Từ sau khi thành phố Constantine thất thủ trước sức mạnh của những chiến binh người Thổ và sự sụp đổ của Đế chế Đông La Mã thì gần như khu vực Balkan đã luôn phải chịu sự tấn công và chinh phạt của đội quân phía đông hùng mạnh này
Và trong những dân tộc bị giày xéo bởi sức mạnh của người Thổ thì có lẽ Croatia là 1 trong những dân tộc chịu sự áp bức nặng nệ nhất.

1. Thiệt hại về nhân mạng

Croatia đã chiến đấu chống lại người Ottoman trong bốn trăm năm, từ năm 1391, khi các cuộc đột kích của Ottoman bắt đầu xâm nhập vào vùng phía nam của vương quốc Hungary-Croatia, cho đến năm 1791, khi cuộc chiến tranh Áo-Ottoman cuối cùng kết thúc với những thắng lợi khá ít ỏi của Áo do mối đe dọa can thiệp của Phổ. Tuy nhiên, hầu hết các cuộc chiến tranh bao gồm các cuộc đột kích và tấn công liên tục, nhắm vào dân thường để phá hủy cơ sở nhân khẩu học và kinh tế của đối phương. Cướp bóc, bắt làm nô lệ và tàn sát dân thường là chuyện thường ngày. Những kẻ đột kích sẽ theo dõi các nguồn nước và thậm chí cả làng mạc, bắt giữ người dân, gia súc và đồ vật có giá trị. Tệ hơn nữa là tổn thất về nhân khẩu học, khiến Chiến tranh Ottoman trở thành một trong những thảm họa sinh học lớn nhất trong lịch sử Croatia, chỉ sau Chiến tranh thế giới thứ hai và sự gia nhập Liên minh châu Âu.
Những cuộc đột kích này đã gây ra thiệt hại về nhân khẩu học, tàn phá trên nhiều cấp độ. Rõ ràng nhất, việc mất dân số đã phá hủy cơ sở nhân khẩu học, tài chính và tuyển dụng mà vương quốc phụ thuộc vào. Giới quý tộc Croatia là những người mang bản sắc dân tộc nguyên thủy và chủ quyền của Croatia và họ là những người đầu tiên bảo vệ chủ quyền của Croatia chống lại sự cướp bóc không chỉ từ Constantinople, mà còn từ Vienna và sau đó là Buda. Tuy nhiên, hai nhóm này lại phụ thuộc lẫn nhau rất nhiều. Giới quý tộc rõ ràng phụ thuộc vào lao động của người dân thường để có được sự giàu có. Trong khi đó, người dân thường phụ thuộc vào giới quý tộc để được bảo vệ khỏi sự cướp bóc không chỉ của những kẻ đột kích Ottoman, mà còn của bọn cướp và theo thời gian, cả lính đánh thuê Đức ngày càng hiện diện ở Croatia sau cuộc bầu cử năm 1527 của Habsburg làm vua Croatia.
Giai đoạn từ năm 1493 đến năm 1593 – từ Trận Krbava đến Trận Sisak (đây là 1 trận đặc biệt đẫm máu). Trong cuộc chiến này, Croatia đã mất một phần đáng kể dân số. Ở một số khu vực, tổn thất vượt quá 80% dân số. Trên thực tế, chỉ trong Chiến tranh Thổ Nhĩ Kỳ 1683 – 1699 hay Chiến tranh 13 năm giai đoạn 1593 – 1606, Slavonia đã mất 80% dân số trong khi Lika và Krbava mất 95%. Điều này dẫn đến những thay đổi nhân khẩu học lớn, vì các khu vực bị bỏ trống đã được người Serb và Wlachs định cư (những người sau này bị Serbia hóa), điều này đã gây ra vô số rắc rối cho Croatia trong suốt thế kỷ 19 và 20.
Nhưng đó chỉ là phần nổi của tảng băng chìm.
Như đã đề cập, các cuộc đột kích đầu tiên của Ottoman bắt đầu tấn công Croatia và miền nam Hungary vào khoảng năm 1390 hoặc 1391. Chúng vượt qua Sava, cướp bóc và phá hủy làng mạc, bắt người dân làm nô lệ . Dù sao thì chúng cũng không giết chết họ vì việc bán nô lệ đem về 1 khoản tiền kết xù. Việc phòng thủ trước những cuộc đột kích này chủ yếu do các quý tộc địa phương đảm nhiệm. Mặc dù nhà vua đã cố gắng thành lập một đội quân thường trực gồm các đơn vị đồn trú trong các pháo đài biên giới, nhưng họ không thể ngăn chặn những kẻ đột kích tàn phá nơi này
Ngay từ thế kỷ 15, nhiều vùng của Croatia đã bị bỏ hoang hoàn toàn. Các cuộc chinh phạt dĩ nhiên đã gây ra thiệt hại trực tiếp nhất. Sau cuộc chinh phạt Bosnia năm 1463, người Ottoman đã bắt 100.000 người thuộc cả hai giới làm nô lệ và cũng bắt 30.000 thanh niên Bosnia làm lính Janissary. Năm 1526, sau Trận Mohacs, Hungary và Srijem đã mất 200.000 người bị bắt làm nô lệ.
Nhưng theo thời gian, các cuộc đột kích của quân Ottoman đã gây ra thiệt hại lớn hơn nhiều. Chỉ một nhóm đột kích của quân Ottoman có thể lên tới hàng ngàn kỵ binh, và có thể bắt hàng ngàn, đôi khi hơn mười ngàn người làm nô lệ chỉ trong một cuộc đột kích. Và những gì chúng không thể lấy được, chúng sẽ giết chết.
Những cuộc đột kích này gây ra hậu quả tàn khốc vì nhiều lý do chính: tần suất cao, thiếu sự cảnh báo và không theo bất kỳ quy luật thời gian nào. Người Ottoman có thể thực hiện nhiều cuộc đột kích lớn chỉ trong một tháng. Một đội quân đột kích gồm vài trăm đến vài nghìn kỵ binh có thể tập hợp chỉ trong vài ngày và tiến vào vương quốc trước khi bất kỳ cảnh báo nào được đưa ra. Và các cuộc đột kích có thể thực sự diễn ra quanh năm.
Tôi sẽ chỉ ghi lại một số cuộc đột kích ở đây để minh họa mức độ thiệt hại mà chúng có thể gây ra.
Quân đội Ottoman gồm 20.000 người đã đột kích Carniola vào năm 1469, trở về với 60.000 tù nhân. Khi trở về, họ đã tàn phá nhiều vùng của Croatia, đặc biệt là hạt Modruša, nơi họ bắt thêm 10.000 - 15.000 tù nhân. Modruša một lần nữa bị đột kích vào năm 1470. Năm 1471, Izabeg đột kích Carniola, đưa 30.000 người vào Bosnia. Một đội quân Ottoman khác đã tàn phá vùng xung quanh Zagreb. Năm 1472 chứng kiến ​​nhiều cuộc đột kích, một số trong số đó đã đến Styria, Carniola và Furlania cũng như Istria. Năm 1474, quân Ottoman đột kích Zagorje, Turopolje và Križevci gần đó, bắt 14.000 người làm nô lệ cũng như một lượng lớn gia súc. Gần một nửa đất đai của nông dân đã bị phá hủy. Các cuộc đột kích tiếp tục diễn ra vào năm 1476 và 1477, với cuộc đột kích vào giữa năm 1477 của 32.000 quân Ottoman tàn phá Carniola, Styria, Carinthia và Furlania.
Một đoàn quân đột kích Ottoman gồm 7.000 kỵ binh – một trong ba đoàn tiến vào Croatia vào mùa thu năm 1483 đã tàn phá Croatia và Carniola. Đoàn quân này đã bắt giữ 10.000 nô lệ, chủ yếu là phụ nữ và trẻ em. Đoàn quân này đã bị quân đội Croatia dưới quyền phó vương Matthias Gereb (Matijaš Gereb) phục kích khi trở về, tiêu diệt lực lượng Ottoman và giải thoát những người bị bắt; nhưng nhiều cuộc đột kích như vậy đã quay trở lại lãnh thổ Ottoman trước khi chúng có thể bị chặn lại. Trong trường hợp này, người Ottoman thường được Cộng hòa Venice hỗ trợ, nơi đã cung cấp cho họ thông tin tình báo và đôi khi thậm chí là sự giúp đỡ công khai. Năm 1484, một đoàn quân đột kích Ottoman đã bắt hàng nghìn người từ Carniola làm nô lệ, nhưng đã bị Bernard Frankapan chặn lại và tiêu diệt. Và những cuộc đột kích này đã có tác động khá lớn. Đến năm 1486, Urbar của Modruša do Công tước Bernardin Frankapan chỉ ra rằng trong số 704 hộ nông nô, chỉ còn vỏn vẹn 270 hộ nông nô . Nghĩa là, đến năm 1486, hơn 60% hộ đã biến mất
Chỉ riêng năm 1491, quân Ottoman đã mở nhiều cuộc tấn công vào Carniola vào tháng 9 và tháng 10, cả hai đều bị chặn đứng và tiêu diệt (một ở Carniola, một ở Croatia). Trong trường hợp sau, 18.000 nô lệ bị bắt đã được giải phóng. Tháng 8 năm 1494, quân đội Ottoman đột kích Slavonia và Styria, bắt giữ 7.000 người. Một đội quân khác tiến vào Croatia vào tháng 9, vượt qua Una.
Theo các nguồn tin Venice, trong năm 1499, quân Ottoman đã bắt 3.000 người từ Krbava. Họ cũng tàn phá khu vực Zadar, mang theo 674 người đàn ông trưởng thành, 314 phụ nữ và trẻ em, cùng 37.987 gia súc.
Hồ sơ cho thấy quân Ottoman đã đột kích Carniola 27 lần tính đến năm 1508, bắt làm nô lệ hoặc giết hại 200.000 người Slovenia. Croatia, nằm giữa Đế chế Ottoman và Carniola, còn phải chịu đựng nhiều đau khổ hơn. Chỉ trong một cuộc đột kích vào năm 1510, quân Ottoman đã bắt hàng nghìn nông nô từ vùng đất của Keglević làm nô lệ. Năm 1511, quân Ottoman tàn phá Modruš, Ribnik, Ozalj và Dubovac. Gần Ozalj, chúng phát hiện và bắt giữ 300 người đang ẩn náu trong một hang động.
Cuộc đột kích của Ottoman năm 1513 đã khiến 2.000 cư dân Modruš và khu vực này bị bắt làm nô lệ. Cuộc đột kích của Wallachian Martologs vào năm 1514 nhằm vào Lika đã khiến họ bắt giữ 3.000 người đàn ông, 12.000 con gia súc lớn và 8.000 con gia súc nhỏ. Hàng trăm gia đình đã rời bỏ Lika để đến những khu vực an toàn hơn, và con số này sẽ tăng lên khi tình hình trở nên tuyệt vọng hơn. Trong giai đoạn từ năm 1522 đến năm 1524, Lika gần như bị bỏ hoang hoàn toàn. Giống như những nơi khác, người Ottoman sẽ tiến hành tái định cư khu vực này bằng những người hầu của họ là người Wlach và người Serb điều này làm thay đổi bản sắc dân tộc của vùng đất. Sau năm 1522, khu vực Brlog gần Otočac đã bị bỏ hoang hoàn toàn. Các khu vực Modruš và Ozalj đã bị Akincis tàn phá tám lần chỉ trong năm 1523.
Thất bại trong Trận Mohacs năm 1526 đồng nghĩa với việc giờ đây chỉ còn nhà Habsburg hỗ trợ phòng thủ đất đai của Croatia. Đến năm 1526, Croatia đã mất một nửa lãnh thổ ban đầu, chỉ còn 50.000 km2.
Tất nhiên, các cuộc đột kích vẫn không dừng lại ngay cả sau năm 1526. Vào ngày 22 tháng 7 năm 1540, quân đội Ottoman với 10.000 kỵ binh và 5.000 bộ binh đã đột kích Croatia, bắt giữ 3.000 người theo đạo Thiên chúa. Cùng năm đó, cuộc điều tra dân số của Ottoman liệt kê những vùng rộng lớn Sanjak của Bosnia và Klis cụ thể là Lika, Krbava, Bukovica và Ravni Kotari thì hoàn toàn thưa thớt dân cư và không còn ai có thể canh tác. Trong khi đó, các cuộc đột kích của Ottoman vẫn diễn ra thường xuyên ở biên giới. Theo báo cáo của quý tộc Sanudo người Venice, đến năm 1533, người Thổ Nhĩ Kỳ đã bắt khoảng 600.000 người từ các vùng đất Croatia làm nô lệ.

2. Thiệt hại về kinh tế

Mức độ tàn phá cũng có thể thấy rõ qua khía cạnh tài chính. Đến năm 1555, Croatia chỉ thu được 1.327 forint thuế chiến tranh, trong khi chi phí phòng thủ biên giới Croatia được tính toán là 65.000 forint. Phần lớn chi phí này do các tỉnh Slovenia thuộc Đế chế Habsburg chi trả
Đến năm 1578, chi phí chiến tranh đã lên tới 550.000 forint, chủ yếu do các tỉnh của Slovenia chi trả. Từ năm 1578 đến năm 1594, các điền trang của Slovenia đã cung cấp 12.000.000 forint để phòng thủ Croatia (750.000 mỗi năm). Điều này đã mang lại kết quả. Năm 1593, Trận Sisak đánh dấu sự kết thúc của cuộc bành trướng của Ottoman vào Croatia và Hungary. Đế chế La Mã Thần thánh cũng góp phần: từ năm 1576 đến năm 1613, Đức đã chi 2.250.000 forint để phòng thủ Croatia (60.800 mỗi năm).
Đến năm 1689, Lika hoàn toàn không có người ở, mất 96% dân số ban đầu và Slavonia cúng đã mất 80% dân số. Cuộc điều tra dân số Habsburg, được thực hiện ngay sau trận đại chiến với Thổ ( 1683-1699) đã tiết lộ tình hình. Năm 1696, huyện Osijek có 8 ngôi làng có người ở và 313 ngôi làng bị bỏ hoang. Huyện Požega có 131 ngôi làng có người định cư và 181 ngôi làng bị bỏ hoang. Tám ngôi làng của huyện Osijek có 471 ngôi nhà, 3 292 cư dân, 2 047 con gia súc, 1 998 jutars (1 150 Ha, 11,5 km2). Khu vực Požega với 131 ngôi làng có 1.628 ngôi nhà, 8.202 cư dân, 11.970 con gia súc, 1.894 jutar đất canh tác và 4.388 cuốc vườn nho. Đến năm 1698, toàn bộ Slavonia có 491 khu định cư và từ 70.000 đến 80.000 cư dân. Các thành phố lớn nhất ở Slavonia như Osijek, Virovitica và Požega có từ 600 đến 800 cư dân. Tình hình đã được cải thiện phần nào với sự di cư của người Croatia từ Bosnia.

3. Câu chuyện tôn giáo

Cuối cùng, quá trình Hồi giáo hóa đã gây ra thiệt hại đáng kể, có thể thấy từ hai cuộc điều tra dân số Ottoman:
Vào năm 1528/29, ở Bosna và Hercegovina lúc đó có:
220 000 người Hồi giáo (34%)
360 000 người Công giáo (57%)
55 000 Chính thống giáo (9%)
Vào năm 1624 có:
300 000 người Hồi giáo (67%)
100 000 người Công giáo (22%)
50 000 Chính thống giáo (11%)
Từ năm 1463 đến năm 1600, khoảng 300.000 người Croatia gốc Bosnia đã cải sang đạo Hồi, đặc biệt là kể từ khi cuộc đàn áp công khai người Công giáo bắt đầu ở Đế chế Ottoman sau năm 1516 (phá hủy nhà thờ, trừng phạt thân thể tín đồ, hành quyết giáo sĩ). Chỉ riêng trong các cuộc tàn sát năm 1524, khoảng 120.000 - 150.000 người Croatia có thể đã cải sang đạo Hồi.

4. Kết luận

Cuối cùng, giữa những mất mát về lãnh thổ, số người tử vong và những chuyến di cư thì hoàn toàn có khả năng Croatia đã mất từ ​​80% đến 90% tổng dân số trong các cuộc chiến tranh Ottoman.