Triết học về giấc mơ: Làm sao tôi biết được mình không mơ?
ND: Giấc mơ là một chủ đề đã cuốn hút mình suốt nhiều năm liền. Đây là hiện tượng quá quen thuộc với cuộc sống của chúng ta, nhưng...
ND: Giấc mơ là một chủ đề đã cuốn hút mình suốt nhiều năm liền. Đây là hiện tượng quá quen thuộc với cuộc sống của chúng ta, nhưng cũng rất khó tiếp cận. Phải chăng vì bản chất nhập nhằng, biến hóa, khó hiểu, hay vì chúng ta gần như không thể miêu tả những gì ta đã mơ "một cách khách quan" mà những cách giải quyết từ tâm lý học & khoa học thần kinh, cho dù đem lại nhiều câu trả lời thú vị giúp chúng ta hiểu thêm về hiện tượng này, đều chưa thỏa mãn câu hỏi quan trọng về ý nghĩa của những giấc mơ, cho dù đối với cá nhân hay đối với con người nói chung. Có lẽ phần nào những băn khoăn ấy sẽ được làm rõ khi ta đặt giấc mơ dưới góc nhìn Triết học.
Đó là lý do khoảng một năm trước mình đã thực hiện bài dịch"Triết học về Giấc mơ" tổng cộng 05 phần, tuy nhiên vì nhiều lý do chỉ làm hết phần thứ I. Lúc ấy định ngâm ở Facebook cá nhân để làm nốt các phần tiếp nhưng e là không đủ sức (& kiên nhẫn) nữa, nên hôm nay mình bê qua Spiderum để mọi người cùng đọc và thảo luận :">.
Các bạn có thể xem bài viết gốc cùng nguồn tham khảo trên Internet Encyclopedia of Philosophy.
Theo Owen Flagan (2000), có 4 vấn đề triết học nổi bật về giấc mơ:
1. Làm sao tôi biết được có những lúc mình không mơ?
2. Tôi có thể vô đạo đức trong mơ không?
3. Giấc mơ có phải những trải nghiệm có ý thức xảy ra trong giấc ngủ?
4. Giấc mơ có chức năng tiến hóa không?Các vấn đề này liên quan mật thiết đến các vấn đề triết học đa dạng như siêu hình, nhận thức luận, đạo đức học, phương pháp luận khoa học, triết học về sinh học, tâm trí và ngôn ngữ.Bài viết này giải quyết 4 vấn đề trên, đồng thời cũng đề cập một số câu hỏi triết học mới nảy sinh về chủ đề này:
5. Giấc mơ có phải một mô hình khoa học lý tưởng để nghiên cứu ý thức?
6. Giấc mơ là một hiện tượng ảo giác hay tưởng tượng?Phần 1 dẫn dắt người đọc vào câu hỏi triết học truyền thống mà Descartes đã đặt ra với bản thân, một câu hỏi đỉnh cao của chủ nghĩa hoài nghi về thế giới khách quan. Làm sao tôi biết được có những lúc tôi không mơ, hay liệu rằng tôi có đang mơ ngay lúc này? Như thường thấy, các triết gia đã tìm kiếm những đặc tính có thể phân định được giấc mơ và thực tại tỉnh thức, và một vấn đề tranh luận trọng tâm là liệu ta có thể cảm thấy sự đau đớn trong giấc mơ hay không.
Phần 2 tổng quát đạo đức học về giấc mơ. Quan điểm cổ điển của thánh Augustine được đặt trong sự đối lập với các quan điểm đạo đức trừu tượng hơn, cụ thể là lập trường của Nghĩa vụ luận, Hệ quả luận, và Đạo đức học phẩm cách. Khái niệm giấc mơ sáng suốt được nghiên cứu dưới góc nhìn về trách nhiệm trong giấc mơ và cách chúng ta đối xử với các cá thể trong mơ.
Phần 3 đề cập đến một loạt các luận điểm, phản đối và trả lời cho câu hỏi thứ 3: giấc mơ có, hay không phải là trạng thái ý thức. Những thách thức từ Malcolm và Dennett nghi ngờ tính thẩm quyền của quan điểm thông thường coi giấc mơ như trạng thái được trải nghiệm một cách có ý thức. Malcolm lập luận rằng khái niệm về giấc mơ là thiếu nhất quán, trong khi Dennett đề ra một học thuyết về giấc mơ mà không phải nhờ vả tới ý thức.
Trong phần 4 là tranh luận về mặt tiến hóa. Các nghiên cứu thực nghiệm, về cơ bản chưa trả lời thỏa đáng rằng liệu giấc mơ được hình thành qua chọn lọc tự nhiên, nếu có thì đến mức độ nào. Các tiếp cận sơ khai của Freud và Jung, tiếp theo là Flanagan và Revonsuo lần lượt được phê bình. Cho dù Freud, Jung và Revonsuo lập luận rằng giấc mơ có chức năng nhất định; Flanagan thể hiện quan điểm đối lập phổ biến trong giới khoa học thần kinh, rằng nó không hề mang chức năng.
Phần 5 bàn luận về câu hỏi số 5 và 6. Câu 5 đặt ra vấn đề hết sức mới mẻ: bằng cách thức cụ thể nào giấc mơ có thể được tích hợp vào chương trình nghiên cứu về ý thức. Có nên đưa nó trở thành mô hình của ý thức? Có thể cho nó đóng vai trò tương phản với các trạng thái tinh thần khác? Câu 6 bàn về bản chất định tính của giấc mơ. Câu hỏi này có lịch sử lâu đời hơn, tuy nhiên đang nhận được chú ý của khoa học hiện đại. Ở đây khái quát những lý do ủng hộ cho quan điểm chính thống của tâm lý học, rằng hình ảnh mơ mang bản chất tri giác (ảo giác); và những lý do thách thức triết học cho quan điểm chính thống ấy, rằng giấc mơ về căn bản mang bản chất tưởng tượng.
Giấc mơ trong Nhận thức luận
a. Luận điểm Giấc mơ của Descartes
Descartes đã cố gắng gầy dựng sự chắc chắn nơi những niềm tin của chúng ta. Trong tác phẩm “Suy ngẫm về Triết học Tiên khởi” ông muốn tìm ra những gì chúng ta có thể tin chắc, và có thể khẳng định là tri thức. Khởi đầu bằng việc nhận định rằng ông chắn chắn mình đang ngồi bên đống lửa. Tiếp theo ông phủ định ý nghĩ rằng điều ấy là chắc chắn, vì trước đó trong những giấc mơ ông cũng tin mình đang ngồi bên đống lửa, nhưng đã bị lừa, và không may tỉnh dậy mới biết chỉ là mơ thấy đang ngồi bên đống lửa mà thôi. Làm sao tôi biết được lúc này không phải là mơ? Đây là câu hỏi nổi tiếng Descartes đã rút ra. Dù không phải người đầu tiên băn khoăn về điều này (xem sách Trang Tử, Theaetetus của Plato và Metaphysics của Aristotle) ông là triết gia đầu tiên đã kiên trì theo đuổi và cố gắng tìm câu trả lời cho nó. Descartes cho rằng bởi các giác quan đã bị đánh lừa trong mơ, chúng ta không thể tin vào giác quan của mình ở thực tại tỉnh thức (mà không viện đến một Thượng đế rộng lượng sẽ không nỡ lừa chúng ta).
Đọc thêm:
Hiện tượng giấc mơ được sử dụng làm bằng chứng trọng tâm cho giả thuyết của chủ nghĩa hoài nghi, rằng những gì ta đang tin là đúng, tất cả có thể sai lầm và tất cả được dựng nên bởi một giấc mơ. Descartes thì theo quan điểm thông thường rằng giấc mơ, hiện tượng xảy ra ở mọi người, là một loạt các trải nghiệm khá tương tự với thực tại tỉnh thức (còn được gọi là “quan điểm phổ biến” về giấc mơ). Một giấc mơ làm cho người mơ ngỡ như mình đang thực hiện hành động trong khi tỉnh thức, bởi trong mơ chúng ta không biết điều mình đang trải nghiệm là một giấc mơ. Descartes khẳng định rằng về nguyên tắc, có lẽ trải nghiệm mơ không thể phân biệt với thực tại tỉnh thức – cho dù có khác biệt chủ quan nào giữa hai hiện tượng, chúng đều không đủ để tôi biết chắc được trong lúc này tôi đang không mơ. Cuối cùng Descartes vẫn băn khoăn liệu các vật thể trước mặt ông có phải thật – liệu ông chỉ đang mơ về sự tồn tại của chúng, hay chúng đang thực sự ở đây. Giấc mơ là gốc gác đầu tiên để thúc đẩy phương pháp hoài nghi của Descartes, qua đó chất vấn tri thức đạt được qua tri giác và nội quan. Ở phương pháp này ông sẽ dùng bất cứ cách thức nào để đặt một nhận định hay niềm tin được cho là đúng dưới sự soi xét kỹ lưỡng nhất.
Luận điểm giấc mơ của Descartes bắt đầu với tuyên bố rằng giấc mơ và thực tại tỉnh thức có thể có nội dung hệt như nhau. Ông khẳng định rằng, hai trải nghiệm có sự giống nhau đủ để người mơ liên tục bị đánh lừa rằng mình đang có trải nghiệm tỉnh thức, mà thực chất là đang ngủ và đang mơ. Luận điểm này có vài chỗ giống luận điểm con quỷ lừa bịp của ông sau này. Theo đó, tôi không thể chắc chắn với bất kỳ điều gì tôi tin tưởng, bởi có lẽ tôi chỉ đang bị một con quỷ gian ác đánh lừa. Hai luận điểm có cấu trúc giống nhau: không gì loại bỏ được khả năng tôi đang bị lừa và tưởng có trải nghiệm X, trong khi thực sự tôi đang ở trạng thái Y, vậy nên tôi không thể có tri thức Z về trạng thái hiện tại của mình. Kể cả khi cá nhân rơi vào đúng niềm tin rằng họ không bị bịp bởi con quỷ, và khi thực sự đang trải nghiệm tỉnh thức, họ vẫn không thể phân biệt thực tại và giấc mơ để theo đó vin chắc chắn vào niềm tin rằng họ không mơ.
b. Phản đối và phản hồi
Từ khi tác phẩm “Suy ngẫm về Triết học Tiên khởi” được ra mắt, luận điểm của Descartes đã nhận được nhiều phản hồi. Các câu trả lời xoay quanh một khẳng định trọng tâm của ông, rằng không có dấu hiệu rõ ràng nào để phân biệt ý thức lúc tỉnh và lúc đang mơ. Hobbes cho rằng điểm khác biệt quan trọng nhất là sự vắng mặt của điều vô lý trong thực tại tỉnh thức (Hobbes, 1651: Part 1, Chapter 2). Cho dù một người đang ngủ quá đắm chìm vào tính vô lý của giấc mơ đến mức họ không thể phân biệt được, một người đang tỉnh thức lại biết, đơn giản vì khi ấy tính vô lý không còn nữa. Locke thì so sánh sự đau đớn thực sự với đau đớn trong mơ. Ông đã yêu cầu Descartes cân nhắc sự khác biệt giữa việc mơ thấy bị lửa đốt và thực sự bị lửa đốt. Locke khẳng định rằng khác với khi tỉnh thức, chúng ta không thể cảm thấy sự đau đớn của cơ thể lúc đang mơ. Nếu điều này là đúng, nó sẽ làm lung lay tiền đề của Descartes rằng không có dấu hiệu rõ ràng để biết được chúng ta đang mơ hay đang thức.
Đọc thêm:
Descartes cho rằng các giấc mơ mang tính “protean[1]” (Hill, 2004b), nghĩa là trải nghiệm giấc mơ có thể sao chép một tổng thể đồ sộ của bất kỳ trải nghiệm tỉnh thức nào. Nói cách khác, không có một trải nghiệm nào của thực tại tỉnh thức mà lại không thể được mô phỏng y như thật (và như thế là không thể phân biệt về mặt hiện tượng) bởi giấc mơ. Khẳng định về tính “protean” này là thiết yếu để Descartes xây dựng luận điểm hoài nghi của ông về thế giới khách quan. Sau cùng thì, chỉ cần một trải nghiệm duy nhất trong thực tại mà không thể xảy ra trong mơ, thì ít nhất trong lúc ấy, chúng ta có thể chắc chắn mình đang tỉnh thức và tiếp xúc với thế giới ngoài kia. Locke tuyên bố ông đã tìm ra kẽ hở ấy: chúng ta không và không thể cảm thấy đau đớn trong mơ. Khái niệm về sự đau đớn xảy ra trong giấc mơ đã và đang được kiểm định trong một số nghiên cứu khoa học, thông qua phân tích định lượng nội dung của nhật ký ghi lại bởi người mơ thông thường, và đồng thời bởi những người mơ sáng suốt[2] tham gia vào thí nghiệm. Kết luận được đưa ra một cách độc lập sau những nghiên cứu trên cho thấy, dù rất hiếm gặp, cơn đau diễn ra cục bộ rõ rệt có thể xảy ra trong mơ (Zadra, and others 1998; LaBerge & DeGracia, 2000). Vậy theo các nghiên cứu thực nghiệm, tuyên bố của Locke là sai, dù ông vẫn có thể ngờ rằng sự đau đớn dữ dội và kéo dài (như vấn đề bị lửa đốt đã nhắc tới) là không khả thi. Các nghiên cứu ủng hộ cho sức thuyết phục của Descartes rằng giấc mơ có thể lặp lại bất kỳ trạng thái tỉnh thức nào, nghĩa là không có sự khác biệt cốt yếu nào giữa tỉnh và mơ; và như thế loại bỏ sự chắc chắn về việc đây không phải là giấc mơ.
Một cố gắng thường thấy nữa để phân biệt thực tại và giấc mơ là “nguyên tắc chặt chẽ” (Malcolm, 1959: Chapter 17). Chúng ta đang tỉnh thức nếu chúng ta có thể kết nối trải nghiệm hiện tại với toàn cảnh cuộc sống của mình. Về cơ bản, nhờ sử dụng nguyên tắc chặt chẽ mà chúng ta có thể tư duy mạch lạc hơn trong thực tại tỉnh thức. Có vẻ như Hobbes đã bám vào nguyên tắc này khi nhờ vả đến tính vô lý như một đặc tính mấu chốt của giấc mơ. Dù đúng là giấc mơ có xu hướng gắn với sự tư duy thiếu mạch lạc, chúng ta vẫn có khả năng thức dậy với một giấc mơ có kết nối với mạch đời sống của riêng mình. Nhìn chung, quan điểm rằng không có phương pháp nào chắc chắn để phân biệt mơ và thực vẫn được chấp nhận. Tuy nhiên vẫn còn tranh cãi liệu điều đó có bác bỏ được tri thức của chúng ta hay không.
Một phản hồi khác cho luận điểm của Descartes có thể thấy ở Sosa (2007), nói rằng “trong giấc mơ chúng ta không có niềm tin, chúng ta chỉ giả vờ như có niềm tin[3].” Ông lập luận rằng trong giấc mơ chúng ta chỉ tưởng tượng ra các sự kiện, mà không bao giờ cần đến những niềm tin lường gạt, và như thế chúng ta không có cớ để thấy niềm tin trong thực tại thường nhật có thể lung lay. Descartes đã dựa vào khái niệm về một niềm tin như nhau ở cả mơ và đời thực. Tất nhiên, nếu trong mơ, tôi chưa bao giờ tin rằng mình ngồi bên đống lửa, thì các giấc mơ ấy chẳng thể thách thức những niềm tin mang tính tri giác và nội quan mà tôi có trong thực tại. Ichikawa (2008) đồng tình với Sosa, rằng trong mơ ta tưởng tượng ra sự kiện thay vì tin rằng ta tham gia vào chúng như là đang thức. Nhưng lập luận của ông đối nghịch với Sosa: điều đó không loại trừ được thái độ hoài nghi đối với thế giới khách quan. Cho dù giấc mơ diễn ra bằng trí tưởng tượng hơn là niềm tin, nó vẫn tạo ra các trải nghiệm không thể phân biệt về mặt chủ quan với trải nghiệm tỉnh thức. Bởi sự giống nhau đó, sẽ là “vô trách nhiệm về mặt nhận thức” nếu tin rằng chúng ta đang tham gia vào trải nghiệm tỉnh thức khi mới chỉ cho là như thế; trên cơ sở duy nhất rằng giấc mơ xảy ra do trí tưởng tượng, và những gì tưởng tượng được thì không phải niềm tin. Trăn trở mới nảy sinh là liệu niềm tin mà tôi có trong thực tại có thực sự là niềm tin hay chỉ là một thứ tưởng tượng ra trong mơ, và như thế hoài nghi là không tránh được, Ichikawa khẳng định.
- - -
[1] Từ tên của vị thần Proteus trong thần thoại Hi Lạp, có khả năng thay đổi hình dạng theo ý muốn. (ND)
[2] Giấc mơ sáng suốt (Lucid dream) là một kiểu giấc mơ đặc biệt, trong đó chủ thể ý thức được rằng mình đang mơ. Người mơ sáng suốt có cấp độ ý thức tự thân (self-awareness) trong giấc mơ đặc biệt rõ rệt, có thể gây ảnh hưởng đến giấc mơ với một ý chí rõ ràng, và có khả năng lập luận logic cũng như truy hồi các ký ức từ thực tại tỉnh thức. (ND)
[3] Dịch từ make-believe nghĩa là tưởng tượng, giả vờ. (ND)
(Nguồn ảnh minh họa từ Pexels.com)
Khoa học - Công nghệ
/khoa-hoc-cong-nghe
Bài viết nổi bật khác
- Hot nhất
- Mới nhất