Trời tối. Trời đã tối. Trời đang tối.
Trời tối. Trời đã tối. Trời đang tối. // Trời tối. Chẳng có gì hơn. Một mốc thời gian trơ trụi đứng một mình. Một dấu chấm, mọi diễn...
Trời tối. Trời đã tối. Trời đang tối.
//
Trời tối. Chẳng có gì hơn. Một mốc thời gian trơ trụi đứng một mình. Một dấu chấm, mọi diễn giải đều xoay quanh dấu chấm này.
Trời tối, là một dấu chấm
Trời tối. Tôi trên đường lên thành phố. Mưa lất phất bay. Điện thoại reo lên. Ngón tay cái tôi rung lên giữa hai đốm đỏ và xanh trên màn hình. Tôi nhìn về phía trước. Mưa lất phất bay. Xung quanh bóng đèn đường, những hạt mưa hiện rõ lên và rồi trôi vào đêm tối.
//
Nhưng trời đã tối thì lại khác. Trời đã tối, có hai trường hợp.
1/ Nó mang trong mình 2 thể tính, một mốc thời gian cố định như "Trời tối", và mang theo cả một lịch sử tính khác, quá khứ của nó, quá khứ của cái quá khứ được đề cập đến (tối).
Trời đã tối. Nghĩa là trời đã từng ráng chiều, từng chiều, từng trưa, từng sáng. Nghĩa là cái dấu chấm quá khứ kia có một chiều kích lờ mờ đi về quá khứ, một chiều kích có chiều dài có thể chạm đến tiệm cận một chu kỳ quá khứ.
Trời đã tối. Mới đây thôi, tôi còn cùng cô ấy ngắm hoàng hôn.
Trời tối. Mới đây thôi, tôi còn cùng cô ấy ngắm hoàng hôn.
Trời tối. Mới đây thôi, tôi còn cùng cô ấy ngắm hoàng hôn.
Chữ "đã" mang một chiều kích về quá khứ. Trời đã tối là một cơn vùng vẫy tiềm tàng thoát muốn khỏi thời gian hiện tại.
2/ 3 thể tính.
- Một mốc thời gian cố định như "Trời tối".
- Một tiến trình thời gian từ quá khứ đến hiện tại dài dằng dặt, mòn mỏi trong chờ đợi. Trời đã tối, cuối cùng trời đã tối, sau bao phút giây chờ đợi, cuối cùng trời đã tối.
- Và trời đã tối, cuối cùng trời cùng tối, tiềm ẩn một hành động tương lai nào đó, cái hành động như một bình khí ga với tiến trình quá khứ -> hiện tại là áp lực nén. Trời đã tối, đến lúc bùng vỡ ra rồi.
- Một mốc thời gian cố định như "Trời tối".
- Một tiến trình thời gian từ quá khứ đến hiện tại dài dằng dặt, mòn mỏi trong chờ đợi. Trời đã tối, cuối cùng trời đã tối, sau bao phút giây chờ đợi, cuối cùng trời đã tối.
- Và trời đã tối, cuối cùng trời cùng tối, tiềm ẩn một hành động tương lai nào đó, cái hành động như một bình khí ga với tiến trình quá khứ -> hiện tại là áp lực nén. Trời đã tối, đến lúc bùng vỡ ra rồi.
Trời đã tối. Vậy là phải chia tay.
Trời đã tối. Đến lúc rồi.
Trời đã tối. Đến lúc rồi.
//
Trời đang tối, vậy trời tối chưa. Trời đang tối là một nhập nhằng mờ tỏ. Trời đang tối, cũng là trời đang dần tối, cũng là trời đang là buổi tối. Trời đang dần tối, thì thể tính căn bản của nó là cái tiệm cận chữ "tối", nghĩa là gần tối, nghĩa là chiều, nghĩa là ráng chiều, là mây tím, mây cam, mây hồng, mây đỏ. Trời đang là buổi tối chẳng khác gì với Trời tối.
Nhờ cái nhập nhằng này, mà nó mang trong mình cả hai thể tính. Và cái thể tính nào được đưa vào sử dụng sẽ phụ thuộc vào những câu khác, câu trước hoặc câu sau. Và như một plot twist, một cú lừa, một trong hai ý nghĩa sẽ biến mất đi trước sự bức bối của người đọc.
Trời đang tối. Cái ráng chiều hôm nay đẹp lạ.
Trời đang tối. Trăng đã khuất sau những đám mây dày.
Trời đang tối. Trăng đã khuất sau những đám mây dày.
Ở câu đầu, Trời đang tối là quá khứ đơn. Cái ráng chiều là quá khứ đơn. Nhờ sự tương đồng trong thời gian với cái ráng chiều, mà Trời đang tối được kéo ra khỏi chữ tối, cái nghĩa tường minh của chữ tối treo lơ lửng phía trước, trở thành cái chưa đến.
Ở câu sau, Trời đang tối là quá khứ đơn, Trăng đã khuất là quá khứ hoàn thành. Mối tương quan giữa trời đang tối và trăng-mây, khiến cho trời đang tối tiến về hiện tại gần hơn một bậc. Trăng-mây đã là tối, thì tiến về gần hiện tại hơn thì chỉ là tối hơn nữa, nghĩa là khuya.
//
Trời tối. Trời đang tối. Trời đã tối.
Ngôn ngữ là giới hạn của ý thức. Đôi khi nó mở rộng ý thức, đôi khi nó lại là rào cản.
Nhưng nào có mấy ai đi đến được nơi rào cản đó.
Sáu giờ kém, là trời đang tối, hay trời đã tối.
//
Quan điểm - Tranh luận
/quan-diem-tranh-luan
Bài viết nổi bật khác
- Hot nhất
- Mới nhất