Triết học như một lối sống
Liệu rằng thực hành triết học có phải chỉ là "sân chơi" cao cấp cho các học giả & giáo sư? Liệu rằng ta có thể đưa nó vào một phần của đời sống thường nhật?
Tác giả: Ross Jensen (nguồn: The Philosophers' Magazine)

Thế nào là thực hành lối sống triết gia?
Phải thú thật rằng khi nghe ý tưởng này, điều tôi hình dung là một ai đó dành phần lớn thời gian trong ngày cho những mưu cầu triết học - không ngừng thao thao bất tuyệt với mọi người về "một xã hội lý tưởng công bằng", tìm đọc những tranh luận trừu tượng từ thế kỷ 19 về bản chất của các đặc tính cốt yếu (ngay cả trong giờ nghỉ), trong khi chừa lại rất ít thời gian cho các hoạt động khác. Một người xác tín rõ ràng rằng: "Triết học không chỉ là sở thích hay công việc; nó chính là cuộc sống của tôi!"
Phần lớn hẳn sẽ thấy ý tưởng đó hoàn toàn không khả thi, vậy nên điều quan trọng là phải đi đến một cách hiểu đúng đắn hơn. Trước tiên, ta hãy cùng tìm hiểu xem triết học có thể đóng góp thế nào cho một cuộc sống tốt đẹp.
Vượt ra khỏi khuôn khổ học thuật
Nói đến lối sống triết gia, hẳn một số sẽ nghĩ về nó dưới góc độ công việc - một “sân chơi” cho các chuyên gia, các học giả làm việc trong khoa triết học tại các trường cao đẳng và đại học. Quan điểm này thoạt nhìn có vẻ hợp lý hơn so với quan niệm phía trên, bởi chắc chắn với một số người, việc trở thành triết gia chuyên nghiệp là một phần cấu thành cuộc sống tốt đẹp.
Tuy nhiên, cách nhìn này có một khiếm khuyết lớn: nó mang tính loại trừ quá cao. Như Socrates đã chỉ ra, về nguyên tắc triết học là lựa chọn cho bất kỳ ai có khả năng tư duy sâu sắc và khái quát. Nói cách khác, lối sống triết gia không chỉ dành cho chuyên gia - mà còn cho cả những người mà Alasdair MacIntyre gọi là "những người thông thường" (plain people).
Ứng phó với những vấn đề chưa có lời giải
Từ quan sát của tôi, triết học thường đóng vai trò mang lại cuộc đời tốt đẹp - bởi nó cho phép chúng ta tìm lời giải cho những vấn đề lý thuyết mà truyền thống tri thức (vốn có hạn chế và không hoàn hảo) của chính chúng ta chưa giải quyết được.
Do đó, lối sống triết gia đòi hỏi ta phải dành một vị trí quan trọng trong đời cho suy tư triết học: khi tri thức thông thường không còn có ý nghĩa nữa, đó là lúc triết học phát huy tác dụng.
Hạn chế của nhận thức tập thể
Con người chúng ta phải đối mặt với nhiều loại vấn đề khác nhau. Tất nhiên, cấp bách nhất là những vấn đề thực tiễn. Chúng ta hy vọng một cuộc sống tốt đẹp trong một thế giới khắc nghiệt; vì vậy ta phải đưa ra chiến lược đối phó và vượt qua các trở ngại đối với sự phát triển.
Ví dụ, ta cần dinh dưỡng để tồn tại, và ta không thể tự nhiên có được dinh dưỡng, thế nên ta phải áp dụng nhiều kỹ thuật (ví dụ: trồng trọt, chăn nuôi, nấu nướng) để nuôi sống bản thân; các hiện tượng thời tiết khắc nghiệt (mưa lớn, tuyết, gió mạnh, nắng nóng) có thể gây khó khăn và thậm chí đe dọa mạng sống, vì vậy ta phải may mặc và tìm nơi trú ẩn; v.v…
Tuy nhiên, một số vấn đề khác thì ít thực tiễn mà thiên về mặt lý thuyết hơn. Thường thì, ta không phải quá lo lắng về những vấn đề này, đơn giản vì ta chấp nhận những giải pháp có sẵn - được thừa hưởng từ truyền thống tri thức/ nhận thức tập thể của mình.
Giả sử có một người phụ nữ tên Sarah là thành viên của Giáo hội Mặc môn (LDS). Thông thường, Sarah không bao giờ nghĩ đến việc có nên hình thành thói quen uống cà phê buổi sáng hay không, vì truyền thống tôn giáo của cô dứt khoát cấm đoán thực hành này. Liên quan đến các truyền thống đạo đức tương tự, triết gia và sử gia Michael Oakeshott đã bình luận như sau:
"Đời sống đạo đức không nảy sinh từ ý thức về khả năng lựa chọn từ các cách ứng xử thay thế khác; nó gần như diễn ra trong vô thức. Hầu hết các tình huống cuộc sống không đòi hỏi ta phải phán đoán hay suy xét để đưa ra giải pháp; không cần phải suy ngẫm về hậu quả, không có sự không chắc chắn, không có những mâu thuẫn hay ‘dằn vặt’ trong lương tâm. Thường thì ta không cần phải làm gì ngoài việc cứ đơn giản tuân theo một truyền thống ứng xử lâu đời."
Ở đây, Oakeshott mô tả rất rõ loại phản ứng đạo đức tiền-suy-ngẫm (pre-reflective) đặc trưng trong cuộc sống hàng ngày. Không cần tự hỏi mình nên cư xử thế nào, bởi ta đã quen với lối sống được định hình bởi tư tưởng đạo đức chung.
Thay vì đắn đo có nên mở nhạc thật lớn giữa đêm khi bạn cùng phòng đang ngủ hay không, ý nghĩ đó thực tế chẳng bao giờ xuất hiện trong đầu tôi. Tất nhiên, làm vậy thì thật là bất lịch sự - đây là điều mà tôi đủ trí khôn để nhận ra khi cân nhắc lựa chọn đó; nhưng tôi không cần phải đưa ra phán đoán đó mỗi ngày mới có thể cư xử đúng mực.
Tuy nhiên, rất nhiều khi chúng ta rơi vào các tình huống đặc biệt, khi mà nhận thức tập thể KHÔNG trang bị cho ta cách giải quyết một vấn đề lý thuyết mới nào đó. Khi đó, điều chúng ta có thể làm là tìm đến triết học.
Suy cho cùng, triết học đòi hỏi ta suy nghĩ thấu đáo về cách giải quyết các vấn đề lý thuyết có tính chất khá tổng quát. Để giải quyết những vấn đề này, ta thường viện đến các lý thuyết triết học tổng quát.
Nghiên cứu tình huống: Có nên uống soda hay không?
Quay trở lại với Sarah: giả sử cô ấy tự hỏi liệu có ổn không nếu cô quyết định uống soda. Truyền thống tín ngưỡng của cô không cho cô một câu trả lời (hoặc ít nhất là không có một câu trả lời rõ ràng), nhưng cô nghe được từ một số trưởng lão trong Giáo hội Mặc môn rằng lệnh cấm uống cà phê là do cà phê có chứa caffeine.
Thế là cô tự hỏi: Đó có phải là (một phần) lời giải thích chính xác cho lệnh cấm không? Nếu đúng vậy, liệu cô có nên kiêng cả soda chứa caffeine không, hay có điều gì đó về soda có thể cấu thành ngoại lệ cho quy tắc "không caffeine" được áp dụng chung trong giáo hội?
Sức mạnh của lý luận so với quy tắc/ giáo điều cứng nhắc
Việc trả lời những câu hỏi này sẽ đòi hỏi Sarah phải thực hiện một số lý luận triết học. Cô sẽ phải so sánh, đối chiếu và phản biện các lời giải thích có tính chất khá tổng quát (những lời giải thích đóng vai trò cơ sở cho các chuẩn mực xã hội quan trọng) để từ đó kết luận có nên uống soda hay không. Chẳng hạn, cô sẽ phải xem xét những loại lý do nào biện minh cho lệnh cấm tiêu thụ caffeine - những lý do đó nhìn chung sẽ "quy về" các nguyên tắc sâu xa hơn, bao gồm các mối quan tâm về sức khỏe thể chất, mối quan hệ giữa sức khỏe thể chất và sự phát triển của con người, các chiến lược đánh đổi hợp lý giữa sức khỏe thể chất và cảm giác vui thú có được từ một số hoạt động không lành mạnh (ví dụ: uống đồ uống có chứa caffeine), v.v…
Suy tư triết học như vậy thậm chí có thể khiến Sarah đánh giá lại một số chuẩn mực chung mà cô vẫn chấp nhận lâu nay. Tuy nhiên, sẽ thật sai lầm nếu cho rằng thực hành lối sống triết gia chắc chắn sẽ dẫn người ta đến việc chấp nhận một thế giới quan “xét lại” nào đó. Lấy triết học làm lối sống không nhất thiết làm cho Sarah từ bỏ hoàn toàn truyền thống tri thức/ nhận thức tập thể của mình, cũng không cần cô phải loại bỏ bất kỳ khía cạnh cụ thể nào trong truyền thống đó. Thực tế, thực hành lối sống triết gia có thể khiến Sarah tái khẳng định thế giới quan quen thuộc của mình dưới ánh sáng của hiểu biết mới - về những lý do làm nền tảng cho thế giới quan đó.
Bạn có thể phản bác rằng, nếu chỉ đơn giản suy ngẫm về những cam kết trước đây của mình, thì không thể nói là Sarah đang thực hành triết học. Làm triết học là làm những gì các triết gia vẫn làm, như xây dựng hệ thống lý thuyết toàn diện về các hiện tượng rất tổng quát (ví dụ: thời gian, sự tồn tại/ không tồn tại, cái đúng, cái đẹp và cái tốt) cũng như đưa ra các tranh biện logic và trí tuệ khác. Những hoạt động như vậy chẳng giống những gì Sarah làm khi cô cân nhắc việc có nên uống soda hay không.
Đúng là các triết gia chuyên nghiệp đã trải qua đào tạo để họ có thể tham gia tranh luận lý thuyết mang tính trừu tượng và tổng quát cao. Tuy nhiên, về cơ bản, họ đang làm cùng một việc như Sarah: cố gắng giải quyết các vấn đề lý thuyết bị bỏ ngỏ bởi chính truyền thống tri thức/ nhận thức tập thể của họ.
Biện minh là kết quả của quá trình giao tiếp
Phải thừa nhận rằng, các triết gia theo trường phái Descartes có xu hướng làm triết học bằng cách "bắt đầu từ con số không", dựa vào "lý trí thuần túy" để đi đến một kiểu thế giới quan lý tưởng hóa. Trong tác phẩm Value in Ethics and Economics (Giá trị trong Đạo đức và Kinh tế học), Elizabeth Anderson đã có những lời nhận xét sâu sắc như sau:
"Sự biện minh (justification) [như ta thường thấy trong lý thuyết triết học] là một phản hồi đối với sự chỉ trích, phàn nàn và các quan điểm trái chiều. Nó nảy sinh trong bối cảnh đối thoại giữa những người có mong muốn đi tới một quan điểm chung, và mục tiêu của nó là hướng đến những ai bất đồng ý kiến. Thật vô nghĩa khi tham gia biện minh nếu các bên không có hứng thú đạt được thỏa thuận, nếu không có lời phàn nàn cụ thể nào, hoặc nếu không có nền tảng chung để bắt đầu đối thoại."
Tôi rất đồng ý với quan điểm này. Nhưng ngay cả khi bạn không cảm thấy ấn tượng với phân tích của Anderson, bạn vẫn phải thừa nhận rằng cách tiếp cận kiểu Descartes đối với lý thuyết triết học chỉ là một trong số rất nhiều phương pháp thực hành.
Khi chưa có một lập luận mạnh mẽ nào để ưu tiên hơn các cách tiếp cận thay thế khác, quan niệm về triết học như một lối sống mà chúng ta đã thảo luận ở đây vẫn là một cách làm triết học tự nhiên và phù hợp với những người thông thường.

Quan điểm - Tranh luận
/quan-diem-tranh-luan
Bài viết nổi bật khác
- Hot nhất
- Mới nhất
