bố, trên bề mặt lấp lánh của nó được khắc lên dòng chữ tương đồng với những ký hiệu trên tường. Trong suốt cuộc tập kích, các sĩ quan không hề bắt gặp sự phản kháng nào. Và vì không tìm thấy gì cả, họ buộc phải rời đi, để lại mọi thứ như lúc đầu; nhưng kẻ cầm đầu khu đó đã viết cho Suydam một mảnh giấy, nó khuyên ông ta nên coi chừng người chủ đất cũng như phụ thân vì một cộng đồng đang được thai nghén.
V.
Quay trở lại với lễ cưới tháng năm, khắp Flatbush đã hân hoan kể từ ban trưa, từ những cỗ xe treo đầy cờ hoa đến những con đường gần nhà thờ Hà Lan, nơi mà mái che đã được mở sẵn, kéo dài từ cửa ra tới tận ngoài hè. Chưa từng có một sự kiện nào vượt mặt hôn lễ giữa hai nhà Suydam-Gerritsen về quy mô và sự hoành tráng, về phần bữa tiệc tiễn đưa cô dâu cùng chú rể tới Cunard Pier, nếu nó không phải thứ rực rỡ nhất, thì hẳn nó cũng chiếm trọn một trang trong Sổ Đăng Ký Xã Hội. Đúng năm giờ, đoàn người cùng vẫy tay tiễn biệt để rồi chiếc du thuyền nặng nề xuất phát từ bến, chậm chạp hướng mũi về phía biển cả, vứt bỏ những dây kéo và tiến về phía mênh mông ngoài kia, nơi thế giới cũ đang chờ đón. Ngay khi trời vừa tối, cầu cảng liền trở nên trống không với vài vị khách đứng đó, họ ngắm nhìn bầu trời lấp lánh ánh sao bên trên một vùng biển còn tinh khiết.
Đó là tiếng nồi hơi hay một tiếng hét khủng khiếp đã khiến tất cả mọi người chú ý tới, chẳng ai biết. Có thể chúng phát ra cùng lúc, nhưng ai mà tính toán được điều ấy phải không ? Tiếng la thất thanh ấy phát ra từ phòng của Suydam, về phần người thủy thủ đã phá cửa phòng, có lẽ anh ta sẽ kể một câu chuyện kinh dị nếu bản thân không trở nên phát điên ngay tức khắc, tiếng rít của anh ấy thậm chí còn lớn hơn nạn nhân đầu tiên, rồi sau đó vừa chạy vừa cười khắp cả boong tàu, ít nhất là tới khi người ta bắt anh ta lại rồi nhốt vào ngục. Vị thuyền y, ông tới sau rồi bật đèn lên, nhưng ông không hóa điên, ông chỉ rời đi mà không hé răng nửa lời, tận tới lúc ông ấy viết thư cho Malone ở Chepachet. Đó là một vụ mưu sát - bóp cổ - không một ai dám nói rằng vết hằn trên cổ bà Suydam là từ những ngón tay của hôn phu hay bất cứ một bàn tay con người nào, hay bàn tán về dòng chữ màu đỏ đáng ghét trên tường, sau này được nhớ lại, như là một sự gợi nhắc về một truyền thuyết đáng sợ được viết bằng vài ký tự Chaldee :"LILITH". Người ta không đề cập đến nó, đơn giản vì nó chỉ xuất hiện trong thoáng chốc - về phần Suydam, người ta đã cấm tất cả sự ra vào, ít nhất là tới khi họ biết được bản thân phải làm gì. Vị bác sĩ cũng cam đoan với Malone rằng, ông không nhìn thấy THỨ ĐÓ. Cửa sổ, một khoảnh khắc ngay trước khi anh đèn được bật lên, được bao phủ bởi một đám mây lân tinh, và ngay lúc ấy, ngoài trời đêm dường như văng vẳng một tiếng cười mờ nhạt và quỷ quái; dĩ nhiên, chẳng có thứ gì ở đó cả. Như để chứng minh, người thuyền y bắt đầu nói về sự tỉnh táo của mình.
Rồi tiếng nồi hơi lần nữa vang lên, thu hút sự chú ý của tất cả mọi người. Một con tàu xuất hiện, cùng một lũ du côn đen đúa, xấc xược trong bộ trang phục sĩ quan đứng đặc trên con tàu Cunarder. Chúng muốn Suydam, hoặc cơ thể ông ấy - chúng hẳn đã biết về chuyến tàu, và bằng cách nào đó, chắc chắn về cả cái chết của ông. Phút chốc boong tàu trở thành một nơi lộn xộn, đứng giữa các báo cáo của thuyền y và yêu cầu của những kẻ lang thang, kể cả là thủy thủ không ngoan nhất, dũng cảm nhất cũng không biết phải làm gì. Đột nhiên, lãnh đạo của những vị khách, một tên Ả Rập ngăm đen đáng ghét, rút ra một tờ giấy nhàu nát, bẩn thỉu rồi đưa nó cho thuyền trưởng. Trên đó có chữ ký của Robert Suydam, kèm theo vỏn vẹn vài dòng tin nhắn:
"Trong trường hợp một tai nạn hoặc cái chết không ngờ tới xảy đến với tôi, làm ơn hãy đưa tôi hoặc cơ thể tôi về với bàn tay của người đem thư cùng cộng sự của anh ta mà không hỏi thêm gì cả. Mọi thứ, đối với tôi, hoặc có lẽ là đối với bạn, đều đang phụ thuộc vào sự tuân thủ tuyệt đối bức thư này. Lời giải thích có thể đến sau - giờ thì, xin đừng làm tôi thất vọng.
ROBERT SUYDAM."
Thuyền trưởng cùng vị bác sĩ nhìn nhau, thì thầm điều gì đó. Cuối cùng họ gật đầu bất lực để rồi dẫn đường tới phòng của Suydam. Vị thuyền y hướng ánh mắt của người lái tàu về phía khác khi ông ta mở khóa cánh cửa và bàn giao lại cho vị thủy thủ kỳ lạ, anh ta đứng đó, hít thở cho tới khi trách nhiệm lấp đầy lấy bản thân sau một khoảng thời gian chuẩn bị dường như là vô hạn. Cơ thể Suydam được bọc trong ga giường, và vị thuyền y thực sự vui mừng khi nó không lộ ra ngoài. Bằng cách nào đó, những người đàn ông đem cái xác sang phía bên kia mà không hề tháo bỏ lớp bọc. Con thuyền Cunarder lại khởi động lần nữa, về phần vị bác sĩ cùng người khâm liệm, họ dọn dẹp lại căn phòng như một ân huệ cuối cùng mà họ có thể phục vụ cho người đã khuất. Một lần nữa, cơ thể họ lại bị thử thách bởi sự thận trọng và cả khéo léo bởi một điều khủng khiếp đã diễn ra. Khi người khâm liệm hỏi vị bác sĩ, tại sao ông ấy lại rút cạn máu của bà Suydam, ông ấy không hề phủ nhận rằng bản thân đã làm điều đó; rồi ổng chỉ vào những chai lọ rỗng trên kệ, rồi về phía cái mùi bốc lên từ bồn rửa mặt, thứ đã chỉ ra vị trí hiện giờ của dung dịch bên trong cái lọ. Hai giờ sau, thông qua chiếc đài radio, cả thế giới bắt đầu biết về nỗi kinh hoàng mà họ xứng đáng được biết.
VI.
Cũng vào buổi tối tháng năm ấy, Malone, lúc này vẫn chưa biết gì về sự kiện trên biển, đang bận rộn một cách đầy tuyệt vọng giữa các con hẻm của RedHook. Dường như đã có một sự khuấy động được thêm vào nơi ấy, gây ra bởi những "lời truyền miệng", như một lẽ dĩ nhiên, mọi người cư dân của thị trấn giờ đây đều đang tụ tập xung quanh sàn nhảy, nhà thờ đá và căn nhà nơi Parker Place. Ba đứa trẻ đã biến mất - chúng là người Na Uy, mang đôi mắt xanh biếc, sống quanh con đường dẫn thẳng tới Gowanus - và đã có vài lời đồn về một nhóm người Viking có liên quan tới chuyện này. Malone đã dành ra hàng tuần liền để hối thúc những người đồng nghiệp của mình nhằm làm sáng tỏ mọi việc; ít nhất thì, nếu không phải vì lời phỏng đoán của một kẻ mơ mộng người Dublin, sự ảnh hưởng của hoàn cảnh đã tác động tới họ, họ đồng ý cho một cuộc tấn công cuối cùng. Chính buổi tối mất ngủ đầy đe dọa ấy đã trở thành đòn bẩy bước ngoặt, chỉ vừa mới nửa đêm thôi, một bữa tiệc đột kích với sự tham gia của ba sở cảnh sát đã diễn ra ở Parker Place. Những cánh cửa bị phá tung, những kẻ lang thang bị bắt giữ, và những căn phòng lờ mờ dưới ánh nến phải nhả ra một hỗn hợp gồm hàng tá kẻ ngoại quốc với áo choàng, găng tay cùng vô số thiết bị không rõ mục đích khác. Nhiều kẻ đã ngã xuống trong cuộc ẩu đả, vô số vật dụng bị ném xuống lung tung, còn thứ mùi hôi thối thì bị át đi bởi hơi cay. Nhưng máu tươi thì đã vương vãi, còn Malone thì rùng mình khi anh ta nhìn thấy lò than hoặc có lẽ là điện thờ vẫn còn nghi ngút khói.
Có rất nhiều nơi mà Malone muốn tới, nhưng tầng hầm của Suydam đã trở thành điểm đến cuối cùng bởi một báo cáo về sự trống không của nhà thờ đá. Căn hầm đó, anh nghĩ, hẳn phải ẩn giấu một manh mối nào đó tới một giáo phái mà vị học giả huyền bí đã trở thành trung tâm đồng thời là người lãnh đạo. Với sự mong đợi ấy, anh ta lục tung căn phòng cũ rích lên, để ý tới từng mùi hương còn mờ nhạt, xem xét kỹ từng quyển sách, nhạc cụ, thỏi vàng và vài chiếc lọ rỗng rải rác ở đây và ở kia. Chợt một con mèo đen trắng, gầy còm xuất hiện, vờn giữa những bước chân của anh ta, bỗng nó biến thành một chiếc cốc beaker được rót đến một nửa bằng thứ chất lỏng màu đỏ. Một cơn choáng váng kinh khủng chạy qua, và tới tận ngày hôm nay Malone vẫn không chắc về mọi điều mà anh nhìn thấy lúc đó; nhưng trong những giấc mơ của mình, anh ấy vẫn nhìn thấy một khung cảnh mà trong đó, con mèo đắm chìm trong mọi biểu cảm và hành động quái dị nhất. Sau con mèo, Malone phải xử lý cánh cửa bị khóa của tầng hầm, anh ta tìm quanh, hi vọng thấy một thứ gì đó giúp mở khóa nó. Chiếc ghế đẩu nặng nề nằm ngay gần đó, chỉ với bề mặt vững chắc, nó đã là quá đủ để xử lý tấm ván cũ nát rồi. Một vết nứt lớn xuất hiện, rồi lan rộng ra, xâm lấn lấy toàn bộ cánh cửa - nhưng từ phía bên kia; đâu đó, tiếng hú của một cơn gió xôn xao đang chảy qua, nó mang theo mùi hôi thối từ nơi hố sâu không đáy, khởi nguồn của nó, hẳn phải nằm ngoài tầm với của thiên đàng, đang nhẹ nhàng lôi cuốn vị thám tử, kéo anh ấy qua kẽ hở, xuống phía dưới khoảng không rộng lớn tới mức mà chẳng ai đong đếm được, nó đặc kín với tiếng thì thầm, tiếng khóc than trộn thêm cả những tiếng cười chế giễu.
Dĩ nhiên đó chỉ là một giấc mơ thôi. Tất cả mọi chuyên gia đều nói với anh ấy như vậy và anh ấy thì chẳng có gì để chứng minh điều ngược lại cả. Thực ra, anh anh ấy thà không có bằng chứng thì hơn; bởi nếu không có nó, hình ảnh về những khu ổ chuột, những khuôn mặt ngoại quốc đen xì sẽ không ăn sâu vào linh hồn anh ấy đến thế. Sự thật là, lúc ấy, tất cả mọi nỗi kinh hoàng đều tồn tại, không một thứ gì có thể xóa nhòa đi ký ức về đêm tối, về thứ vòng xoáy khổng lồ, về cái thứ mang một nửa hình dáng của địa ngục ấy, nó sải bước chân to lớn của mình trong tĩnh lặng, mang theo một con người đã bị ăn mất một nửa, nhưng vẫn còn sống, thứ đó gào thét cầu xin lòng nhân từ hay bật cười đầy điên loạn, không ai rõ. Thứ mùi từ lư hương, kết hợp với sự tha hóa cũng tham gia vào vở kịch bệnh hoạn đó, thêm cả màn đêm như sống động với tập hợp những đám mây đủ mọi hình dáng kích cỡ mà ta lờ mờ thấy nữa. Ở đâu đó, thứ nước đen ngòm, dinh dính oàm oạp vỗ vào cây trụ mã não, rồi chiếc chuông nhỏ bé, khàn khàn chợt giật mình mà bật lên âm thanh như để chào mừng tiếng cười gượng đầy điên loạn của một tạo vật phát sáng lỡ bơi vào tầm mắt ta, nó vùng vẫy, trèo lên rồi nhẹ nhàng ngồi xuống, tựa vào bệ đá với những đường nét chạm khắc bằng vàng phía sau.
Một đại lộ của vô hạn những màn đêm dường như đang tỏa ra mọi hướng, mãi cho tới khi một trong số chúng tới đây, cắm sâu những chiếc rễ định mệnh của mình xuống, suy đồi và nuốt chửng lấy thành phố này, nó nhấn chìm tất cả dưới mùi hôi thối của một hỗn hợp được tạo thành từ đủ loại dịch bệnh. Đâu chỉ có thế, còn có sự tham gia của những tội ác nữa, chúng, chỉ bằng vài nghi lễ báng bổ đã bắt đầu một cuộc diễu hành tươi vui của cái chết, nó tha hóa tất cả chúng ta thành một đống nấm mốc kỳ dị, kinh tởm tới nỗi chẳng ngôi mộ nào dám chứa chấp. Ở nơi này, Satan đã nắm được vườn treo Babylon, giờ đây, trong dòng máu thuần khiết của lũ trẻ cũng đã nhen nhóm mầm mống căn bệnh lở loét mà Lilith gieo rắc. Incubus và Succubus rú lên những âm thanh chào mừng Hecate, còn con vật dị dạng không đầu thì đang be be những âm thanh sùng kính Magna Mater. Đàn dê thì nhảy nhót theo điệu nhạc từ một ống sáo đáng nguyền rủa, trong khi lũ Aegipan đuổi theo thần Fauns trên một con đường dài bất tận chất đầy là đá, tất cả vặn vẹo, xoắn xít lại như một con cóc trương phềnh khổng lồ. Dĩ nhiên, cuộc vui thì không thể thiếu vắng Moloch và Ashtaroth được; trong bữa tiệc tinh hoa của sự nguyền rủa này, sự ràng buộc của lý trí dường như được gỡ xuống, khi ấy trí tưởng tượng mở rộng cho viễn cảnh về mọi thực tại kinh hoàng cùng những chiều không gian nơi mà lũ ma quỷ ngự trị xâm chiếm. Sức mạnh của cả thế giới này cũng chẳng thể ngăn chặn cuộc tấn công từ nơi tận cùng của bóng tối, không có dấu hiệu nào cho thấy lũ sùng đạo sẽ kiểm tra những đêm náo động của phù thủy, thứ sẽ tới khi vị học giả, mang theo chiếc chìa khóa của sự thù ghét tình cờ vấp phải lũ quỷ, kẻ mang theo chiếc rương chứa đựng tri thức về yêu quái.
Đột nhiên, một tia sáng bắn xuyên qua những ảo ảnh ấy và Malone nghe thấy âm thanh của mái chèo từ một tạo vật báng bổ đáng ra đã chết. Chiếc thuyền với cây đèn trên mũi lao vào tầm mắt, nó nhanh chóng bám vào chiếc neo trên phiến đá nhầy nhụa, rồi từ đó túa ra hàng chục tên mọi đen đang vác theo một vật nặng quấn trong ga giường. Chúng mang thứ đó tới tạo vật lân tinh trần trụi nằm trên bệ đỡ bằng vàng, nó bật cười, cào cấu lớp vỏ ngoài. Rồi chúng tháo bỏ tấm vải, lật ngửa nó lên trước khi để lộ ra cái xác thối rữa của người đàn ông mập mạp mang trên mình bộ râu rậm cùng mái tóc bạc trắng. Cái thứ phát sáng ấy lại khẽ cười lần nữa, rồi tên đàn ông đứng đầu rút ra chiếc lọ được đổ đầy với chất lỏng màu đỏ, khẽ xức lên bàn chân của thứ ấy, trong khi lũ đằng sau chuyền tay nhau chiếc lọ để rồi uống thứ chất lỏng trong đó.
Rồi như cùng một lúc, từ thăm thẳm những cung đường, vọng tới thanh âm của tiếng trống quỷ quái hòa với tiếng khò khè đầy báng bổ từ cây đàn organ, chúng dồn lại, ầm ĩ tựa địa ngục đang cười nhạo, nhưng là bằng những âm trầm mỉa mai, đứt gãy. Trong khoảnh khắc, mọi thứ đều chuyển động như thể bị nhiễm điện, để rồi tất cả hợp lại, biến thành một đám rước, bè lũ ác mộng dần trượt đi, theo tiếng gọi của âm thanh - bọn dê, dương thần, Aegipan, Incubus, Succuba, Lemur, loài cóc vặn vẹo, các nguyên tố vô định hình cùng loài quỷ mặt chó trong bóng đêm - tất cả đều tiến về tạo vật trần truồng, ghê tởm đang phát sáng, nó ngồi bên trên ngai vàng được chạm khắc, nhưng giờ đây đang sải những bước chân xấc láo, bế trên tay là cái xác không hồn của người người đàn ông già mập mạp. Những tên mọi đen kì lạ nhảy múa phía sau, chúng nhảy vọt, bật lên dưới sự dẫn dắt của Dionysiac. Malone theo sau chúng, chỉ cách có vài bước, mê sảng và mơ hồ, nghi ngờ về sự tồn tại của nơi này trong khắp các cõi thực tại. Chợt anh ấy quay lại, nấp sau tảng đá lạnh lẽo ẩm ướt, run rẩy và hổn hển như hòa nhịp cùng những tiếng đàn organ cong queo, tiếng hú, tiếng trống, tiếng leng keng của lễ rước điên loạn đang ngày càng mờ hơn.
Anh ta cảm thấy tiếng tụng kinh của nỗi kinh hoàng cùng tiếng càu nhàu phía xa xa. Tiếng rên rỉ của lũ mộ đạo trôi nổi, tiến tới anh ấy thông qua ô cửa hẹp, nó gợi nhắc tới câu thần chú ghê tởm của người Hy Lạp mà anh đã thấy bên trên bục giảng chỗ nhà thờ đá.
"Hỡi những người bạn và những kẻ đồng hành với bóng đêm, hỡi những kẻ hân hoan đắm mình bằng máu (đây cất lên một âm thanh không tên xen lẫn một tiếng thét bệnh hoạn) và tiếng sủa của bầy sói (đây cất lên một tiếng tru gớm ghiếc), hỡi những kẻ lang thang quanh các sắc thái giữa lòng nghĩa địa (đây cất lên một tiếng thở dài) , hỡi những kẻ khao khát thịt tươi và đem nỗi kinh hoàng tới với phàm nhân (đây cất lên một tiếng khóc gãy gọn, sắc nhọn từ vô số con người) , Gorgo (lặp đi lặp lại), Mormo (vọng lại những âm thanh ngây ngất), mặt trăng thiên diện (đây cất lên tiếng thở cùng với tiếng sáo), xin hãy tận hưởng cuộc hiến tế của chúng tôi!"
Ngay khi bài ca vừa kết thúc, một tiếng hát hợp xướng cất lên cùng với những tiếng rít dường như nhấn chìm mọi âm trầm gãy gập từ cây đàn organ. Rồi theo sau là tiếng thở từ hàng tá cổ họng đi kèm một bộ âm thanh rối bời, chảy máu - "Lilith, Lilith vĩ đại, xin hãy chiêm ngưỡng chàng rể của ngài." Và đi sau đó là nhiều tiếng khóc hơn, nhiều tiếng náo loạn hơn, ở giữa, nổi bật lên là một tiếng chân sắc nhọn, lạch cạch của một hình dáng đang chạy đi. Tiếng bước chân càng ngày càng tới gần, trong khi Malone vẫn đang nâng người trên khuỷu tay mình mà quan sát.
Ánh hào quang le lói phát ra từ hầm mộ dường như đang vụt sáng trở lại; và trong cái ánh sáng ma quỷ ấy - thân xác của một người đàn ông già, vô hồn, hoại tử hiện lên, nó không cần sự trợ giúp nào cả mà tự hành động như được ban phước bởi thứ phép thuật từ địa ngục mà nghi lễ đã triệu hồi. Sau khi nó chạm vào thứ lân tinh trần trụi ở bên trên bệ thờ ấy, đằng sau nó là hàng đoàn những tên mọi đen, cả những tên thủy thủy ghê tởm. Cái xác dường như bị thu hút bởi một thứ gì đó, bị thúc giục bởi mọi bó cơ đang thối rữa, để tiến về phía đài tế, minh chứng rõ ràng nhất cho sự tồn tại của thuật triệu hồn. Chỉ một khoảnh khắc trước khi nó đạt được mục đích của mình, trong khi những kẻ bám đuôi vẫn đang hổn hển. Nhưng chúng đã quá muộn, bằng một cú bật cuối cùng, mạnh mẽ và uy lực của mình, cú bật đã xé rời từng sợi gân trong người nó, cú bật đã rũ bỏ phần lớn thứ nhầy nhụa hôi hám khỏi cơ thể thành từng vũng trên sàn, cái xác, thứ từng là Robert Suydam, nay đã đạt được mục đích và thắng lợi của nó. Cú bật thật phi thường, nhưng sức lực thì đã cạn kiệt, và khi cái xác dần tan ra thành một đống bầy nhầy của sự bại hoại, cuối cùng thì bục thờ dần di chuyển, nghiêng mình, rời khỏi bệ đỡ bằng mã não của nó mà đắm mình vào dòng nước đục ngầu bên dưới, phát ra những tia sáng vàng óng cuối cùng khi nó nặng nề chìm xuống nơi sâu nhất của địa ngục Tartarus. Ngay lúc ấy, toàn bộ khung cảnh kinh hoàng dường như tan vào hư vô ngay trước đôi mắt của Malone; và anh ấy ngất xỉu ngay giữa lúc những âm thanh đổ vỡ khủng khiếp dường như thổi tung cả vũ trụ quỷ quái này lên phát ra.
VII.
Giấc mơ của Malone, thứ từng xuất hiện trước cả khi anh ấy biết về cái chết cả Suydam và việc có những kẻ mang xác ông đi, có lẽ đã được hậu thuẫn bởi những điều kỳ lạ của vụ án này; mặc dù chẳng có lý do gì để người ta có thể tin vào sự kỳ lạ ấy. Ba căn nhà cũ nát ở Parker Place, hẳn rằng đã bị mục rữa tới từng phần trong cơ thể quỷ quyệt của nó, đổ sập mà không do bất cứ nguyên nhân rõ ràng nào khi phân nửa lũ cướp và hầu hết lũ phạm nhân vẫn đang ở bên trong; hầu hết bọn chúng đều chết ngay lập tức. Những kẻ sống sót đều ở dưới tầng hầm, về phần Malone, anh ta thực sự may mắn khi ở sâu bên dưới căn nhà của Robert Suydam. Người ta tìm thấy anh ấy bất tỉnh bên bờ của một bể nước đen ngòm, với từng mớ lộn xộn kinh tởm của xác thịt và xương xẩu thối rữa, cách đó vài feet là cơ thể của Suydam, theo như khám nghiệm tử thi. Tất cả mọi thứ đã được sắp đặt từ trước, bởi kênh đào dưới lòng đất dẫn thẳng tới đây, và kẻ đã đưa Suydam từ con tàu, cũng chính là kẻ đã mang ông về nhà. Người ta chẳng bao giờ nhìn thấy hay nhận dạng được chúng nữa; về phần người thuyền y, ông ấy hẳn vẫn chưa thỏa mãn với các thông tin mà phía cảnh sát đưa ra.
Suydam hiển nhiên là người lãnh đạo trong một dự án to lớn của phường trộm cắp, con kênh dẫn đến nhà ông ta, một phần của cả một hệ thống kênh rạch và cống ngầm trải dài dưới lòng đất xuyên suốt khắp các khu vực lân cận đã chứng minh điều đó. Có một đường hầm kéo dài từ căn nhà của Suydam tới với hầm mộ bên dưới nhà thờ; nơi ấy chỉ có thể được tiếp cận thông qua một lối đi bí mật từ bên bức tường phía Bắc, và trong khắp những hang cùng ngõ hẻm của nó người ta đã tìm thấy vô số điều khủng khiếp. Cây đàn phong cầm nằm đây cùng với nó là một nhà nguyện bao la với hàng ghế gỗ và một tế đàn kỳ lạ. Bức tường của nó thông với từng buồng giam nhỏ, mười bảy trong số chúng - quá khủng khiếp so với trí nhớ của con người - đang xiềng xích một người phạm nhân đơn độc, nay đã trở nên mất trí, cùng với bốn người mẹ cùng đứa bé của bà ta trong một diện mạo bất thường. Cái chết của những đứa trẻ ấy đến cùng lúc với tia sáng đầu tiên mà chúng nhìn thấy trong đời; một tình cảnh vượt quá cả lòng thương xót của những vị bác sĩ. Malone, đứng giữa những thanh tra đang thẩm vấn bọn họ, nhớ về câu hỏi u ám của Delrio: "An sint unquam daemones incubi et succubae, et an ex tali congressu proles nasci queat?"
Người ta tiến hành nạo vét trước khi lấp đầy hệ thống kênh rạch lại, quá trình ấy đã bày ra trước mắt ta cả một hàng dài những lưỡi cưa và xương người đủ mọi kích cỡ. Tất cả mọi nạn nhân từng bị bắt cóc, rất rõ ràng, đều bị dẫn tới đây; thông qua các cuộc tra khảo hoàn toàn hợp pháp, chỉ có hai trong số lũ phạm nhân sống sót có liên quan trực tiếp tới việc ấy. Giờ đây, chúng đã ở trong tù, tiếp nhận bản án cho việc gián tiếp tham gia vào hành động giết người. Về phần bệ đỡ bằng vàng, dù cho bao nhiêu lần Malone nhắc tới nó như một bằng chứng quan trọng, người ta vẫn không tìm thấy nó, dù cho ở bên dưới căn nhà của Suydam dường như con kênh dẫn tới một lòng giếng quá sâu để có thể nạo vét. Phần miệng của nó được bịt kín và được trát lại bằng xi măng khi bên thi công tiến hành xây dựng một căn nhà mới, tuy vậy Malone vẫn luôn tự hỏi điều gì đang nằm dưới đó. Phía cảnh sát, hài lòng về việc đập tan một băng đảng gồm lũ buôn lậu và lũ dị nhân, giao lại lũ người Kurd cho phía chính quyền Federal, những kẻ đã từng bị trục xuất do có liên quan tới dị giáo. Lại nói về con tàu hơi nước và các thuyền viên của nó, tất cả vẫn là một bí ẩn mặc cho phe thám tử đã sẵn sàng để chiến đấu với đám buôn lậu trên ấy. Malone nghĩ rằng những tên thám tử ấy chính là một minh chứng đáng buồn về việc thiếu hiểu biết với các sự kiện siêu nhiên cũng như phớt lờ gợi ý bị che giấu về nó; thực ra anh ấy cũng chỉ là một nhà phê bình của một tờ báo, một kẻ chỉ thấy được vài vết ung nhọt từ một giáo phái nhỏ xíu hình thành từ những nỗi kinh hoàng từ tận trái tim của vũ trụ. Malone quyết rằng mình sẽ nghỉ ngơi, giữ im lặng ở Chepachet, xoa dịu tâm trí của anh ta và cầu nguyện rằng có lẽ thời gian sẽ xóa nhòa đi mọi hồi ức kinh hoàng mà anh đã thấy trong thực tại thành một bức tranh hoặc khoảnh khắc bí ẩn xa xôi nào đó.
Robert Suydam nằm cạnh hôn thê của mình ở nghĩa trang Green Wood. Không một đám tang nào được tổ chức cho những phần còn lại của ông ta, còn những người họ hàng thì vui mừng vì sự quên lãng mà thực tại đã phủ lên tất cả mọi việc. Vị học giả có sự liên quan tới những nỗi kinh hoàng hoàng ở Red Hook, thực ra, chẳng có bằng chứng nào nói nên điều ấy; bởi cái chết của ông ta đã tới trước mọi bản án mà ông ta sẽ phải đối mặt. Cái kết của ông ta không được đề cập tới; còn người nhà Suydam thì hi vọng rằng hậu thế sẽ nhớ về ông ấy như một người đàn ông lịch thiệp với các công trình dân gian và bí thuật.
Còn về Red Hook -- nó vẫn luôn như thế. Suydam tới rồi đi, một cơn ác mộng hợp rồi lại tan, nhưng những linh hồn quỷ dữ tới từ bóng tối và lũ thú vật giữa các căn nhà đổ nát, cùng với tập hợp các băng đảng vẫn ở đó, rình mò qua ô cửa sổ nhập nhoạng ánh sáng và những khuôn mặt người xuất hiện rồi lại biến mất. Nỗi kinh hoàng già nua giống như một con Hydra có cả nghìn cái đầu, còn thứ tôn giáo thuộc về bóng tối đã bám rễ sâu hơn cả cái giếng của Democritus vào những sự báng bổ. Linh hồn của loài thú dữ thì đắc thắng và toàn hiện, quân đoàn vô hồn chi chít sẹo của Red Hook vẫn ca tụng, nguyền rủa và hú hét như đang truyền tin từ vực thẳm này tới vực thẳm khác, không ai biết chúng ở đâu và vào lúc nào, tiếp tục với những nghịch lý của sinh học mà có lẽ chúng sẽ chẳng bao giờ hiểu được. Red Hook vẫn có nhiều kẻ đến hơn là đi ở phía đất liền, nhưng ai mà biết được liệu lời đồn về những con kênh dưới lòng đất là nơi để vận chuyển rượu cùng thứ gì đó ít được đề cập hơn có là thật chăng.
Sàn nhảy nơi nhà thờ đá giờ đây trở thành một sàn nhảy đúng nghĩa. Lại có những khuôn mặt kỳ lạ xuất hiện ở đó mà người ta thấy qua ô cửa sổ. Phía cảnh sát một lần nữa lại tin rằng các hầm mộ bị lấp đầy, nay đã được đào xới trở lại nhưng họ chẳng có bằng chứng rõ ràng nào về việc đó. Chúng ta là ai khi phải đối đầu với một thứ chất độc có tuổi thọ còn dài hơn cả lịch sử nhân loại? Lũ khỉ vẫn nhảy nhót cùng nỗi kinh hoàng ở Châu Á đấy, còn tế bào ung thư thì vẫn đang ẩn nấp và lan truyền đằng sau những hàng gạch.
Cái ớn lạnh của Malone hẳn là có lý -- bởi vào một lần khác người sĩ quan ấy lại nghe thấy một mụ phù thủy đen đúa dạy cho đứa trẻ nhỏ vài lời thì thầm trong bóng tối. Anh ta lắng nghe, thầm nghĩ thật kì lạ khi bà ta cứ lặp đi lặp lại vài từ ngữ,
"Hỡi những người bạn và những kẻ đồng hành với bóng đêm, hỡi những kẻ hân hoan đắm mình bằng máu và tiếng sủa của bầy sói, hỡi những kẻ lang thang quanh các sắc thái giữa lòng nghĩa địa, hỡi những kẻ khao khát thịt tươi và đem nỗi kinh hoàng tới với phàm nhân , Gorgo, Mormo, mặt trăng thiên diện, xin hãy tận hưởng cuộc hiến tế của chúng tôi!"
Follow page của mình để đọc thêm về Lovecraft, phân tích, chú giải về cuộc đời và các mẩu truyện của ông nhé.