I. 11/9 VÀ SAU ĐÓ

BIN LADEN ĐÃ CHẮC CHẮN CHO RẰNG Hoa Kỳ đang suy yếu. Trong những năm trước ngày 11/9, ông thường nói về điểm yếu của Mỹ với những người ủng hộ mình, ví dụ như việc Mỹ rút quân khỏi Việt Nam vào những năm 1970, và rút khỏi Somalia hai thập niên sau đó, sau sự kiện Black Hawk Down [Diều hâu Đen Gãy Cánh: Vụ lực lượng Delta Mỹ bắt giữ 20 người Somali, một trực thăng Mỹ bị bắn hạ, và lực lượng giải cứu bị phục kích: ND] trong đó có 18 quân nhân Mỹ thiệt mạng. Bin Laden thích thú kể lại việc al-Qaeda đã tuồn các chiến binh vào Somalia vào năm 1993 để giúp huấn luyện các bộ tộc Somali chiến đấu với lực lượng Mỹ, đang đóng quân ở đó trong khuôn khổ sứ mệnh của Liên hiệp quốc nhằm cũng cấp lương thực cho những người dân Somali đang đói khát. Bin Laden hồ hỡi: “Các chàng trai của chúng ta đã bị sốc trước tinh thần xuống thấp của bọn lính Mỹ và họ nhận ra rằng lính Mỹ chỉ là một con hổ giấy”. Các môn đệ của ông háo hức đồng tình với vị thủ lĩnh mà họ yêu quý như một người cha.
Bin Laden đảm bảo với người của mình rằng dân Mỹ “yêu quý sự sống như chúng ta yêu quý cái chết” và sẽ sợ khiếp vía khi đặt chân lên Afghanistan. Hãy nhìn xem bin Laden và người của ông đã gây ra những gì cho Liên Xô ở Afghanistan! Và nước Mỹ cũng yếu đuối như Liên Xô cũ, bin Laden gật đầu nói với những học trò của mình. Những người trong vòng thân cận của ông nếu có bất kỳ nghi ngờ gì về cách phân tích này phần lớn đều giữ kín trong lòng.
Khi các kế hoạch vụ tấn công 11/9 đã bắt đầu định hình rõ ràng hơn, một số quan chức cấp cao của al-Qaeda bày tỏ lo ngại rằng các cuộc tấn công sắp tới có thể chọc giận thủ lĩnh Taliban Mullah Omar, người mà bin Laden, ít nhất trên danh nghĩa, đã tuyên thệ trung thành với y. Trong 5 năm mà bin Laden là vị khách danh dự của Taliba, Mullah Omar và các thủ lĩnh Taliban khác đã nói rõ ràng rằng Qaeda không thể sử dụng Afghanistan để tiến hành các cuộc chiến tự do chống lại Mỹ. Bin Laden nghĩ mình có thể ngăn ngừa cơn thịnh nộ gây ra bởi các cuộc tấn công vào nước Mỹ bằng cách nộp cho Taliban một cái đĩa trên đó đặt thủ cấp rất được Taliban thèm muốn: thủ cấp của Ahmad Shah Massoud, lãnh tụ nổi tiếng của lực lượng kháng chiến tàn dư chống Taliban ở Afghanistan. Đối với vụ hành thích Massoud, Laden đã tuyển dụng hai sát thủ al-Qaeda người Bỉ gốc Tunisia, họ sẽ cải trang thành phóng viên truyền hình muốn phỏng vấn vị thủ lĩnh du kích huyền thoại.
Vào mùa hè năm 2001, trong khi al-Qaeda chuẩn bị cho các sát thủ Massoud, các thủ lĩnh của nhóm này đang hoàn tất những bước cuối cùng cho kế hoạch tấn công ngoạn mục vào Bờ Đông nước Mỹ. Ramzi bin al-Shibh, kẻ chủ mưu ở Hamburg, đã gửi một tin nhắn cho bin Laden vào thứ năm, ngày 6 tháng 9, nói rằng các cuộc tấn công vào Washington và New York sẽ diễn ra vào thứ ba tuần sau. Và vào ngày 9 tháng 9, bin Laden nghe được tin vui rằng những sát thủ của mình  đã làm trọng thương Massoud, người mà ông ta từ lâu  luôn coi thường. Bây giờ sân khấu đã được chuẩn bị cho điều mà bin Laden tin rằng sẽ là chiến thắng vĩ đại nhất của mình: cuộc tấn công ngoạn mục vào đất nước  thù địch lớn nhất của Hồi giáo vì nó đã chống đỡ cho các chế độ độc tài và quân chủ vô thần ở Trung Đông và, tất nhiên, cả Israel. Với một cú giáng sấm sét   vào nước Mỹ, bin Laden sẽ khiến được nước Mỹ rút khỏi Trung Đông, và sau đó Israel cũng như các chế độ chuyên quyền Ả Rập sẽ sụp đổ và bị thay thế bởi các chế độ kiểu Taliban. Đây là niềm hy vọng và niềm tin mãnh liệt của bin Laden.
TỪ NGÀY TỔNG THỐNG George W. Bush nhậm chức, ngày 20 tháng 1 năm 2001, mỗi buổi sáng, sáu ngày một tuần, quan chức CIA Michael Morell thông báo cho tổng thống về những gì cộng đồng tình báo cho là những vấn đề an ninh quốc gia cấp bách nhất. Gầy như cây sậy và ở độ tuổi ngoài bốn mươi, Morell báo cáo bằng những đoạn văn ngắn gọn, có sức thuyết phục. Vào ngày 6 tháng 8, tám tháng sau khi Bush nhậm chức, Morell gặp tổng thống tại nhà nghỉ của ông ở Texas để nói với ông về đánh giá của CIA rằng bin Laden đã quyết tâm tấn công bên trong nước Mỹ. Buổi báo cáo này nhuốm màu u ám vì sự kiện Ahmed Ressam, một người Algeria có cảm tình với al-Qaeda, gần đây đã nhận tội là mình đã lên kế hoạch đánh bom tại Sân bay Quốc tế Los Angeles vào giữa tháng 12 năm 1999. Cuộc họp ngày 6 tháng 8 lưu ý rằng FBI đã tìm  được thông tin cho thấy có “sự chuẩn bị cho một vụ không tặc hoặc các kiểu tấn công khác.” Sau cuộc họp, Bush tiếp tục tận hưởng kỳ nghỉ tổng thống dài nhất trong ba thập niên.
Vào sáng ngày 11 tháng 9 năm 2001 tại Sarasota, Florida, Morell đã trình bày bản báo cáo tóm tắt hàng ngày cho Tổng thống như thường lệ. Chẳng có gì đáng nhớ trong đó cả. Cùng với cố vấn chính trị Karl Rove và thư ký báo chí Ari Fleischer, Morell lên đoàn xe của tổng thống để đến trường tiểu học địa phương nơi Bush dự định gặp một số học sinh. Trong chuyến đi, Fleischer hỏi Morell liệu ông ấy có đã nghe tin về việc một chiếc máy bay vừa đâm vào Trung tâm Thương mại Thế giới. Morell cho biết mình chưa nghe nói nhưng sẽ kiểm tra tin với Trung tâm Điều hành CIA. Các quan chức tại Trung tâm Điều hành đã xác nhận tin này và nhanh chóng phá tan nhận thức phổ biến: đó không phải là một chiếc máy bay nhỏ gặp tai nạn vì đã đi chệch hướng, mà là một máy bay phản lực thương mại lớn.
Tại trường tiểu học, nơi Bush đang đọc câu chuyện về một chú dê đáng yêu cho một nhóm học sinh lớp hai, thì trên TV xuất hiện tin tức chiếc máy bay phản lực thứ hai đã đâm vào Trung tâm Thương mại. Bush được nhóm cận vệ đẩy ra khỏi trường học để lên chiếc Không lực Một, cất cánh đến Căn cứ Không quân Barksdale gần Shreveport, Louisiana. Fleischer đã ghi chép cẩn thận vào ngày hôm đó, và lần đầu tiên anh ghi lại tên của bin Laden là vào lúc 10:41 sáng, khi Tham mưu trưởng Andy Card nói với Bush trên chiếc Air Force One, “Theo tôi, việc này có mùi của Osama bin Laden.” Khi đó, cả hai tòa tháp của Trung tâm Thương mại đã sụp đổ và thêm một chiếc máy bay bị không tặc đã lao vào Lầu Năm Góc, Bush sôi máu và ông tự thề với mình: “Chúng ta sẽ tìm ra kẻ đã làm việc này và đá vào mông chúng”.
CÙNG SÁNG NÀY, bin Laden nói với Ali al-Bahlul, một vệ sĩ kiêm chuyên gia truyền thông của mình, rằng việc xem tin tức ngày hôm nay là “rất quan trọng”. Bahlul háo hức làm theo mong muốn của ông chủ; bin Laden cai trị al-Qaeda giống như cách ông ta thống trị gia đình mình, không nghi ngờ gì với tư cách là một vị vua tuyệt đối. Vào ngày này, vị thủ lĩnh của al-Qaeda, như mọi khi, được bao quanh bởi những vệ sĩ đáng tin cậy nhất, chủ yếu là người Yemen và người Saudi. Giống như các thành viên khác của al-Qaeda, các vệ sĩ đã tuyên thệ theo nghi thức tôn giáo sẽ tuân phục bin Laden, hơn là cho tổ chức chiến đấu của ông ta. (Tương tự như vậy, những thành viên đảng Quốc xã đã thề trung thành với Adolf Hitler, hơn là vì chủ nghĩa Quốc xã.)
Bin Laden đã thành lập al-Qaeda vào năm 1988, và kể từ đó ông ngày càng củng cố được nhiều quyền lực hơn với tư cách là thủ lĩnh tuyệt đối, không thể nghi ngờ của nhóm. Quan điểm thông thường cho rằng Ayman al-Zawahiri, một bác sĩ người Ai Cập và là chỉ huy lâu năm của al-Qaeda, là “bộ não” của bin Laden. Nhưng trong việc thực hiện sự thay đổi chiến lược quan trọng nhất trong lịch sử của al-Qaeda – xác định Hoa Kỳ với tư cách là kẻ thù chính của nó, chứ không phải các chế độ ở Trung Đông – bin Laden gạt sang một bên sự tập trung đầy ám ảnh của Zawahiri vào việc lật đổ chính phủ Ai Cập. Bin Laden cũng giấu Zawahiri trong nhiều năm về hoạt động quan trọng nhất của al-Qaeda – lập kế hoạch cho vụ tấn công 11/9 – chỉ cho cấp phó của ông ta biết vào mùa hè năm 2001.
Đối với những người theo ông, bin Laden thực sự là một anh hùng, một người mà họ biết đã từ bỏ cuộc sống xa hoa với tư cách là con trai của một tỷ phú Ả Rập Saudi. Thay vào đó, ông chọn một cuộc sống đầy nguy hiểm và thiếu thốn để phục vụ cho lý tưởng thánh chiến, và về mặt cá nhân, ông ta vừa khiêm tốn đáng nể phục vừa sùng đạo sâu sắc. Các thành viên của al-Qaeda noi gương người đàn ông mà họ gọi là “Sheikl (Lãnh tụ tôn giáo)”, tuân theo mọi tuyên bố của ông ta và khi muốn phát biểu ý kiến họ đều xin phép trước. Những người theo ông yêu mến ông. Abu Jandal, một người Yemen là một trong những vệ sĩ của ông, mô tả lần gặp gỡ đầu tiên với bin Laden vào năm 1997 là “rất đẹp đẽ”. Một vệ sĩ khác của bin Laden mô tả ông chủ mình là “một người rất lôi cuốn, có thể thuyết phục mọi người chỉ bằng lời nói. Có thể nói ông đã ‘mê hoặc’ nhiều bạn nam thanh niên.”
Vì vậy, vào sáng ngày 11 tháng 9, đội vệ sĩ của bin Laden háo hức lên đường cùng người đàn ông mà họ coi là “cha” của mình, rời căn cứ chính của ông ta gần thành phố Kandahar phía nam để đến vùng núi Khost, phía đông Afghanistan. Bahlul đã lắp đặt một máy thu vệ tinh TV trên một chiếc xe buýt nhỏ thuộc đoàn xe của bin Laden, nhưng khi họ đến Khost, hắn thấy khó bắt được tín hiệu truyền hình nên bin Laden đã chuyển sóng sang đài BBC phát tiếng Ả Rập.
Bin Laden bảo những người đi theo , “Nếu anh ta [phát thanh viên] nói: ‘Chúng tôi vừa nhận được tin này …’ thì có nghĩa là anh em ta đã tấn công.” Vào khoảng 5h30 tối theo giờ địa phương, phát thanh viên BBC cho biết: “Tôi vừa nhận được tin này. Báo cáo từ Hoa Kỳ nói rằng một chiếc máy bay đã bị nổ tung khi đâm vào Trung tâm Thương mại Thế giới ở New York.” Bin Laden bảo với người của mình hãy “kiên nhẫn”. Ngay sau đó có tin về chiếc máy bay phản lực thứ hai đâm vào Tháp Nam của Trung tâm Thương mại. Các vệ sĩ của Bin Laden vỡ òa trong niềm vui sướng tột độ; thủ lĩnh của họ thực sự đang tiến hành một cuộc chiến tranh thần thánh vĩ đại chống lại bọn ngoại đạo!
Khoảng tám trăm dặm về phía nam, trong lòng siêu đô thị nhộn nhịp Karrachi của Pakistanl, một số phó tướng tin cẩn nhất của bin Laden cũng đang tụ tập để xem tin tức truyền hình về các cuộc tấn công. Họ là Khalid Sheikh Mohammed, chỉ huy béo tốt của chiến dịch 11/9; Ramzi bin al- Shibn, người Yemen cực kì sùng đạo là điều phối viên chủ chốt các cuộc tấn công; và Mustafa al-Hawsawi, người thủ quỹ Saudi  đã chuyển hàng chục ngàn đô la cho các tên không tặc để trả học phí cho những khóa học lái máy bay và sinh hoạt phí  ở Hoa Kỳ. Cùng xem TV với ba kiến ​​trúc sư của vụ 11/9 còn có một số “anh em” al-Qaeda khác. Khi tivi chiếu cảnh những chiếc máy bay bị cướp bay vào Trung tâm Thương mại, các anh em bắt đầu bật khóc vì sung sướng, phủ phục xuống đất và hét lên “Allah thật vĩ đại!” Bin al-Shibh khuyên họ, “Kiên nhẫn! Kiên nhẫn! Theo dõi tin tức! Sự việc vẫn chưa kết thúc!” Sau đó là cuộc tấn công vào Lầu Năm Góc và tin tức về chiếc máy bay thứ tư bị rơi ở Pennsylvania. Những chiến binh al-Qaeda lại ôm choàng nhau và lại òa khóc, lần này là dành nước mắt đau buồn cho những người anh em đã hy sinh trên những chiếc máy bay bị cướp.
Bin Laden tự tin rằng Hoa Kỳ sẽ chỉ đáp lại các cuộc tấn công vào New York và Washington bằng cách giáng trả tên lửa hành trình, như Mỹ đã làm ba năm trước đó, theo sau các cuộc tấn công của Qaeda vào hai đại sứ quán Mỹ ở Châu Phi vào năm 1998. Nhiều nhất, ông ta mong đợi loại không kích mà Hoa Kỳ và NATO đã sử dụng chống lại người Serb trong thời gian cuộc không chiến ở Kosovo năm 1999. Con hổ giấy có thể nhe ra răng nanh, nhưng nó không dám xông vào để giết.
TẠI WASHINGTON, tin tức nhanh chóng lan truyền rằng một tổ chức khủng bố của người Palestine, Mặt trận Dân chủ Giải phóng Palestine, đã nhận trách nhiệm về các vụ tấn công. Bush triệu tập Morell và hỏi, “Anh nghĩ sao về chuyện này?”
Morell trả lời: “DFLP (Mặt trận Dân chủ Giải phóng Palestine) có lịch sử khủng bố chống lại Israel, nhưng khả năng của họ còn hạn chế. Họ không có đủ nguồn lực và tầm để làm việc này.”
Đầu giờ chiều, Lực lượng Không lực Một khởi hành từ Louisiana đến Căn cứ Không quân Offutt gần Omaha, Nebraska, Bộ Chỉ huy của Căn cứ Chiến lược Hoa Kỳ, nơi kiểm soát tên lửa hạt nhân của Mỹ. Bush yêu cầu được gặp lại Morell và hỏi ý kiến ​​của ông về kẻ đứng sau vụ tấn công. “Tôi chưa có bất kỳ thông tin tình báo nào, vì vậy những gì tôi sắp nói là quan điểm cá nhân của tôi,” Morell nói. “Có hai quốc gia khủng bố có khả năng tiến hành một chiến dịch phức tạp như vậy – Iran và Iraq – nhưng cả hai đều không được gì nhiều và mất mọi thứ khi tấn công Hoa Kỳ.” Ông nói thêm, “Nhóm chịu trách nhiệm gần như chắc chắn là một tác nhân phi nhà nước, và tôi không nghi ngờ gì về dấu vết sẽ dẫn đến bin Laden và al-Qaeda.”
“Bao lâu chúng ta sẽ biết chắc chắn?” Bush hỏi.
Morell xem xét lại việc Hoa Kỳ đã mất bao lâu để xác định thủ phạm trong một số vụ tấn công khủng bố trước đó. “Chúng tôi biết đó là al-Qaeda chỉ trong vòng hai ngày kể từ vụ đánh bom vào đại sứ quán Mỹ ở châu Phi năm 1998, nhưng phải mất nhiều tháng trong trường hợp đánh bom tàu Cole. Điểm mấu chốt, thưa ngài, chúng ta có thể biết rất sớm hoặc có thể phải mất một thời gian,”  Morell kết luận.
Trên thực tế,  chỉ mất vài giờ. Khi Bush hạ cánh xuống Nebraska vào khoảng 3h30 chiều, lần đầu tiên ông nói chuyện với giám đốc CIA, George Tenet. Tenet nói với ông ta rằng các cuộc tấn công “có vẻ, có mùi và có vị giống bin Laden”, đặc biệt vì tên của hai cộng sự nổi tiếng của al-Qaeda, Nawaf al-Hamzi và Khalid al-Mihdhar, đã được tìm thấy trên danh sách hành khách của một trong các máy bay bị rơi. Trong nhiều tháng qua, có tới 60 nhân viên CIA đã biết rằng Hamzi và Mihdhar đang sống ở Hoa Kỳ, nhưng thật khó hiểu họ đã không thông báo cho FBI.
Trong vài ngày tới, Bush và nội các chiến tranh của ông bắt đầu kế hoạch lật đổ Taliban ở Afghanistan – khác thường ở chỗ nó chỉ dựa vào khoảng 400 lính Mũ Nồi Xanh, lực lượng Đặc Nhiệm và nhân viên CIA trên thực địa, kết hợp với hỏa lực ào ạt của Mỹ từ trên không. Và vào ngày 17 tháng 9, Bush đã ký một ủy quyền tuyệt mật để truy lùng và, nếu cần, tiêu diệt các thủ lĩnh của al-Qaeda, cho phép CIA nhiều thời gian để hoàn thành công việc. Một trong những luật sư hàng đầu của Cơ quan, John Rizzo, người đã gia nhập CIA vào thời kỳ đỉnh cao của Chiến tranh Lạnh và là người đã giúp soạn thảo dự luật ủy quyền, nói, “Theo kinh nghiệm của mình, tôi chưa bao giờ tham gia hoặc chưa từng thấy một ủy quyền của tổng thống nào có phạm vi sâu rộng và mang tính quyết liệt như vậy. Nó đơn giản là phi thường.” Cùng ngày Bush ký vào “lệnh tìm kiếm” này, ông đã nói chuyện với các phóng viên tại Lầu Năm Góc rằng: “Tôi đòi công lý. Và tôi nhớ có một tấm áp phích cũ ở miền Tây có nội dung ‘Truy nã, Chết hoặc Sống’.”
VÀO NGÀY 12 THÁNG 9, tại văn phòng của mình ở Islamabad, Jamal Ismail, phóng viên Đài truyền hình Abu Dhabi ở Pakistan, tiếp một người đưa tin  từ bin Laden, nói rằng, “Jamal, tôi đến vào tối qua rất vội vã từ Afghanistan.” Người đưa tin đọc một tuyên bố của bin Laden rằng, mặc dù không nhận trách nhiệm về vụ tấn công nhưng vẫn hết lòng tán thành: “Chúng tôi tin rằng những gì xảy ra ở Washington và những nơi khác chống lại người Mỹ là sự trừng phạt từ Thánh Allah toàn năng, và họ đều là những con người tốt đã làm việc này. Chúng tôi nhất trí với họ.” Ismail nhanh chóng đọc tin nhắn này trên kênh truyền hình Abu Dhabi.
Ismail, một nhà báo người Palestine hiểu biết  sống lâu năm ở Pakistan, từng nhiều lần tiếp xúc với bin Laden trong một thập niên rưỡi, từng làm phóng viên vào giữa những năm 1980 cho tạp chí Jihad (Thánh Chiến), một cơ quan được bin Laden tài trợ để quảng bá những chiến công của người Ả Rập khi đó đang chiến đấu chống Liên Xô. Ismail gần đây đã nối lại mối quan hệ với bin Laden khi anh phỏng vấn ông ta trong một bộ phim tài liệu được phát sóng trên Al Jazeera vào năm 1999. Ismail nghĩ rằng thông điệp từ bin Laden về vụ tấn công 11/9 có nghĩa là bin Laden có thể biết nhiều hơn việc ông công khai nói về những kẻ không tặc. “Osama không bao giờ khen ngợi ai không phải tín đồ Hồi giáo. Từ điều này tôi xác định ông ta biết được điều gì đó, và ông ta biết rõ về lai lịch của họ. . Họ có mối liên hệ,”  Ismail nói.
Chính quyền Bush nhanh chóng yêu cầu Taliban giao nộp bin Laden, điều mà các quan chức chính quyền Clinton cũng đã nhiều lần yêu cầu nhưng không có kết quả, trong những năm sau cuộc tấn công của al-Qaeda vào các đại sứ quán Mỹ ở Châu Phi năm 1998. Abu Walid al-Misri, một người Ai Cập sống ở Kandahar, người thân cận với cả al-Qaeda và Taliban, nhớ lại lời tuyên bố của Mullah Omar, “Tôi sẽ không giao nộp một người Hồi giáo cho một kẻ ngoại đạo.”
Mullah Omar giải thích với nội bộ Taliban, “Hồi giáo dạy rằng khi một người Hồi giáo xin một nơi ẩn náu, hãy cho y nơi ẩn náu và không bao giờ giao y cho kẻ thù. Và truyền thống Afghanistan của chúng ta dạy rằng, ngay cả khi kẻ thù của bạn xin một nơi trú ẩn, hãy tha thứ cho y và cho y nơi trú ẩn. Osama đã hỗ trợ cuộc thánh chiến ở Afghanistan, ông ấy đã ở bên chúng ta trong những ngày tồi tệ và tôi sẽ không giao nộp ông ấy cho bất cứ ai.”
Rahimullah Yusufzai, một trong những nhà báo hàng đầu của Pakistan, đã phỏng vấn Mullah Omar nhiều lần trực tiếp và qua điện thoại cả trước và sau ngày 11/9, thủ lĩnh Taliban đều kiên quyết về vấn đề giao nộp bin Laden cho người Mỹ, nói với Yusufzai, “Tôi không muốn đi vào lịch sử như một kẻ đã phản bội vị khách quý của mình. Tôi sẵn sàng hy sinh mạng sống của mình, chế độ của mình. Vì chúng tôi đã cho bin Laden nơi trú ẩn nên tôi không thể ném ông ta ra ngoài ngay bây giờ.”
Mullah Omar rất coi trọng sức mạnh của những giấc mơ để hướng dẫn y. Omar hỏi Yusufzai, “Anh đã đến Nhà Trắng chưa? Anh trai tôi mơ thấy Nhà Trắng chìm trong biển lửa. Tôi không biết giải thích điều này như thế nào.” Omar cũng tin rằng những lời đe dọa của Washington về những hậu quả nghiêm trọng nếu bin Laden không được giao nộp hầu hết chỉ là lời hù dọa ồn ào. Mullah Abdul Salam Zaeef, đại sứ của Taliban tại Pakistan, cho rằng Mullah Omar ngây thơ khi tin rằng Hoa Kỳ sẽ không tiến hành một chiến dịch quân sự ở Afghanistan: “Trong suy nghĩ của Mullah Omar, có ít hơn 10% khả năng Mỹ sẽ dùng đến bất cứ phương tiện gì ngoài các mối đe dọa suông.”  Zaeef không đồng ý và nói với Omar rằng “Mỹ chắc chắn sẽ tấn công Afghanistan.”
Tính cuồng tín hoang tưởng của Mullah Omar là hoàn toàn có thể đoán trước được. Khi lên nắm quyền, y tự phong cho mình là “Chỉ huy của Tín đồ Sùng đạo”, một danh hiệu tôn giáo hiếm khi được nhắc đến từ thế kỷ thứ bảy, cho thấy rằng y không chỉ là thủ lĩnh của Taliban mà còn của cả người Hồi giáo ở khắp mọi nơi. Để củng cố địa vị của mình với tư cách là một nhà lãnh đạo Hồi giáo mang tính lịch sử thế giới, vào năm 1996, Mullah Omar đã quấn mình theo nghĩa đen và nghĩa bóng trong “Tấm Áo choàng của Nhà Tiên tri”, một thánh tích tôn giáo được cho là được Nhà Tiên tri Mohammed mặc, đã được lưu giữ ở Kandahar trong nhiều thế kỷ và gần như chưa từng được trưng bày trước công chúng. Lấy bộ quần áo ra khỏi kho, Omar trèo lên nóc một tòa nhà và khoác chiếc áo choàng lên người trước đám đông hàng trăm người Taliban đang cổ vũ.
Thủ lĩnh Taliban hầu như không có trình độ học vấn và nhất định là người tỉnh lẻ; trong 5 năm kiểm soát Afghanistan, y hiếm khi đến thăm Kabul, thủ đô của chính mình, coi đây là Sodom và Gomorrah [hai thành phố trong Kinh Thánh được cho là bại hoại và cuối cùng bị Chúa Trời giáng họa hủy diệt]. Ngoài Đài phát thanh Sharia của Taliban, không có báo chí Afghanistan nào để nói đến, và sự hiểu biết của Mullah Omar về thế giới bên ngoài không tồn tại, một lập trường mà y đã nuôi dưỡng bằng cách kiên trì tránh gặp những người không theo đạo Hồi. Trong một dịp hiếm hoi khi y gặp một nhóm nhà ngoại giao Trung Quốc, họ đã tặng y một bức tượng thú nhỏ làm quà. Thủ lĩnh Taliban phản ứng như thể họ đã trao cho y “một cục than nóng đỏ”, ác cảm cực đoan của y đối với hình tượng các sinh vật sống thật là mạnh mẽ . Nói tóm lại, Mullah Omar là một kẻ cuồng tín ngu ngốc với ảo tưởng lớn về sự vĩ đại là mình đang thực hiện một nhiệm vụ từ Allah. Triển vọng thương thảo với những kẻ như vậy là không mấy khích lệ.
Màn mở đầu cho cách thức Mullah Omar sẽ xử lý vấn đề bin Laden là cách y đã giải quyết vấn đề về các tượng Phật vĩ đại ở Bamiyan vài tháng trước đó. Thấp thoáng trên thung lũng Bamiyan miền trung Afghanistan phủ đầy tuyết trong hơn 1.500 năm, hai tượng Phật khổng lồ được tạc từ vách đá sa thạch, tượng lớn hơn cao 180 bộ so với thung lũng, cao bằng một tòa nhà mười lăm tầng, trong khi tượng Phật nhỏ hơn cao khoảng mười hai tầng. Cặp tượng Phật là điểm thu hút khách du lịch nổi tiếng nhất của Afghanistan. Chúng đã sống sót trước đám quân Mông của Thành Cát Tư Hãn và mọi làn sóng xâm lược kể từ đó. Vào tháng 5 năm 2001, bị lung lạc  trước sự phản đối của al-Qaeda đối với bất kỳ hình tượng miêu tả nhân dạng  nào, Taliban tuyên bố rằng họ có kế hoạch phá hủy tượng Phật bằng cách sử dụng chất nổ.
Bức tượng Phật bị  Taliban thổi bay bằng rocket và thuốc nổ
Bức tượng Phật bị Taliban thổi bay bằng rocket và thuốc nổ
Nhiều quốc gia trên thế giới, bao gồm cả một số quốc gia Hồi giáo, đã khẩn khoản xin Taliban đừng xúc tiến hành động phá hoại công trình văn hóa hoành tráng này. Tất cả những lời cầu xin của họ dường như khiến Omar càng trở nên quyết tâm làm nổ tung những bức tượng hơn. Y nói với một phái đoàn quan chức Pakistan đến thăm rằng qua nhiều thế kỷ lượng mưa đã tạo thành những lỗ hổng lớn dưới chân các bức tượng, đó là ý Chúa muốn phán: “Đây là nơi các ngươi nên đặt thuốc nổ để hủy diệt các thần tượng”.
Bản thân Bin Laden đã bay đến Bamiyan từ Kandahar bằng trực thăng và dành nửa ngày để giúp phá hủy các bức tượng. Ông và một cận vệ đã dậm đế giày lên đầu các tượng Phật – một cách thể hiện của sự bất kính lớn lao trong thế giới Ả Rập. Trong thời gian bin Laden ở Bamiyan, Taliban đang phá hủy các bức tượng giữa chừng, phóng tên lửa vào một trong các tượng Phật, vì chất nổ chưa phá hủy hoàn toàn bức tượng. Sau đó, Bin Laden đã viết một lá thư cho Mullah Omar chúc mừng y về “thành tich” hủy diệt các tượng Phật, đồng thời nói thêm: “Tôi cầu nguyện với Chúa, sau khi đã ban cho bạn thành công trong việc tiêu diệt các vị thần giả, câm điếc đã chết [các tượng Phật Bamiyan], Ngài sẽ ban cho bạn thành công trong việc tiêu diệt các vị thần giả đang sống [chẳng hạn như] Liên Hiệp Quốc.”
Một tuần sau ngày 11/9, Mullah Omar đã triệu tập hàng trăm giáo sĩ Afghanistan ở Kabul để yêu cầu họ cân nhắc xem phải làm gì với bin Laden. Mullah Omar không đích thân tham dự buổi triệu tập, nhưng trong một thông điệp gửi tới đại hội, y nói rằng nếu Hoa Kỳ có bằng chứng về tội lỗi của bin Laden trong vụ tấn công 11/9, thì bằng chứng đó nên được giao cho Taliban và số phận của ông ta sẽ được quyết định bởi một nhóm học giả tôn giáo người Afghanistan. Vào cuối đại hội kéo dài hai ngày, các giáo sĩ tập hợp đã kêu gọi bin Laden tự nguyện rời khỏi Afghanistan để đất nước có thể tránh được chiến tranh. Tất nhiên, Bin Laden không tán thành lời yêu cầu này.
Khi đại hội các giáo sĩ đã lắng xuống ở Kabul, các quan chức Mỹ đã có được bước đột phá đầu tiên trong cuộc săn lùng bin Laden, cách thủ đô Sana’a của Yemen 2.000 dặm về phía tây nam Afghanistan. Vào ngày 17 tháng 9, Đặc vụ FBI Ali Soufan và Robert McFadden, một điều tra viên của Cơ quan Điều tra Hình sự Hải quân, bắt đầu thẩm vấn Abu Jandal, người từng là chỉ huy đám vệ sĩ của bin Laden trong nhiều năm. Abu Jandal, tên thật là Nasser Ahmed Naser al-Bahri, đã bị giam trong một nhà tù ở Yemen từ năm 2000. Hai nhà điều tra người Mỹ, cả hai đều nói tiếng Ả Rập và có kinh nghiệm đáng kể trong việc điều tra al-Qaeda, sử dụng cách tiếp cận “thẩm vấn viên am hiểu” tiêu chuẩn, không mang tính cưỡng chế, trong đó họ giả vờ biết nhiều hơn những gì họ thực sự biết.
Các tài liệu 302 của FBI, bản tóm tắt chính thức các cuộc thẩm vấn này, tiết lộ rằng Abu Jandal đã tiết lộ rất nhiều thông tin tình báo đặc biệt có giá trị đối với các nhà điều tra vì nó chủ yếu liên quan đến thời gian sau năm 1996 khi bin Laden và những người theo ông chuyển đến Afghanistan, một giai đoạn trong lịch sử của al-Qaeda lúc đó được biết rất ít. Soufan kể lại tên vệ sĩ đã “gọi tên hàng chục, hàng chục người” trong tổ chức. Abu Jandal giải thích về cơ cấu điều hành của al-Qaeda, tên và nhiệm vụ của từng thủ lĩnh, điều kiện cần thiết để trở thành thành viên của nhóm, chế độ trong các trại huấn luyện của tổ chức này, vị trí các nhà khách của tổ chức này ở Kabul,  và cách thức liên lạc vô tuyến được mã hóa của tổ chức này. Hắn chỉ ra được 8 trong số những tên không tặc vụ 11/9 từ các bức ảnh và kể tên hàng chục thành viên thuộc đội an ninh của bin Laden và tiết lộ rằng họ được trang bị tên lửa SAM-7, súng máy PK của Nga và súng phóng lựu. Hắn  giải thích rằng thủ lĩnh của al-Qaeda thường đi cùng một nhóm khoảng chục vệ sĩ trên một đoàn xe gồm ba chiếc bán tải Toyota Hilux, mỗi chiếc chứa tối đa năm vệ sĩ có vũ trang. Và hắn  đã cung cấp một báo cáo dài bảy trang đầy chi tiết về các loại súng máy, súng cối, mìn, súng bắn tỉa, tên lửa đất đối không và các cơ sở radar mà al-Qaeda và Taliban sở hữu.
Điều quan trọng là Abu Jandal nói với những thẩm vấn viên rằng tên lửa phòng không Stinger hiệu quả cao của Mỹ đã rơi vào tay al-Qaeda và Taliban – di sản của cuộc chiến tranh Afghanistan chống lại Liên Xô – thường xuyên thiếu pin, một thông tin tình báo quan trọng cho các nhà hoạch định quân sự Hoa Kỳ khi họ lên kế hoạch xâm lược Afghanistan.
TRONG NHIỀU TUẦN SAU ĐÓ, khi chính quyền Bush lên kế hoạch ứng phó với vụ tấn công 11/9, CIA đã bí mật làm việc để mở rộng những rạn nứt hiện có giữa Taliban và al-Qaeda. Cơ quan này biết rõ rằng một số thủ lĩnh Taliban từ lâu đã chán ngấy những trò hề của bin Laden trên sân khấu thế giới. Robert Grenier, trưởng trạm CIA ở Pakistan, có thông tin tình báo rằng nhân vật số hai của Taliban, Mullah Akhtar Mohammad Osmani, đặc biệt không phải là người hâm mộ bin Laden. “Chúng tôi biết người Ả Rập phẫn nộ sâu sắc như thế nào. Người Afghanistan biết khá rõ, vì chính bản thân họ là những kẻ thao túng vĩ đại, về mức độ mà bin Laden, thông qua việc sử dụng các khoản quyên góp có chọn lọc, đã cố gắng thao túng chúng để xây dựng lực lượng trung thành của mình trong Taliban,”  Grenier nói.
Vào cuối tháng 9, Grenier tới Pakistan tỉnh Balochistan, một vùng sa mạc thưa thớt dân cư có diện tích bằng nước Đức, để  gặp gỡ  bí mật với Mullah Osmani. Chính Mullah Omar đã chấp thuận cuộc gặp giữa nhân vật số hai của mình và nhân viên CIA. Trong cuộc họp tại khách sạn năm sao Serena ở Quetta, thủ đô Baloch, Mullah Osmani đến cùng với một đội vệ sĩ có vũ khí vắt trên băng đan. Grenier không phải là một sĩ quan điều hành CIA khuôn mẫu, có xu hướng thu hút hơn người, ông biết kiềm chế,  ăn mặc chỉn chu và thái độ chín chắn. Nhưng lời đề nghị của ông với Mullah Osmani là một lời đề nghị táo bạo. Grenier nói với thủ lĩnh Taliban: “Người Mỹ đang đến. Ông cần phải làm gì đó để tránh được viên đạn này”.
Mullah Osmani ngạc nhiên nói: “Tôi đồng ý. Chúng ta phải làm gì đó. Ý kiến của ông thế nào?”
Grenier đề nghị một thỏa thuận với Mullah Osmani – các lực lượng Hoa Kỳ sẽ bí mật bắt giữ bin Laden trong khi Taliban ngoảnh mặt làm ngơ  – đảm bảo với ông ta, “Mọi việc không thể đơn giản hơn nữa. Ông chỉ cần cung cấp cho chúng tôi những gì chúng tôi cần để làm điều đó. Tránh sang một bên; hắn ta biến mất. Ông có thể khẳng định mình hoàn toàn không biết gì hết.”
Mullah Osmani ghi chép cẩn thận và nói: “Tôi sẽ quay lại và thảo luận vấn đề này với Mullah Omar.”
Grenier gặp lại Mullah Osmani ở Quetta vào ngày 2 tháng 10 và đưa ra cho ông ta một đề xuất thậm chí còn cấp tiến hơn: CIA sẽ hỗ trợ thực hiện một cuộc đảo chính chống lại Mullah Omar, với điều kiện trao đổi là bin Laden sẽ được giao nộp sau   khi thủ lĩnh Taliban bị lật đổ. Grenier đề nghị Mullah Osmani bắt giữ Mullah Omar, cắt đứt khả năng liên lạc của y, nắm quyền kiểm soát các đài phát thanh và ra thông cáo với nội dung: “Chúng tôi đang thực hiện hành động cần thiết để cứu lấy phong trào Taliban vì những người Ả Rập đã không thực hiện nghĩa vụ của mình với tư cách là những vị khách tử tế và đã gây ra bạo lực. Những khách Ả Rập không còn được chào đón và phải rời khỏi đất nước ngay lập tức.”
Mullah Osmani lắng nghe tất cả những điều này và nói: “Toàn bộ ý tưởng này rất thú vị. Tôi sẽ suy nghĩ về nó. Hãy thiết lập liên lạc để chúng ta có thể nói chuyện với nhau.” Ông ta có vẻ phấn chấn trước cuộc thảo luận và ngồi xuống dùng bữa trưa thịnh soạn với viên sĩ quan CIA. Tuy nhiên, cuối cùng Mullah Osmani đã không đi theo ý tưởng đảo chính. Grenier nghĩ có lẽ Osmani chưa dám coi mình là thủ lĩnh toàn diện của Taliban.
Cùng lúc đó, bin Laden di chuyển qua lại giữa trụ sở của mình ở Kandahar và các nhà nghỉ của al-Qaeda ở Kabul. Khi biết rõ rằng Hoa Kỳ đã sẵn sàng tấn công Afghanistan, bin Laden đã viết thư cho Mullah Omar vào ngày 3 tháng 10 để cảnh báo y về một cuộc khảo sát gần đây cho thấy bảy trong số mười người Mỹ đang gặp vấn đề về tâm lý sau vụ tấn công 11/9. Trong thư, bin Laden khẳng định rằng một cuộc tấn công của Mỹ vào Afghanistan sẽ bắt đầu tiến trình tự hủy diệt của Hoa Kỳ, gây ra “gánh nặng kinh tế lâu dài sẽ buộc Mỹ phải dùng đến lựa chọn duy nhất của Liên Xô cũ:  rút lui khỏi Afghanistan, tan rã, và co cụm lại.”
VÀO NGÀY 7 THÁNG 10, khi Lực lượng Không quân Hoa Kỳ bắt đầu ném bom các vị trí của Taliban, bin Laden đang ở Kandahar để gặp Mullah Mansour, một quan chức hàng đầu của Taliban. Bin Laden và đoàn tùy tùng nhanh chóng rút lui tới Kabul, ắt hẳn tính toán  ở đó sẽ an toàn hơn vì có ít mục tiêu chiến lược của Taliban hơn và dân số đông hơn. Cùng ngày hôm đó, thủ lĩnh của al-Qaeda bất ngờ xuất hiện trong đoạn băng video được chiếu khắp thế giới. Mặc một chiếc áo khoác ngụy trang với một khẩu súng tiểu liên chống bên hông, bin Laden, trong phát biểu công khai đầu tiên kể từ vụ 11/9, nói rằng các cuộc tấn công vào nước Mỹ là để trả thù cho sự sỉ nhục lâu dài mà phương Tây gây ra cho thế giới Hồi giáo.
“Nước Mỹ đó, đã bị Chúa đánh vào một trong những điểm yếu nhất của nó,” bin Laden nói. “Những tòa nhà vĩ đại nhất của nó đã bị phá hủy, cảm tạ Chúa vì điều đó. Nước Mỹ đó, khiếp sợ  từ bắc tới nam, từ tây sang đông. Cảm tạ Chúa vì điều đó. Những gì nước Mỹ đang nếm trải bây giờ chỉ là thứ gì đó không đáng kể so với những gì chúng tôi đã nếm trải trong nhiều năm. Quốc gia của chúng tôi [thế giới Hồi giáo] đã phải chịu đựng sự sỉ nhục và sự suy thoái này trong hơn 80 năm.”
Bất chấp những nhận xét tán thành của mình, lập trường ban đầu của bin Laden là phủ nhận hoàn toàn vai trò của mình trong các cuộc tấn công. Ví dụ, vào cuối tháng 9, thủ lĩnh của al-Qaeda đã nói với một tờ báo Pakistan: “Với tư cách là một tín đồ Hồi giáo, tôi cố gắng hết sức để tránh nói dối. Tôi không biết gì về những cuộc tấn công này.” Sự thật là, bin Laden đang ở trong một tình thế khó khăn: nếu ông ta thừa nhận vai trò của mình trong các cuộc tấn công, lời biện hộ của Taliban cho rằng không có bằng chứng nào cho thấy ông ta có liên quan sẽ bị đưa ra tranh luận, và Mullah Omar sẽ không có nhiều lựa chọn ngoài việc giao nộp ông cho Hoa Kỳ. Mặt khác, bản ngã của bin Laden muốn bản thân đón nhận công lao của điều mà ông coi là thành tích vĩ đại nhất của mình, nên một khi mà Hoa Kỳ bắt đầu ném bom các mục tiêu ở Taliban, ông khẳng định nhiều hơn về quyền sở hữu các vụ tấn công 11/9.
Tayseer Allouni của đài truyền hình Al Jazeera là một trong những phóng viên quốc tế duy nhất được Taliban cho phép làm việc ở Afghanistan trong những năm trước vụ 11/9. Bin Laden đã ngồi lại với Allouni trong một cuộc phỏng vấn dài vào ngày 21 tháng 10. Vì những lý do mà Al Jazeera không bao giờ giải thích một cách thuyết phục, mạng lưới đã không phát sóng cuộc phỏng vấn này trong một năm. Có lúc Al Jazeera giải thích rằng quyết định không phát sóng cuộc phỏng vấn là vì nó không “có giá trị đưa tin”, một lời giải thích khôi hài. Vì đây là cuộc phỏng vấn truyền hình duy nhất sau ngày 11/9 của ông ta nên sẽ là tin tức cho dù bin Laden chỉ ngồi đó đọc danh bạ điện thoại. Có vẻ như hoàng gia Qatar, chủ sở hữu đài Al Jazeera, đã nhượng bộ trước áp lực của chính quyền Bush không phát sóng cuộc phỏng vấn, vào thời điểm các quan chức Bush cũng đang gây áp lực lên các đài truyền hình Mỹ không được phát sóng “tuyên truyền” về bin Laden.
Trên thực tế, cuộc phỏng vấn của Al Jazeera vừa có ảnh hưởng rộng vừa đáng đưa tin, điều này trở nên rõ ràng ba tháng sau đó, khi CNN lấy được và phát sóng nó mà không có sự cho phép của Al Jazeera. Trong cuộc phỏng vấn, bin Laden tỏ ra thoải mái và lần đầu tiên công khai, ông ta liên kết rõ ràng mình với vụ tấn công 11/9. Allouni hỏi ông ta, “Mỹ tuyên bố rằng họ có bằng chứng cho thấy ông đứng sau những gì đã xảy ra ở New York và Washington. Câu trả lời của ông là gì?” Bin Laden trả lời: “Nếu việc xúi giục mọi người làm điều đó là khủng bố, và nếu giết những kẻ đang giết con trai chúng tôi là khủng bố, thì hãy để lịch sử phán xét rằng chúng tôi là những kẻ khủng bố… Chúng tôi thực hành chủ nghĩa khủng bố tốt đẹp.”
Allouni tiếp theo bằng một câu hỏi quan trọng: “Còn việc giết hại thường dân vô tội thì sao?” Bin Laden phản bác: “Những người mà Chúa đã hỗ trợ [vào ngày 11 tháng 9] không có ý định giết trẻ sơ sinh; họ có ý định tiêu diệt cường quốc quân sự mạnh nhất thế giới, tấn công Lầu Năm Góc… [Trung tâm Thương mại Thế giới] không phải là một trường học dành cho trẻ em.” Bin Laden hả hê khi kể lại với phóng viên Al Jazeera về hậu quả kinh tế to lớn của các vụ tấn công: Cổ phiếu Phố Wall mất 16% giá trị, các hãng hàng không và công ty vận tải hàng không sa thải 170.000 nhân viên và chuỗi khách sạn Intercontinental đã sa thải 20.000 công nhân.
Trong cuộc gặp với một cảm tình viên hâm mộ người Ả Rập Saudi vài tuần sau vụ 11/9 được cơ quan truyền thông của al-Qaeda quay phim, bin Laden đã cho thấy rằng mình hiểu rõ giá trị tuyên truyền của các cuộc tấn công khi ông giải thích rằng những kẻ không tặc “đã đưa ra bằng hành động, tại New York và Washington, những bài phát biểu làm lu mờ tất cả các bài phát biểu khác được thực hiện ở mọi nơi khác trên thế giới. Những bài phát biểu được cả người Ả Rập và người không phải Ả Rập đều thấu hiểu – thậm chí cả người Trung Quốc.” Ông nói thêm rằng vụ 11/9 thậm chí dẫn đến những cuộc cải đạo chưa từng có sang Hồi giáo ở các nước như Hà Lan.
Lúc này bin Laden đang bước vào vương quốc huyền thoại. Đối với những người ủng hộ ông, ông là “Tiểu vương thánh chiến” cao quý, hay Ông hoàng Thánh chiến – sự tôn kính mà ông không hề thoái thác. Bắt chước một cách có ý thức Nhà tiên tri Mohammed, người đầu tiên nhận được những mặc khải về Kinh Koran trong một hang động, bin Laden đã thực hiện một số tuyên bố ban đầu được ghi hình từ các hang động và vùng núi ở Afghanistan. Các cuộc biểu tình ủng hộ bin Laden đã thu hút hàng chục ngàn người ở Pakistan và một cuộc biểu tình rầm rộ với chân dung của ông ta có thể được tìm thấy trên áo phông trên khắp thế giới Hồi giáo. Đối với những người gièm pha – và trong số đó có không ít người Hồi giáo – bin Laden là một kẻ độc ác đã ra lệnh giết hại bừa bãi hàng nghìn thường dân ở thành phố mà nhiều người coi là thủ đô của thế giới. Nhưng dù bạn ngưỡng mộ hay ghét bỏ ông, có rất ít tranh cãi cho rằng ông đã trở thành một trong số ít những cá nhân ở thời hiện đại đã làm thay đổi căn cơ hướng đi của lịch sử.
HAMID MIR, biên tập viên tờ báo Ausaf bằng tiếng Urdu hậu thuẫn Taliban, là một lựa chọn tự nhiên để tiến hành một cuộc phỏng vấn báo chí duy nhất cho bin Laden sau ngày 11/9. Vào ngày 6 tháng 11, Mir đã được dẫn từ văn phòng của ông ở Islamabad để gặp mặt bin Laden ở Kabul. Trên đường đi, ông bị bịt mắt và cuộn trong một tấm thảm chở trên một xe tải, đến một căn nhà an toàn của Qaeda vào sáng ngày 8 tháng 11. Mir, người trước đây đã hoài nghi việc  bin Laden là người đứng sau vụ 11/9, bắt đầu thay đổi suy nghĩ của mình khi ông nhìn thấy những bức ảnh của Mohammed Atta, người cầm đầu nhóm không tặc , trong ngôi nhà nơi cuộc phỏng vấn diễn ra
Dường như không biết chỉ còn bốn ngày nữa là Kabul sẽ thất thủ, bin Laden rất phấn khởi trong cuộc gặp, thưởng thức bữa sáng thịnh soạn gồm thịt và ô liu. Trùm khủng bố người Ả Rập Saudi đã thừa nhận mọi chuyện một cách riêng tư, vói tay tắt máy ghi âm của Mir và nói: “Đúng, tôi đã làm việc đó. Được rồi. Giờ hãy bật máy ghi âm của bạn.” Mir bật lại máy ghi âm và bin Laden nói: “Không, tôi không chịu trách nhiệm.” Khi Mir hỏi làm thế nào ông có thể biện minh cho việc giết hại nhiều thường dân như vậy, bin Laden trả lời: “Mỹ và các đồng minh của họ đang tàn sát chúng ta  ở Palestine, Chechnya, Kashmir và Iraq. Người Hồi giáo có quyền tấn công nước Mỹ để trả thù.”
Mir yêu cầu bin Laden bình luận về các báo cáo cho rằng ông đã cố gắng có được vũ khí hạt nhân và hóa học. Thủ lĩnh của Al-Qaeda trả lời: “Tôi muốn tuyên bố rằng nếu Mỹ sử dụng vũ khí hóa học hoặc hạt nhân chống lại chúng tôi thì chúng tôi có thể đáp trả bằng vũ khí hóa học và hạt nhân. Chúng tôi có vũ khí để ngăn chặn.” Mir tiếp lời: “Ông lấy những vũ khí này từ đâu?” Bin Laden bẽn lẽn trả lời: “Hãy chuyển sang câu hỏi tiếp theo.”
Sau khi cuộc phỏng vấn kết thúc, Mir dùng trà cùng phó tướng của bin Laden, Bác sĩ Ayman al-Zawahiri [người bị một máy bay không người lái của CIA giết chết ngày 31/7/2022 tại một ngôi nhà lân cận Kabul: Wikimedia.] Mir nói với Zawahiri: “Thật khó để tin rằng các ông có vũ khí hạt nhân. “Này Hamid Mir, điều đó không khó đâu,” Zawahiri trả lời. “Nếu bạn có ba mươi triệu đô, bạn có thể có những loại bom vali hạt nhân này từ chợ đen ở Trung Á [ở Liên Xô cũ].”
Tuyên bố này hoàn toàn vô lý. Al-Qaeda chưa bao giờ sở hữu bất cứ thứ gì gần giống với vũ khí hạt nhân, và thị trường chợ đen được cho là “bom vali hạt nhân” của Liên Xô tồn tại ở Hollywood, chứ không phải trong thực tế. Vì vậy, mục đích của tuyên bố là gì? Có vẻ như đây là một nỗ lực vụng về thuộc chiến tranh tâm lý – một nỗ lực nhằm ngăn cản chính quyền Bush ngừng tấn công Afghanistan. Đặc biệt, Zawahiri nhận thức rõ rằng cơ quan an ninh quốc gia Mỹ lo lắng về việc những kẻ khủng bố sở hữu vũ khí hủy diệt hàng loạt. Quả thực, hai năm trước đó, Zawahiri đã phê chuẩn việc thành lập chương trình vũ khí hóa học và sinh học nghiệp dư của al-Qaeda nhưng được tài trợ kém, chính vì Hoa Kỳ có vẻ quá lo lắng về những vũ khí đó.
Cùng lúc Mir đang phỏng vấn các thủ lĩnh của al-Qaeda, một người ngoài cuộc khác đã được phép gặp các thành viên cao cấp  của al-Qaeda: Bác sĩ Amer Aziz, một bác sĩ phẫu thuật nổi tiếng người Pakistan. Bác sĩ Aziz, một người có cảm tình với Taliban, người đã điều trị vết thương ở lưng cho bin Laden vào năm 1999, đã được triệu tập đến Kabul vào đầu tháng 11 năm 2001 để điều trị cho Mohammed Atef, một cựu cảnh sát Ai Cập giữ chức chỉ huy quân sự của al-Qaeda. Trong khi kiểm tra Atef, Bác sĩ Aziz lại gặp bin Laden. Trong nhiều năm đã có báo cáo cho rằng thủ lĩnh al-Qaeda bị bệnh thận, nhưng bác sĩ Aziz xác nhận những báo cáo đó là sai sự thật: “Ông ấy có sức khỏe rất tốt. Ông ấy đi lại được. Ông ấy khỏe mạnh. Tôi không thấy bất kỳ bằng chứng nào về việc chạy thận.”
KHI CHIẾN DỊCH NÉM BOM CỦA  Mỹ ngày càng tăng cường và Lực lượng đặc nhiệm của Mỹ bắt đầu đến với số lượng nhỏ ở miền bắc Afghanistan, bin Laden phải bắt đầu thực hiện các kế hoạch dự phòng nghiêm túc cho khả năng Taliban và bộ binh al-Qaeda của ông sẽ sớm phải tháo chạy. Đó là một thứ kế hoạch mà ông đã bỏ qua khi ra lệnh thực hiện vụ tấn công 11/9. Vào giữa tháng 10, ông gặp Jalaluddin Haqqani, được cho là chỉ huy quân sự hiệu quả nhất của Taliban, người mà bin Laden đã biết từ những ngày đầu của cuộc thánh chiến chống lại Liên Xô. Họ cùng nhau thảo luận về khả năng tiến hành một cuộc chiến tranh du kích lâu dài chống lại những người Mỹ vô đạo, như họ đã từng làm với Liên Xô. Haqqani tin chắc chắn rằng người Mỹ là “loại người ưa tiện nghi”  về lâu dài sẽ bị đánh bại. Cùng lúc đó, một lãnh chúa khác trong cuộc chiến chống Liên Xô, Yunis Khalis, đã mời bin Laden di chuyển vào lãnh thổ của mình xung quanh Jalalabad ở miền đông Afghanistan, khu vực mà bin Laden đã từ lâu duy trì nơi nghĩ dưỡng ở Tora Bora của mình.
Cùng ngày với cuộc phỏng vấn của Mir, bin Laden đã tham dự buổi lễ tưởng niệm thủ lĩnh phiến quân người Uzbekistan vừa bị giết trong một cuộc không kích của Mỹ. Ngày hôm sau, thành phố Mazar-e-Sharif của Uzbekistan, thành phố lớn nhất ở miền bắc Afghanistan, rơi vào tay quân đội Liên minh phương Bắc (lực lượng kháng chiến chống chế độ Taliban) và một nhóm nhỏ Lực lượng Đặc nhiệm Hoa Kỳ. 24 giờ sau, cố vấn an ninh của bin Laden, Tiến sĩ Amin ul-Haq, gặp các trưởng lão bộ lạc ở khu vực xung quanh Jalalabad và đưa cho mỗi người 10.000 USD và một con ngựa, đổi lại các trưởng lão đồng ý cung cấp nơi ẩn náu cho các thành viên của al-Qaeda sẽ sớm tràn về Jalalabad, gần biên giới với Pakistan.
Ngày 12 tháng 11, Kabul cũng rơi vào tay lực lượng Liên minh phương Bắc. Ngay phía trước họ, bin Laden và bọn người theo ông ta vội vã từ Kabul đi xuống con đường dốc hẹp quanh co để đến Jalalabad.
Vài ngày sau, Mohammed Atef bị giết trong một cuộc không kích bằng máy bay không người lái Predator của Mỹ. Atef không chỉ là chỉ huy quân sự của al-Qaeda mà còn là giám đốc điều hành của bin Laden, làm việc suốt ngày đêm để quản lý nhân sự và hoạt động của al-Qaeda. Y là cộng tác viên thân cận nhất của bin Laden trong al-Qaeda kể từ khi nhóm này được thành lập vào năm 1988. Một thành viên người Ả Rập Saudi của al-Qaeda kể lại rằng cái chết của Atef “làm chúng tôi bị sốc sâu sắc, vì đây là ứng cử viên kế nhiệm bin Laden.”
Lo sợ cho sự an toàn của họ, Muataz, con rể của bin Laden, đã sắp xếp để ba người vợ của bin Laden và một số con nhỏ của họ rời Kandahar và vượt biên sang Pakistan.
Hai tháng sau ngày 11/9, bin Laden mất đi người chỉ huy quân sự lâu năm của mình, phần lớn gia đình ông ta phải chạy trốn để sống lưu vong, và chế độ đã cung cấp nơi ẩn náu cho ông ta đang hấp hối. Thay vì chọc thúc Hoa Kỳ phải rời khỏi thế giới Ả Rập, giờ đây ông ta đang phải đối mặt với một chiến dịch ném bom ác liệt và tới tấp của Mỹ, một Liên minh phương Bắc hùng mạnh trở lại, liên kết với các nhóm nhỏ Lực lượng Đặc biệt Hoa Kỳ và các sĩ quan CIA năng nổ. Đó là một thảm họa mà quy mô của nó giờ đây bin Laden chỉ mới bắt đầu nắm được. Bây giờ ông ta chỉ có một kế hoạch duy nhất là chạy trốn đến Tora Bora, một nơi mà ông đã biết rõ từ giữa những năm 1980, và dựng lên ở đó một cứ địa cuối cùng nào đó trước khi trốn đi chiến đấu vào một ngày khác.